LỜI CẢM ƠN .i
TÓM TẮT .ii
LỜI CAM ĐOAN . iii
MỤC LỤC .iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ.vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU. viii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT.ix
MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN .5
1.1. Vật liệu sắt điện và tính chất của vật liệu sắt điện.5
1.1.1. Vật liệu sắt điện.5
1.1.2. Hiện tượng phân cực sắt điện.9
1.1.3. Domain sắt điện.10
1.1.4. Quá trình phân cực sắt điện.13
1.1.5. Chu trình điện trễ .14
1.2. Vật liệu sắt điện không chì BNKT.15
1.2.1. Sự phát triển của vật liệu sắt điện không chì BNKT .15
1.2.2. Các phương pháp chế tạo vật liệu sắt điện không chì BNKT.16
1.2.3. Ảnh hưởng của pha tạp đến tính chất vật liệu sắt điện không chì BNKT .18
1.2.3.1. Ảnh hưởng của pha tạp kim loại đến tính chất của BNKT .18
1.2.3.2. Ảnh hưởng của pha A’B’O3 đến tính chất của BNKT .19
1.3. Kết luận chương 1 .20
CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM .21
2.1. Chế tạo màng sắt điện bằng phương pháp quay phủ sol-gel.21
2.1.1. Quy trình chế tạo màng bằng phương pháp quay phủ sol-gel .21
2.1.2. Quy trình tạo Sol .23
2.1.3. Quy trình tạo gel và tinh thể hoá tạo màng .26
2.1.4. Quy trình chế tạo điện cực cho màng BNKT, BNKT-xBFO.28
75 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 19/02/2022 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chế tạo và khảo sát các tính chất của màng sắt điện không chứa chì bnkt pha tạp fe có cấu trúc micro - Nano, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i(OC4H9)4) hoặc titanium isopropoxide
(Ti(OC3H7)4) được sử dụng để chế tạo tiền dung dịch BNKT. Sau đó dung dịch (sol) được
sấy để tạo thành keo (gel) khô. Cuối cùng keo khô được nung và ủ để loại bỏ các thành
phần hữu cơ và thúc đẩy quá trình kết tinh tương ứng. Đây là phương pháp với nhiều ưu
điểm như: thiệt bị đơn giản, chi phí thấp, quy trình chế tạo ngắn, có thể dễ dàng thay đổi
chiều dày cũng như thành phần các chất có trong màng nên được sử dụng rộng rãi. Một vài
ưu điểm khác của phương pháp này cũng được chúng tôi trình bày ở phần thực nghiệm.
Ngoài ra, màng BNKT và dây nano cũng được chế tạo bằng phương pháp quay phủ
sol-gel và kỹ thuật mạ điện như báo cáo của X. Chen và cộng sự [18]. Sau khi chế tạo sol,
màng và dây nano BNKT được chế tạo trên đế Pt/Ti/SiO2/Si bằng phương pháp quay phủ
và mạ điện tương ứng. Màng BNKT pha tạp Li được phát triển bằng phương pháp lắng
đọng xung laser (PLD) sử dụng nguồn phát laser krypton fluoride (KrF) với bước sóng 248
nm [67].
18
1.2.3. Ảnh hưởng của pha tạp đến tính chất vật liệu sắt điện không chì BNKT
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tính chất của vật liệu sắt điện không chì trong quá
trình chế tạo khác nahu, với các phương pháp chế tạo khác nhau như: các yếu tố về điều
kiện nhiệt độ, thời gian ủ, nung nhiệt, áp suất, chiều dày, ảnh hưởng của đế v.v hay các yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp tới cấu trúc, thành phần của vật liệu như sự pha tạp đất hiếm, kim
loại chuyển tiếp v.v. Trong luận văn này tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của sự pha
dung dịch rắn A’B’O3 và một vài kim loại khác trong vật liệu BNKT.
