Trang phụ bìa . 1
Lời cam đoan . 2
Lời cám ơn . 5
Danh mục các hình . 6
Danh mục các bảng . 7
Mở đầu . 9
Chương I: Tổng quan về sử dụng enzyme cho sản xuất bột giấy . 13
1.1. Khái quát về enzym và một số tính chất của chúng . 13
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phản ứng được xúc tác
bởi enzym . 15
1.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ enzyme . 15
1.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ cơ chất . 15
1.2.3. Ảnh hưởng của chất kìm hãm . 16
1.2.4. Ảnh hưởng của ion kim loại . 17
1.2.5. Ảnh hưởng của pH đến độ bền enzyme . 17
1.2.6. Ảnh hưởng của nhiệt độ . 18
1.2.7. Ảnh hưởng của điều kiện bảo quản đến độ bền cuả enzyme. 20
1.2.8. Các yếu tố khác . 20
1.3. Các phương pháp xác định hoạt độ của enzym. . 21
1.4. Tình hình sản xuất và ứng dụng enzym ở Việt Nam và trên thế giới . 23
1.5. Ứng dụng enzym trong công nghiệp giấy . 25
1.5.1. Cơ sở lý thuyết . 25
1.5.2. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng enzyme cho tẩy trắng bột giấy . 34
1.6. Kết luận . 46
Chương II: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu . 47
2.1. Chuẩn bị nguyên liệu cho nghiên cứu . 47
71 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu sử dụng enzyme xylanaza để tẩy trắng bột giấy của công ty giấy Bãi Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục đích thương mại kinh tế mà còn
nhằm mục đích bảo vệ con người vµ môi trường sống của con người
1.5. Ứng dụng enzyme trong công nghiệp giấy
1.5.1. Cơ sở lý thuyết
Như đã biết màu sẫm của bột giấy (bột hóa) sau nấu là do lignin còn sót
lại trong bột gây nên. Enzyme phân huỷ lignin đã được sử dụng để xử lý phần
lignin này, nhưng kết quả chưa đạt được như mong đợi. Trong khi đó, hiện
nay tác nhân tẩy trắng sinh học đang được sử dụng hiệu quả là enzyme phân
huỷ hemixenluloza (các hemixenlulaza). Tẩy trắng với sự trợ giúp của
enzyme, và cụ thể là dùng enzyme phân huỷ hemixenluloza rất hiệu quả, dựa
trên thực tế là khi một phần hemixenluloza có trong bột sau nấu bị thuỷ phân
dưới tác dụng của hemixenlulaza thì khả năng tách và hòa tan lignin vào dung
dịch tăng lên.
Nhờ xử lý bột giấy bằng enzyme trước khi tiến hành các công đoạn tẩy
trắng thông thường khác, ta có thể giảm lượng hóa chất (như hợp chất clo)
dùng cho quá trình tẩy, bằng cách đó cũng giảm được lượng chất thải độc hại
26
thải ra ngoài, cải thiện được môi trường làm việc và giảm ảnh hưởng của sản
xuất tới môi trường xung quanh.
Như đã nêu trên, về mặt cơ chế hóa học, enzyme tác dụng lên các chủ
thể chỉ khi có tiếp xúc trực tiếp, điều đó có nghĩa là sự tạo thành tổ hợp
enzyme-chủ thể là giai đoạn cần thiết của quá trình xúc tác. Tiếp đó diễn ra sự
biến đổi chủ thể thành các sản phẩm và tách sản phẩm, trong khi đó enzyme
vẫn nguyên vẹn và giữ được khả năng thành lập liên kết với phân tử khác của
chủ thể (hình 1.5)
enzyme Chủ thể Tổ hợp Enzyme Sản phẩm
Enzyme-chủ thể
Hình 1.5. Cơ chế tác dụng của enzyme.