1.2.3.1. Ảnh hưởng của pha tạp kim loại đến tính chất của BNKT
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay thế Ta5+ vào vị trí Ti4+ trong gốm
Bi0,5(Na0,82K0,18)0,5TiO3, N. Binh và cộng sự đã thu được mẫu gốm có giá trị Smax/Emax lớn
nhất bằng 566 pm/V tại nồng độ 2 mol.% Ta, lớn hơn nhiều so với giá trị 233 pm/V khi
không pha tạp Ta [10]. Bên cạnh đó, K. Nam và cộng sự đã cải thiện đáng kể hệ số Smax/Emax
lên trên 641 pm/V với 3 mol.% Nb5+ thay thế vào vị trí ion Ti4+ [46]. Trong nghiên cứu của
A. Hussain và cộng sự về sự thay thế của Zr4+ vào vị trí Ti4+, hệ số dẫn nạp áp điện của
mẫu đạt giá trị 641 pm/V với nồng độ Zr4+ là 0,3 mol [28]. Hệ Bi0,5(Na0,78K0,22)0,5(Ti1-
xHfx)O3 có sự cải thiện đáng kể về độ biến dạng do điện trường lên 0,38% tương ứng với
tỷ số Smax/Emax là 475 pm/V ở nồng độ x = 0,3 trong điện trường 80 kV/cm [29]. Hệ
Bi0,5(Na0,82K0,18)0,5TiO3 pha tạp Y được báo cáo bởi S. Lee và cộng sự đã tối ưu hệ số dẫn
nạp áp điện lên 278 pm/V ở 0,7% khối lượng Y pha tạp, cao hơn so với giá trị 228 pm/V
của mẫu không pha tạp [35]. Gốm [Bi0,5(Na1-x-yKxLiy)0,5]TiO3 thể hiện đặc trưng áp điện
và sắt điện rất tốt với hằng số áp điện d33 = 231 pC/N, hệ số ghép cơ điện theo bề mặt và
chiều dày tương ứng kp = 41,0% và kt = 50,5%, độ phân cực dư Pr = 40,2 µC/cm2, và
trường điện kháng EC = 2,47 kV/mm [40]. Gần đây, trong nghiên cứu ảnh hưởng của Sn
pha tạp lên BNKT mà cụ thể là Bi0,5(Na82K18)0,5TiO3, S. Lee và cộng sự đã nhận được
mẫu gốm có hệ số dẫn nạp áp điện Smax/Emax cao khoảng 585 pm/V ứng với 5 mol.% Sn
thay thế [36]. Bên cạnh đó, bằng việc thay thế các ion K+ và Ag+ vào gốm Bi0,5Na0,5TiO3,
Y. Liao và cộng sự đã nhận được mẫu gốm có tính chất tốt với hệ số áp điện d33 = 189
pC/N, hệ số kp = 35,0%, độ phân cực dư Pr = 39,5 µC/cm2, và trường điện kháng EC =
2,3 kV/mm [39]. Bằng việc đồng thay thế Ag và Ba tương ứng vào vị trí A và B, Y. Isikawa
và cộng sự đã cải thiện được tính chất áp điện của vật liệu [31]. Đồng thời, nhóm của
Isikawa cũng cho thấy rằng việc pha tạp La2O3/MnO vào gốm BNKAT-BT đã tăng cường
hệ số lên 415 pm/V do sự chuyển pha từ thuận điện sang sắt điện trong điện trường ngoài
[31].
19
Nhìn chung, việc thay thế các kim loại khác vào gốm BNKT cũng góp phần làm cải
thiện tính chất áp điện của vật liệu. Điều này có thể bắt nguồn từ sự chênh lệch bán kính
giữa ion gốc và ion kim loại thay thế gây nên méo mạng tinh thể.
1.2.3.2. Ảnh hưởng của pha A’B’O3 đến tính chất của BNKT
Hệ hai thành phần Bi0,5(Na0,78K0,22)TiO3 ở phía hợp phần tứ giác của biên pha hình
thái cho hệ số biến dạng cao 0,23% và hệ số dẫn nạp áp điện tương ứng 291 pm/V trong
điện trường 80 kV/cm phù hợp với các ứng dụng linh kiện cơ điện [65]. Bằng việc pha
thêm BiAlO3, A. Ullah và cộng sự đã nâng cao được tính chất áp điện của gốm
Bi0,5(NaK)0,5TiO3 và nhận được hệ số dẫn nạp áp điện Smax/Emax khá cao khoảng 592 pm/V
ở 0,03 mol.% BiAlO3, gần biên pha tứ giác – giả lập phương [65]. Tuy nhiên hệ số Smax/Emax
giảm xuống 579 pm/V nếu BiAlO3 được thay thế bởi Bi0,5La0,5AlO3 trong
Bi0,5(Na0,78K0,22)0,5TiO3 [66]. D. Ngoc và cộng sự khi nghiên cứu ảnh hưởng của dung dịch
rắn Sr(K1/4Nb3/4)O3 lên tính chất của Bi1/2(Na0,82K0,18)1/2TiO3 đã thu được hệ số biến dạng
theo nhiệt độ là 0,38 pm/V/K [49]. Theo báo cáo của K. Wang và cộng sự, tính chất áp điện
của gốm Bi0,5(Na0,8K0,2)TiO3 được cải thiện đáng kể khi pha tạp SrTiO3, với hệ số biến
dạng đơn cực lớn khoảng 0,36% (Smax/Emax = 600 pm/V) tại nồng độ SrTiO3 thay thế
5 mol.% trong điện trường 6 kV/mm và nhiệt độ phòng [69]. A. Hussain và cộng sự khi
nghiên cứu ảnh hưởng của K0,5Na0,5NbO3 pha tạp lên tính chất của
Bi0,5(Na0,78K0,22)0,5TiO3 đã thu được mẫu với hệ số Smax/Emax đạt giá trị cực đại ~ 434
pm/V ở nồng độ dung dịch rắn pha tạp 3 mol.% [30]. N. Binh và cộng sự đã thu được mẫu
với hệ số EFIS cao nhất là 443 pm/V khi pha tạp 4 mol.% LiTaO3 vào 78Bi0,5Na0,5TiO3 -
18Bi0,5K0,5TiO3-4LiTaO3 [9]. Gần đây D. Ngoc và cộng sự đã nâng hệ số biến dạng của
gốm Bi0,5(Na0,82K0,18)0,5TiO3 lên hai lần nhờ pha tạp thêm 2 mol.% BaZrO3 vào
Bi0,5(Na0,82K0,18)0,5TiO3 [48]. Ngoài ra, hệ số dẫn nạp áp điện của gốm (BNKT)
Bi0,5(Na0,78K0,22)0,5TiO3 được cải thiện đáng kể nhờ sự chuyển pha gây bởi CaZrO3 và đạt
giá trị cao nhất Smax/Emax = 617 pm/V ở nồng độ 3 mol.% CaZrO3 pha tạp [27]. Theo nghiên
cứu của K. Kang và cộng sự, hệ số Smax/Emax của Bi0,5(Na0,82K0,18)0,5TiO3 tăng từ 333
pm/V đến 363 pm/V tương ứng với sự giảm nồng độ CuO thay thế từ 4 mol.% đến 2
mol.% [34]. Các hệ Ba0,85Ca0,15Ti0,90Zr0,10O3, BaTiO3, NaSbO3, LiNbO3, BiGaO3 và
Ba0,85Ca0,15Ti0,90Zr0,10O3 khi được pha tạp vào gốm Bi0,5(NaK)0,5TiO3 cũng cho thấy sự
cải thiện tính chất áp điện của gốm [38, 45, 52, 72, 75, 81-83]. Thú vị hơn, các vật liệu multiferroic
như BiMnO3 và BiCrO3 khi pha tạp vào BNKT dẫn tới cải thiện tính chất cơ điện của vật
liệu [75, 80].
20
Như vậy, các dung dịch rắn perovskite A’B’O3 khác với A’ và B’ cùng khuyếch tán
vào các vị trí A và B của BNKT như sự pha tạp, dẫn đến sự cải thiện hệ số dẫn nạp áp
điện cũng như tính chất sắt điện của vật liệu. Điều này được cho là bắt nguồn từ (i) sự
méo mạng cấu trúc, (ii) sự chuyển pha từ pha phân cực sang pha không phân cực và (iii)
sự phát triển của pha phân cực trong ma trận pha không phân cực.
1.3. Kết luận chương 1
Tổng kết lại, nội dung của chương 1 tập trung vào một số vấn đề chính sau:
Cơ sở lý thuyết, tổng quan về vật liệu, hiện tượng sắt điện, các tính chất và phương
pháp chế tạo của vật liệu sắt điện nói chung và vật liệu sắt điện không chì BNKT nói riêng.
Các kết quả nghiên cứu gần đây về vật liệu sắt điện không chì BNKT được trình bày trên
cơ sở phân tích ảnh hưởng của việc pha tạp kim loại và dung dịch rắn perovskite A’B’O3
đến tính chất của vật liệu này. Hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định sự cải thiện hệ số
dẫn nạp áp điện được quan sát ở trên liên quan đến (i) sự méo cấu trúc, (ii) sự chuyển pha
từ pha phân cực sang pha không phân cực, và (iii) sự phát triển của pha phân cực trong ma
trận pha không phân cực.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra phương hướng cải thiện tính chất của vật liệu sắt điện
BNKT: Đầu tiên, tối ưu điều kiện chế tạo màng BNKT khi sử dụng phương pháp sol-gel
(cụ thể là nhiệt độ ủ kết tinh và thời gian ủ kết tinh tối ưu). Tiếp theo, pha tạp Fe dưới dạng
một perovskite thứ hai BiFeO3 vào BNKT tạo thành (BNKT-xBFO). Khi đó ion Fe3+ với
bán kính lớn hơn sẽ thay thế vào vị trí của Ti4+ có bán kính nhỏ hơn tại vị trí B (RTi4+ =
0.605 Å, RFe3+ = 0.645 Å) và pha tạp dưới dạng một perovskite A’B’O3 khác cũng gây nên
sự méo mạng tinh thể và các thay đổi cấu trúc này giúp nâng cao tính chất của vật liệu sắt
điện BNKT. Màng sắt điện BNKT có vị trí quan trong trong thực tế hiện nay với nhiều ứng
dụng mới về siêu tụ, tích trữ năng lượng v.v nên được luận văn chọn để nghiên cứu.