Chính vì vậy, để enzyme có thể tiếp xúc tốt với chủ thể thì chủ thể phải
có kích thước và khả năng phản ứng phù hợp. Trong số các dạng nguyên liệu
thực vật và bán thành phẩm từ chúng, thì bột giấy là dạng chủ thể có thể phù
hợp cho các phản ứng với sự tham gia của enzyme.
Xuất phát từ cơ sở đó, enzyme đã được nghiên cứu và áp dụng cho tẩy
trắng bột giấy lần đầu tiên vào năm 1986. Chỉ trong một thời gian ngắn, đến
năm 1990 chúng đã được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất bột
giấy. Đến nay các loại enzyme sử dụng cho tẩy trắng bột giấy chủ yếu là các
27
loại xylanaza. Không chỉ trong quá trình tẩy trắng, chúng còn được sử dụng
cho nhiều công đoạn khác trong quá trình sản xuất bột giấy và giấy [7,20].
Xylanaza xúc tác quá trình thủy phân xylan trong bột giấy. Có thể hình
dung tác dụng của xylanaza trong quá trình tẩy trắng bột giấy như sau:
xylanaza xúc tác thủy phân xylan thành các thành phần nhỏ, làm cho các
“mảng” đại phân tử lignin đang liên kết với xylan bị “lộ diện” và nó dễ dàng
chịu tác dụng của các chất tẩy trong quá trình tẩy trắng tiếp theo. Như vậy, có
thể nói xylanaza không trực tiếp là tác nhân tẩy trắng bột giấy, tức không
phân hủy lignin, mà chỉ nâng cao hiệu quả tẩy trắng, như nâng cao độ trắng
của bột với cùng một lượng chất tẩy sử dụng hay giảm được mức sử dụng
chất tẩy ở cùng một độ trắng của bột giấy [6,14]
Đối với hemixenluloza nói chung, do cấu tạo phức tạp nên cần có nhiều
loại enzyme khác nhau để phân huỷ hoàn toàn. Hai loại enzyme chủ yếu có
tác dụng phân huỷ mạnh mạch phân tử hemixenluloza là endo-1,4-β-D-
xylanaza và endo-1,4-β-D-mananaza. Các oligosacarit bị thuỷ phân bởi 1,4-β-
D-xylosidaza, 1,4-β-D-manosidaza và 1,4-β-D-glucosidaza. Trong khi đó các
mạch nhánh bị phân huỷ dưới tác dụng của α-L-arabinosidaza, α-D-
glucosidaza và α-D-galactosidaza. Các nhóm liên kết este trong
hemixenluloza có thể bị được tách ra dưới tác dụng của axetylxylan
esteraza.Trong công nghiệp người ta sản xuất hai loại hemixenlulaza là endo-
1,4 –β-D-xylanaza và endo-1,4 – β -D-mananaza, đuợc gọi tương ứng là
xylanaza và mananaza, trong đó xylanaza được ứng dụng nhiều hơn trong tẩy
trắng bột giấy. Tác dụng của xylanaza thể hiện ở sự phân hủy chuỗi phân tử
xylan (chủ thể) thành các mảng phân tử nhỏ hơn (sản phẩm). Endoxylanaza
có thể tách các liên kết yếu bất kỳ của mạch chính xylan và các liên kết
lignocacbohydrat, trong khi đó endomananaza lại tách các mắt đơn phân đầu
chuỗi ra khỏi chuỗi phân tử xylan bằng cách làm gián đoạn liên kết 1,4- β
giữa hai phân tử xyloza [24]
28
Ngoài xylanaza ra, các enzyme trực tiếp phân hủy lignin, như laccaza
cũng được nghiên cứu sử dụng. Enzyme này thuộc nhóm phức chất của đồng,
có thể giải phóng ra nguyên tử oxy có khả năng oxi hóa các hợp chất thơm.
Tuy nhiên, chỉ có một mình enzyme này cũng khó có thể tách lignin ra khỏi
bột, nó cần được bổ sung cùng với một chất xúc tác khác để tăng hiệu quả
hơn [11].