21
CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
Các phương pháp thực nghiệm trong luận văn bao gồm phương pháp chế tạo màng
sắt điện không chì BNKT và màng BNKT-xBFO, khảo sát cấu trúc, vi cấu trúc, tính chất
sắt điện, tính chất từ của các màng sắt điện đã chế tạo. Những thiết bị phục vụ nghiên cứu
trong luận văn, chủ yếu được thực hiện tại Đại học Bách Khoa Hà Nội và Phòng thí nghiệm
trọng điểm công nghệ Micro và Nano, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Với sự đồng bộ, hiện đại các thiết bị này cho kết quả với có độ tin cậy cao hoàn toàn
đáp ứng yêu cầu của luận văn thạc sĩ.
2.1. Chế tạo màng sắt điện bằng phương pháp quay phủ sol-gel
Phương pháp sol-gel là phương pháp hóa học được ứng dụng để chế tạo vật liệu nano.
Phương pháp này được R. Rog đề xuất năm 1956 cho phép trộn các chất ở quy mô nguyên
tử. Bản chất của quá trình sol-gel là phản ứng thủy phân và phản ứng ngưng tụ. Một cách
tổng quát, quá trình sol-gel là một quá trình liên quan đến hóa lý của sự chuyển đổi của một
hệ thống từ precursor (sol tiền chất) thành pha lỏng dạng sol sau đó tạo thành pha rắn dạng
gel theo mô hình precursor → sol → gel. Phương pháp sol-gel có nhiều ưu điểm tiềm năng
hơn các phương pháp khác không chỉ ở chỗ tạo được mức độ đồng nhất của các cation kim
loại ở quy mô nguyên tử mà còn có thể chế tạo vật liệu ở dạng khối, màng mỏng, sợi và
hạt. Đây là yếu tố công nghệ vô cùng quan trọng khi chế tạo vật liệu oxit phức hợp chất
lượng cao. Trong luận văn này, phương pháp quay phủ sol-gel được lựa chọn để chế tạo
màng sắt điện không chì BNKT và màng BNKT-xBFO. Dưới đây, quy trình chế tạo màng
bằng phương pháp quay phủ sol-gel được trình bày một cách cụ thể và chi tiết.
2.1.1. Quy trình chế tạo màng bằng phương pháp quay phủ sol-gel
Phương pháp quay phủ sol-gel là quy trình tổng hợp vật liệu dạng oxit từ các hệ keo
phân tán. Các bước cơ bản của quy trình quay phủ sol-gel điển hình được trình bày trên
hình 2.1.
Hình 2. 1. Quy trình tổng hợp vật liệu BNKT bằng phương pháp quay phủ sol-gel [4]
22
Nguyên liệu chế tạo sol thường dùng là muối và alkoxide của các kim loại. So với
nguồn nguyên liệu ban đầu là muối thì việc dùng alkoxide đắt tiền hơn nhưng lại cho độ
sạch cao hơn. Các alkoxide kim loại là hợp chất có công thức hoá học dạng M(OR)n. Giai
đoạn chuẩn bị sol được thực hiện bằng cách hoà tan nguồn alkoxide trong dung môi thích
hợp. Quá trình hình thành các hạt sol khi đó cũng như cấu trúc và đặc tính của chúng do
hai phản ứng sau quyết định [42]:
Phản ứng thuỷ phân:
M(OR)n + H2O → M(OR)n-1(OH) + ROH (2.1)
Phản ứng ngưng tụ hình thành liên kết M-O-M:
2M(OR)n-1(OH) → M2O(OR)2n-2 + H2O (2.2)
Hay
M(OR)n + M(OR)n-1(OH) → M2O(OR)2n-2 + ROH (2.3)
Thông thường các alkoxide kim loại phản ứng rất mãnh liệt với nước, các kết tủa
nhanh chóng hình thành và tách ra khỏi dung dịch. Để đảm bảo cho các phản ứng ngưng tụ
mong muốn xảy ra thì vấn đề kiểm soát được tốc độ thuỷ phân phải được giải quyết. Có hai
phương pháp điều khiển tốc độ thuỷ phân dùng trong thực tế như là:
Thế gốc alkoxy: Cho alkoxide phản ứng với dung môi thích hợp có thể thế hoàn toàn
gốc alkoxy nhậy cảm với nước bằng gốc ít nhậy cảm hơn.
M(OR)n + nR’OH → M(OR’)n + nROH (2.4)
Các dung môi hay dùng trong phương pháp này là 2-methoxyethanol.
Biến tính alkoxide: Cho thêm các chất như axit acetic, acetylacetone có thể thay thế
một phần gốc alkoxy bằng các gốc mà sản phẩm tạo ra sẽ ổn định và ít nhậy cảm với nước
hơn.