Sự kết hợp thành công của 2 phương pháp sử dụng enzyme (xử lý bằng
xylanaza và bằng laccaza+xúc tác oxy hóa) đã tăng hiệu quả tách loại lignin.
Đây được xem là một quy trình tẩy trắng thân thiện môi trường có nhiều triển
vọng.
Quá trình sản xuất bột giấy là quá trình phức tạp bao gồm nhiều phản
ứng hóa học, nên một phần lớn enzyme được sử dụng để cải thiện quá trình
truyền thống nhằm nhiều mục đích khác nhau.
Việc ứng dụng enzyme này hay enzyme khác dựa trên tác dụng mà
chúng có thể mang lại khi tác động lên các thành phần của gỗ và bột giấy. Các
tác dụng của một số enzyme có thể tóm tắt ở bảng 1.1[4]:
Bảng 1.1. Tác dụng của enzyme lên một số thành phần của gỗ
Thành phần
Của gỗ
Enzym Tác dụng Lợi ích kỹ thuật thu
được
Xenluloza Xenlobiohydrolaza
(CBH)
Endoglucanaza(EG)
Hỗn hợp CBH và EG
Làm nhỏ sợi
Khử trùng hợp
Khử trùng hợp
Tiết kiệm năng
lượng trong quá trình
lọc bột giấy.
Đa dạng sản phẩm,
loại mực
Xylan Endoxylanaza Khử trùng hợp Tách loại lignin
Glucomannan Endomannanaza Khử trùng hợp Tách loại lignin,
29
Acetylglucomannanest
eraza
Độ bền kết tụ
giảm
tăng hiệu quả nghiền
bột và cải thiện độ
bền cơ học
Pectin Polygalacturonaza Khử trùng hợp
Tiết kiệm năng
lượng trong công
đoạn bóc vỏ
Lignin Laccaza
Mn-peroxydaza
Khử trùng
hợp
Trùng hợp hóa
Tăng độ sáng màu
Trùng hợp lignin
Các chất khác Lipaza Tăng tính háo
nước
Cải thiện độ bền của
giấy.
Hiện nay, trong công nghiệp người ta sản xuất hai loại hemixenlulaza cho
sản xuất bột giấy là xylanaza và mananaza, trong đó xylanaza được ứng dụng
nhiều hơn cả.
Bảng 1.2. Một số loại xylanaza thương phẩm
Tên nhà sản xuất Thương hiệu
sản phẩm
pH thích hợp Nhiệt độ thích
hợp nhất (oC)
Primalco
Ciba-Geigy
ICI
Iogen
Novozymes
Ecopulp
Irgazyme 10
Irgazyme 40
Ecopulp X-200
Logen GS 35
Shivex
Pulpzyme HA
Pulpzyme HB
4.0 - 7.5
6 – 8
7-8.5
4.0 - 7.5
5.0 - 7.7
5.2-7.8
5.0 - 8.0
7.0 - 8.0
55
60
50 -70
55
45 – 57
40-62
55
55
30
Sandoz
Solvay
Pulpzyme HC
Catazyme HS
Catazyme SR
Xylanase L8000
7.0 8.0
3 - 5.5
7- 10
6.0 - 8.5
55
40 - 55
50 - 70
40 -65
Phần lớn các loại enzyme này đã được sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả
trong công nghiệp giấy. Chúng được sản xuất dưới dạng dung dịch (loãng
hoặc đông kết), điều kiện bảo quản và sử dụng phù hợp với các quá trình công
nghệ sản xuất bột giấy. Đại đa số các nhà sản xuất có hệ thống phân phối rộng
rãi.
Như vậy, cơ chế tác dụng của enzyme trong quá trình tẩy trắng có thể
khái quát như sau:
Bột giấy thu được sau khi nấu chứa một lượng nhỏ lignin và
hemixenluloza, chúng liên kết chặt chẽ với nhau. Sự liên kết này tạo ra các tổ
hợp (giống như một mạng lưới) lignin – hemixenluloza, làm cho quá trình
tách loại lignin trở nên khó khăn hơn. Trong mô thực vật lignin có xu hướng
liên kết với xylan nhiều hơn, còn glucomannan chủ yếu với xenluloza, mức
độ liên kết của glucomanan với lignin rất thấp. Hemixenluloza trong bột giấy
gỗ lá rộng chủ yếu là xylan. Có thể nói sự liên kết này tồn tại dưới 2 dạng: sự
kết bám của xylan trên bề mặt xơ sợi xenluloza và các liên kết xylan-
xenluloza-lignin chưa bị phá vỡ trong quá trình nấu bột. Chính sự liên kết (kết
bám) này gây cản trở cho việc
tách loại phần lignin còn lại ra khỏi bột [10,15].
Để phân huỷ một phần xylan, người ta sử dụng các loại chế phẩm
enzyme khác nhau với cùng một mục đích là xúc tác thuỷ phân các liên kết
glucozit của đại phân tử xylan. Vì vậy, tùy thuộc vào loại enzym (mặc dù
chúng đều là các chế phẩm xylanaza) mà hiệu quả thu được có thể khác nhau.
31
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, xylanaza có tác dụng tốt đối với xơ
sợi, chúng có khả năng thẩm thấu vào bên trong các xơ sợi xenluloza, sau đó
phân hủy chuỗi phân tử xylan thành các mảng phân tử nhỏ hơn tạo các khe hở
trên bề mặt xơ sợi làm cho lignin dễ dàng bị hòa tan ở các công đoạn tẩy trắng
tiếp theo, khi bột giấy được xử lý bằng các chất tẩy có khả năng tách loại
lignin. Bên cạnh đó nó còn có thể làm phân hủy các liên kết giữa xylan và
lignin mà liên kết đó rất khó bị phân hủy trong quá trình tẩy trắng [17].
Xử lý bằng xylanaza thông thường được thực hiện ở các công đoạn đầu
của chu trình tẩy trắng, hậu. Tác dụng của xylanaza có thể biểu hiện ở ba
hướng chính [12]:
- Giảm hàm lượng lignin, điều này được thể hiện ở trị số Kappa của bột
giảm trong quá trình xử lý, tức sau khi xử lý bột giấy bằng enzyme chỉ cần xử
lý bằng dung dịch kiềm cũng có thể tách bổ được một phần lignin nào đó.
- Tách loại hexenuronic axit (đối với bột sunfat), làm giảm tiêu hao hóa
chất tẩy;
- Xylanaza có thể tách các phân tử xylan tái kết bám trên bề mặt xơ sợi,
nhờ đó mà lignin liên kết cũng bị tách bỏ theo.
Tác dụng của xylanaza lên xylan có thể biểu diễn bằng sơ đồ ở hình
(1.6)
32
Hình 1.6: Thủy phân các liên kết lignocacbohydrat bằng xylanaza
(a-đại phân tử xylan; b-liên kết lignocacbohydrat trong bột giấy)
Trên cơ sở đó, công đoạn xử lý bột giấy bằng xylanaza đã được áp dụng
một cách hài hòa và hiệu quả trong dây chuyền công nghệ tẩy trắng bột hóa.
Thực tế cho thấy, các công đoạn tẩy trắng bằng xylanaza thường được
bố trí ở phía trước của sơ đồ tẩy trắng truyền thống, chúng được xem là công
đoạn xử lý sơ bộ nhằm giảm tiêu hao hóa chất tẩy cho các công đoạn sau. Khi
chu trình tẩy trắng bao gồm cả công đoạn xử lý oxi-kiềm thì nó được bố trí
33
sau công đoạn này, nhằm phát huy tác dụng của enzyme. Xử lý bằng bột giấy
bằng xylanaza được sử dụng kể cả trong chu trình tẩy trắng ECF, TCF và tẩy
trắng bằng clo [14].