M(OR)n + xCH3COOH → M(OR)n-x(OOCCH3)x + xROH (2.5)
Quá trình Gel hoá được thúc đẩy bằng các tác nhân như là nhiệt độ để bay hơi bớt lượng
dung môi, các hạt sol khi đó sẽ liên kết với nhau để tạo ra khung rắn ba chiều chiếm toàn bộ
thể tích dung dịch. Quá trình làm khô làm bay hơi hết dung môi cũng như đốt cháy các hợp
chất hữu cơ còn sót lại. Vật liệu sau giai đoạn này còn ở dạng vô định hình, để có vật liệu kết
tinh cần phải có giai đoạn ủ nhiệt ở nhiệt độ thích hợp.
23
2.1.2. Quy trình tạo Sol
Quy trình tạo sol được tiến hành lần lượt: tạo sol BNKT trước tiên, rồi sau đó là sol
BFO và cuối cùng là trộn hai sol vừa chế tạo để thu được sol BNKT-xBFO. Cụ thể quy
trình tạo sol được trình bày chi tiết dưới đây:
Sol Bi0,5(Nao,8K0,2)0,5TiO3 được chế tạo theo phương trình đầu cuối sau:
0,5Bi(NO3)3.5H2O + 0,5×0,8NaNO3 + 0,5×0,2KNO3 + C12H28O4Ti → Bi0,5(Na0,8K0,2)0,5TiO3 (2.6)
Sol BiFeO3 được chế tạo theo phương trình đầu cuối sau:
Bi(NO3)3.5H2O + Fe(NO3)3.9H2O → BiFeO3 (2.7)
Hình 2. 2. Quy trình chế tạo sol BNKT
Các hóa chất sử dụng để chế tạo sol được trình bày cụ thể trong bảng 2.1. Lượng dung
môi và hóa chất cần thiết được tính toán cho sol BNKT, sol BFO với nồng độ 1/3M. Theo
phương trình đầu cuối (2.6) và (2.7), khối lượng các hóa chất sử dụng được tính toán cẩn
thận theo tỷ lệ hợp thức, theo các nồng độ mol khác nhau của các sol BNKT và sol BFO.
Hình 2.2 minh họa quy trình chế tạo sol BNKT ban đầu. Từ các muối, tiến hành chế
tạo các tiền chất riêng rồi sau đó mới trộn tất cả các tiền chất với nhau thành tiền chất chung.
Sử dụng thiết bị máy khấy từ, điều kiện khấy ở nhiệt độ 70oC:
24
Bảng 2. 1. Hóa chất được sử dụng để chế tạo sol BNKT, BNKT-xBFO
Quá trình chế tạo các tiền chất được trình bày cụ thể chi tiết dưới đây:
Chế tạo tiền chất Bi:
Hình 2. 3. Chế tạo tiền chất Bi
- Cân muối Bi(NO3)3.5H2O theo đúng tỷ lệ hợp thức.
- Dung môi MOE và CH3COOH được trộn theo tỷ lệ thể tích 1:1.
- Hỗn hợp được khuấy đều ở nhiệt độ 70oC trong 5 giờ.
- Tiền chất Bi sau đó được bảo quản trong tủ lạnh.
25
Chế tạo tiền chất Ti:
Hình 2. 4. Chế tạo tiền chất Ti
- (C12H28O4)Ti alkoxide được lấy theo tỷ lệ hợp thức.
- Dung môi C5H8O2 được lựa chọn.
- Hỗn hợp được khuấy đều ở nhiệt độ 70oC trong 5 giờ.
- Tiền chất Ti sau đó được bảo quản trong tủ lạnh.
Chế tạo tiền chất Na và K:
Hình 2. 5. Chế tạo tiền chất Na, K
- Các muối NaNO3, KNO3 được cân theo tỷ lệ hợp thức.
- Dung môi MOE và CH3COOH được trộn theo tỷ lệ thể tích 1:1.
- Hỗn hợp được khuấy đều ở nhiệt độ 70oC trong 5 giờ.
- Tiền chất Na và K sau đó được bảo quản trong tủ lạnh.
26
Chế tạo tiền chất BNKT:
Hình 2. 6. Chế tạo tiền chất BNKT
- Trộn các tiền chất của Bi, Na và K, Ti với nhau.
- Hỗn hợp được khuấy đều tại nhiệt độ 70oC trong 5 giờ.
Tiền chất BNKT tiếp tục được khấy đều tại nhiệt độ 70oC trong 5 giờ nữa để thu được
sol BNKT. Sau khi được lọc bằng giấy lọc, sol BNKT được bảo quản trong tủ lạnh, sẵn
sàng để quay phủ tạo màng hay tạo sol BNKT-xBFO.