Bảng 1.3. Một số ký hiệu quy ước của các công đoạn tẩy trắng bột hóa
TT Tên công đoạn Chẩt tẩy sử dụng Ký hiệu
1 Clo hóa Cl2 C
2 Xử lý cùng lúc bằng clo và dioxit clo Cl2 + ClO2 C/D
3 Kiềm hóa (trích ly kiềm) NaOH E
4 Tẩy trắng bằng hypoclorit NaClO H
5 Tẩy trắng bằng dioxit clo ClO2 D
6 Tẩy trắng bằng hydroperoxit H2O2 + NaOH P
7 Xử lý ôxi-kiềm (tách loại lignin bằng
ôxi trong môi trường kiềm)
O2 + NaOH O, O2
8 Kiềm hóa ôxi hóa NaOH + O2 EO
*Một số sơ đồ tẩy ECF:
X - D - E – D;
O - X - D - E – D;
X - (EOP) - D - (EOP) – D;
O - X - D - P
*Một số sơ đồ tẩy TCF:
X - (EP) – P; X- Z (EP);
O - X - Q - P - Z – P;
O- X - Z - P.
Xử lý bột hóa bằng xylanaza có một ưu điểm sau:
34
- Quá trình được thực hiện trong điều kiện “mềm”: Hầu hết các enzyme
được sử dụng ở nhiệt độ 40 – 60oC và áp suất thường, môi trường trung tính
và các chế phẩm enzyme sử dụng là tuyệt đối an toàn.
- Tiền xử lý bột giấy bằng enzyme cho phép giảm mức tiêu hao clo, các
hợp chất chứa clo và các tác nhân tẩy trắng khác, như vậy sẽ làm giảm đáng
kể các hợp chất clo hữu cơ tạo thành và làm giảm lượng BOD, COD trong
nước thải.
- Giá trị kinh tế cao do việc tiết kiệm hóa chất, năng lượng. Trung bình,
mức chi phí cho tẩy trắng có sử dụng enzyme giảm 3,4 % so với chi phí cho
tẩy trắng thông thường. Bột hóa qua xử lý bằng enzyme có chỉ số xé cao hơn
5 % so với bột không xử lý.
- Công nghệ tẩy trắng sử dụng enzyme tương đối đơn giản và không đòi
hỏi nhiều vốn đầu tư cho việc thay đổi thiết bị mới hay dây chuyền sản xuất.
1.5.2. Tổng quan các nghiên cứu và sử dụng enzyme cho tẩy trắng
bột giấy
Ngày nay, enzyme được ứng dụng trong nhiều công đoạn sản xuất bột
giấy và giấy như quá trình nghiền, tẩy trắng, xeo giấy, làm sạch và khử mực
cho giấy tái chế.
Công ty Jujo của Nhật đã sử dụng enzyme Resinase do hãng
Novozymes sản xuất cho việc khử nhựa trong bột giấy. Các nước vùng
Scandinavia và Nam Mỹ được xem là đi đầu trong việc áp dụng các công
nghệ tiên tiến, nhiều nhà máy sản xuất bột kraft tẩy trắng đã sử dụng enzyme
để nâng cao độ trắng của bột giấy từ năm 1992 [19].
Năm 1989 ở trung tâm nghiên cứu VTT của Phần Lan đã nghiên cứu và
giới thiệu xylanaza – một loại enzyme có khả năng phân hủy xylan. Tại nhà
máy Morrum Thụy Điển có công suất 375.000 tấn bột/năm đã thử nghiệm
thành công xylanaza có thương hiệu là Pulpzyme HB của hãng Novozymes
vào tháng 3 năm 1992. Công ty Marathon có công suất 560 tấn bột tẩy
35
trắng/ ngày đả sử dụng xylanaza do công ty Logen cung cấp vào năm
2002.[24].
Alexandra Pekaovicova và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của
xylanaza tới tính chất của bột sunfat gỗ sồi [18]. Nghiên cứu được tiến hành
với bột sunfat chưa qua tiền thủy phân và bột sunfat đã qua tiền thủy phân.