Tương tự quy trình chế tạo sol BNKT, sol BFO được tạo thành khi trộn tiền chất Bi
(từ muối Bi(NO3)3.5H2O) và tiền chất Fe (từ mối Fe(NO3)3.9H2O) với nhau. Sau khi lọc và
thu sol BFO, ta tiến hành pha trộn thêm với sol BNKT ban đầu để tạo thành sol BNKT-
xBFO, trong đó x là nồng độ mol với các tỉ lệ khác nhau (x = 0.02; 0.04; 0.06; 0.08 và 0.10).
2.1.3. Quy trình tạo gel và tinh thể hoá tạo màng
Quy trình tạo gel và tinh thể hóa màng BNKT được minh họa trên hình 2.7 dưới đây.
Màng BNKT được tạo trên đế Pt/Ti/TiO2/Si bằng phương pháp quay phủ (spin coating).
Các mẫu được đặt lên giá giữ mẫu và được giữ lại bằng lực hút của bơm chân không. Tốc
độ và thời gian quay của mẫu được điều khiển tự động: 1000 vòng/ phút trong 5 giây sau
tăng lên 4000 vòng/ phút trong 25 giây.
27
Hình 2. 7. Sơ đồ quy trình tạo màng BNKT
Dưới tác động của lực quán tính, dung dịch sol sau khi nhỏ xuống bề mặt đế sẽ dàn
đều thành màng ướt. Quá trình bay hơi dung môi và tạo thành gel (thực hiện các phản ứng
ngưng tụ) sẽ được thúc đẩy bởi quá trình xử lý nhiệt.
Quá trình ủ nhiệt là một quá trình rất quan trọng, nó quyết định tới chất lượng của
màng BNKT chế tạo. Sau khi quay phủ, mẫu được sấy khô trong không khí ở nhiệt độ
150oC trong vòng 5 phút bằng thiết bị “Hot plate”. Để làm bay hơi các dung môi hữu cơ,
gel khô được ủ sơ bộ ở 400oC trong 5 phút, sau đó là 550oC khoảng 5 phút trong không khí.
Quy trình này được lặp lại một số lần, như trên hình 2.7 cho đến khi thu được màng có bề dày
như yêu cầu (khoảng 6 lần). Cuối cùng, các màng này được ủ kết tinh trong điều kiện oxy khí
quyển. Để nghiên cứu điều kiện công nghệ chế tạo ảnh hưởng tới tính chất của màng BNKT,
luận văn đã khảo sát: Hệ thứ nhất thay đổi nhiệt độ ủ kết tinh của màng BNKT từ 600; 650;
700 và 750oC ủ trong 60 phút được ký hiệu tương ứng là S600, S650, S700 và S750. Hệ
thứ hai thay đổi thời gian ủ kết tinh từ 10; 20; 40 và 60 phút với nhiệt độ ủ là 700oC được ký
hiệu tương ứng là: S10, S20, S40 và S60. Tốc độ gia nhiệt là 5oC/ phút và được điều khiển tự
động theo quy trình cài đặt trên thiết lò nung.
Đối với hệ màng BNKT-xBFO trong đó x là các tỉ lệ nồng độ pha tạp khác nhau (x =
0.02; 0.04; 0.06; 0.08 và 0.10), cũng được chế tạo với quy trình tương tự như trên trong
điều kiện tối ưu đã khảo sát (nhiệt độ ủ kết tinh tối ưu là 700oC và thời gian ủ kết tinh tối
ưu là 60 phút).
28
2.1.4. Quy trình chế tạo điện cực cho màng BNKT, BNKT-xBFO
Sau bước ủ nhiệt, màng được tiến hành đo đạc các tính chất hình thái học bề mặt
(FE-SEM, SEM, AFM) và thành phần cấu trúc (XRD), tính chất của các màng đã chế
tạo như hình 2.8 (a).
Hình 2. 8. (a)Màng sắt điện sắt BNKT chưa phủ điện cực,
(b) Hình ảnh điện cực trên (Pt) của màng và (c) Màng BNKT đã phủ điện cực
Tuy nhiên, để có thể đo đạc tính chất sắt điện của các màng cần thêm một quy trình
chế tạo điện cực trên và dưới như hình 2.8 (b-c).
Hình 2.9 dưới đây, mô tả quy trình chế tạo điện cực trên và dưới cho màng sắt điện
bao gồm hai bước chính: tạo điện cực trên Pt (minh họa trên hình 2.9 (a-d)) và ăn mòn
lớp màng sắt điện tạo điện cực dưới minh họa trên hình 2.9 (e-f)).
Hình 2. 9. Sơ đồ quy trình chế tạo điện cực cho màng sắt điện BNKT, BNKT-xBFO
[4]
Chi tiết của quá trình tạo điện cực cho màng được mô tả trong bảng 2.2.
29
Bảng 2. 2. Thông tin chi tiết về quá trình tạo điện cực cho màng sắt điện [4]
2.2. Các phương pháp khảo sát hình thái, cấu trúc và tính chất của vật liệu
Trong phần này, luận văn trình bày các thiết bị và phương pháp khảo sát hình thái,
cấu trúc, vi cấu của vật liệu cũng như đo đạc các tính chất của các màng sắt điện BNKT và
BNKT-xBFO sau khi đã chế tạo thành công.
2.2.1. Khảo sát hình thái bề mặt vật liệu bằng kính hiển vi lực nguyên tử AFM
Kính hiển vi lực nguyên tử (AFM - Atomic force microscope) là một thiết bị quan sát
cấu trúc vi mô bề mặt của vật rắn dựa trên nguyên tắc xác định lực tương tác nguyên tử giữa
một đầu mũi dò nhọn với bề mặt của mẫu, có thể quan sát ở độ phân giải nm.
Bộ phận chính của AFM là một mũi nhọn được gắn trên một thanh rung (cantilever).
Mũi nhọn thường được làm bằng Si hoặc SiN và kích thước của đầu mũi nhọn là một
nguyên tử. Khi mũi nhọn quét gần bề mặt mẫu vật, sẽ xuất hiện lực Van Der Waals giữa
các nguyên tử tại bề mặt mẫu và nguyên tử tại đầu mũi nhọn (lực nguyên tử) làm rung thanh
cantilever. Lực này phụ thuộc vào khoảng cách giữa đầu mũi dò và bề mặt của mẫu. Dao
động của thanh rung do lực tương tác được ghi lại nhờ một tia laser chiếu qua bề mặt của
30
thanh rung, dao động của thanh rung làm thay đổi góc lệch của tia lase và được detector ghi
lại [4].Việc ghi lại lực tương tác trong quá trình thanh rung quét trên bề mặt sẽ cho hình ảnh
hình thái bề mặt của mẫu vật như hình 2.10 ảnh thiết bị và kết quả thu được từ máy AFM.
Hình 2. 10. Thiết bị kính hiển vi lực nguyên tử AFM SOLVER PRO
Kết quả thực nghiệm trong luận văn này được đo trên máy AFM, Solver PRO, đặt tại
Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ Micro và Nano, Trường Đại học Công nghệ, Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
2.2.2. Khảo sát hình thái bề mặt vật liệu bằng kính hiển vi điện tử quét SEM
Phương pháp kính hiển vi điện tử quét cho ảnh mẫu với độ phân giải cao. Hình 2.11
mô tả thiết bị SEM và các kết quả ảnh chụp SEM.
Nguyên lý hoạt động của thiết bị: Chùm điện tử sau khi đi qua hệ thống thấu kính
hội tụ và các cuộn quét điện tử tới bắn vào bề mặt mẫu nghiên cứu. Khi các điện tử tới
va chạm vào bề mặt mẫu làm phát ra các điện tử và sóng điện từ: điện tử tán xạ ngược,
điện tử Auger, tia X đặc trưng, huỳnh quang catot. Trong đó, hiệu suất phát xạ của điện
tử thứ cấp phụ thuộc vào hình thái bề mặt vật liệu tại vị trí phát xạ, phát xạ mạnh ở chỗ
mặt mẫu lồi, yếu ở chỗ mặt mẫu lõm. Đầu thu được bố trí để thu chùm điện tử thứ cấp
sẽ được khuyếch đại và hiển thị trên màn hình. Khi chùm điện tử tới quét trên bề mặt
mẫu thì tín hiệu thu được từ các điện tử thứ cấp được đồng bộ và quét trên màn hình
hiển thị, mỗi điểm trên mẫu tương ứng với điểm sáng trên màn hình hiển thị. Kết quả là
trên màn hình hiển thị sẽ sáng mạnh và ngược lại, chỗ nào mẫu tín hiệu phát ra yếu thì
31
chỗ tương ứng trên màn hình sẽ sáng yếu. Như vậy, ảnh thu được phản ánh bề mặt của
mẫu nghiên cứu.
Hình 2. 11. Thiết bị kính hiển vi điện tử quét SEM
Kết quả thực nghiệm trong luận văn này được đo trên hệ JEOL JEM 1010 đặt tại
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
2.2.3. Phương pháp nhiễu xạ tia X
Nhiễu xạ tia X (XRD) là phương pháp phổ biến được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc
tinh thể của các vật liệu. Từ giản đồ nhiễu xạ tia X có thể xác định được các pha tinh thể,
đồng thời có thể sử dụng để xác định tương đối về lượng pha và kích thước tinh thể. Phương
pháp nhiễu xạ tia X dựa trên hiện tượng nhiễu xạ gây bởi chùm tia X chiếu trên các mặt tinh
thể của vật liệu kết tinh tạo nên các cực đại và cực tiểu nhiễu xạ.
Khi chiếu một chùm tia X với bước sóng λ (có giá trị xấp xỉ khoảng cách giữa hai nút
mạng lân cận trong mạng Bravais) vào mạng tinh thể của vật liệu, hằng số mạng dhkl của họ
mặt tinh thể (hkl) thỏa mãn công thức Vulf-Bragg [1]:
2dhkl sin𝜃 = n λ (2.8)
Trong đó dhkl là khoảng cách giữa các mặt nguyên tử phản xạ (hkl), 𝜃 là góc phản xạ,
λ là bước sóng của tia X, và n là số bậc phản xạ. Tập hợp các cực đại nhiễu xạ Bragg dưới
các góc 𝜃 = arcsin(nλ/2dhkl) khác nhau có thể được ghi nhận bằng các đầu dò. Từ mối quan
hệ giữa dhkl và các hằng số mạng của từng loại hệ cấu trúc tinh thể ta có thể xác định được
một cách chính xác các hằng số mạng của hệ tinh thể đó.
32
Hình 2. 12. Sơ đồ của thiết bị nhiễu xạ tia X
Dưới đây là một số công thức áp dụng để tính hằng số mạng:
Hệ tinh thể lập phương:
1
𝑑ℎ𝑘𝑙
2 =
ℎ2 + 𝑘2 + 𝑙2
𝑎2
(2.9)
Hệ tinh thể tứ giác:
1
𝑑ℎ𝑘𝑙
2 =
ℎ2 + 𝑘2
𝑎2
+
𝑙2
𝑐2
(2.10)
Hệ tinh thể lục giác:
1
𝑑ℎ𝑘𝑙
2 =
4
3
ℎ2 + 𝑘2 + ℎ𝑘
𝑎2
+
𝑙2
𝑐2
(2.11)
Phép đo nhiễu xạ X-ray không những xác định được cấu trúc tinh thể của màng mà
còn có thể đánh giá được kích thước hạt của chúng. Các hạt nano có kích thước hạt nhỏ hơn
nm đều thể hiện sự mở rộng vạch nhiễu xạ tia X của chúng. Căn cứ vào sự mở rộng vạch,
có thể đánh giá kích thước hạt tinh thể. Kích thước hạt tinh thể D được xác định theo công
thức Scherrer [44]:
D =
0,9.𝜆
𝛽.𝑐𝑜𝑠𝜃
(2.12)
Trong đó, 𝜆 là bước sóng của chùm tia X, 𝛽 là độ rộng của nửa cực đại của vạch (rad),
𝜃 là góc nhiễu xạ. Với hệ thiết bị này, nguồn phát tia X là bức xạ của Cu với bước sóng (𝜆 =
0,0154 nm). Độ chính xác của phép đo được xác định theo thông số kỹ thuật của thiết bị vào
khoảng 0,004 độ.
33
Kết quả thực nghiệm trong luận văn này được đo trên máy XRD Bruker D8 Advanced
(Đức) tại Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ Micro và Nano, Trường Đại học Công
nghệ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2.2.4. Phương pháp đo đường cong điện trễ
Cấu tọa và nguyên lý đo đường cong điện trễ (P-E) dựa trên mạch cầu Sawyer–Tower
được mô tả trong hình 2.13 dưới đây:
Hình 2. 13. Cấu tạo thiết bị đo P-E và sơ đồ cầu Sawyer-Tower
Trong đó, Csense là tụ cảm ứng, Cm là tụ tương ứng với mẫu cần đo. Khi hệ được đặt trong
điện trường, tụ Csense sẽ ghi lại điện tích Q xuất hiện trên điện cực của mẫu gây bởi sự biến
dạng hay phân cực. Điện áp Vy do điện tích này gây ra [3]:
Vy =
𝑄
𝐶𝑠𝑒𝑛𝑠𝑒
(2.13)
Độ phân cực chính là mật độ điện tích định xứ trên điện cực diện tích A. Khi đó độ
phân cực của mẫu có biểu thức:
D ≈ P =
𝑄
𝐴
(2.14)
Khi điện trường EA = Vx/dm được đặt trên mẫu, dựa vào mối liên hệ giữa Vx và Vy ta
sẽ xác định được những đặc trưng P-E của mẫu:
EA =
1
𝑑𝑚
Vx (2.15)
34
P =
𝐶𝑠𝑒𝑛𝑠𝑒
𝐴
Vy (2.16)
Nếu vật liệu không có tính phân cực tự phát, đặc trưng P-E sẽ là đường thẳng có độ
dốc là Cm/Csen
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_che_tao_va_khao_sat_cac_tinh_chat_cua_ma.pdf