Xylanaza đã được phân lập từ chủng Aspergillus có hoạt tính 8333,5 nkat/ml
để sử dụng cho tẩy trắng bột giấy. Quá trình xử lý bột sunfat bằng xylanaza
được thực hiện như sau: Bột được hòa loãng và phối trộn với dung dịch đệm
xitrat và xylanaza. Mức dùng xylanaza là 500 nkat/g bột. Sau đó bột được rửa
kỹ bằng nước cất ở nhiệt độ 80oC và bằng nước lạnh. Tiếp đó bột được xử lý
bằng dung dịch NaOH trong vòng 90 phút ở nhiệt độ 70oCvới mức dùng 1%
NaOH so với bột khô tuyệt đối và nồng độ bột là 10%. Kết thúc quá trình bột
được rửa sạch, sấy khô và mang phân tích. Trị số Kappa được xác định theo
tiêu chuẩn Tiệp Khắc CSN50 0258, độ trắng theo tiêu chuẩn ISO, độ thấu khí
của xơ sợi xác định bằng thiết bị đo độ hấp thụ ( Carlo Erba Instrument SO
1900 ) thông qua các đại lượng hấp thụ nitơ (nitrogen). Diện tích bề mặt hấp
thụ được tính theo phương trình BET. Sau đó các mẫu được hoà loãng trong
nước, được lọc và được hoà tan trong ethanol và cuối cùng trong n-hexane.
Chất hoà tan còn lại được phân huỷ trong môi trường chân không. Kết quả
được trình bày tên hình 1.7, 1.8 và bảng 1.4:
36
Hình 1.7.Sự thay đổi trị số Kappa của bột sunfat so với thời gian xử lý:
(1- Bột sau xử lý bằng nước; 2- Bột sau xử lý bằng dung dịch xylanaza;
3- Bột sau xử lý bằng xylanaza và trích ly kiềm)
Hình 1.8.Sự thay đổi độ trắng của bột sau xử lý enzyme
(2- Bột sau xử lý bằng xylanaza; 3- Bột sau xử lý bằng xylanaza và trích ly kiềm)
1
2
3 Tr
ị s
ố
ka
pp
a
Thời gian xử lý, phút
20
30 60 90
10
50
30 60 90
40
30
Đ
ộ
tr
ắn
g,
%
IS
O
Thời gian xử lý, phút
2
3
37
Bảng 1.4. Ảnh hưởng của tiền thủy phân bột sunfat tới tính chất của bột
sunfat
Thời gian thủy phân,
phút
Hàm lượng pentozan, % Diện tích bề mặt, m2/g
-
30
80
9,2
6,5
4,8
36,5
37,6
42,5
Điều đó cho thấy, bột qua tiền thủy phân có hàm lượng xylan tái kết tủa
không cao như bột không qua tiền thủy phân vì lượng xylan ít. Xylanaza tác
động trước hết đối với xylan trên bề mặt thấp nên xylanaza có thể phân hủy
được cả lượng xylan dư bên trong xơ sợi và rõ nhất qua độ thấu khí. Các mẫu
bột sunfat qua tiền thủy phân có khả năng thẩm thấu và độ thấu khí cao hơn
bột chưa qua tiền thủy phân.
Enzyme manganaza peroxidaza và laccaza là hai loại enzym đã được
nghiên cứu để phân hủy lignin trong bột giấy [16]. Cả hai loại enzyme
manganaza peroxidaza và laccaza đều được nuôi cấy từ nấm Trametes
vesicolor. Manganasa peroxidasa có thể tách loại lignin đến mức độ nhất
định so với lượng ban đầu trong bột. Quá trình tẩy trắng tiếp theo bằng
hidropeoxit trong môi trường kiềm cho thấy độ trắng của bột tăng thêm 10%
ISO so với bột không xử lý bằng enzyme. Enzyme laccasa cũng cho hiệu quả
tương tự như vậy. Thử nghiệm đã được tiến hành với bột của nhà máy giấy ở
Canada và xưởng thực nghiệm Paprican: Bột gỗ mềm sau nấu được xử lý oxi-
kiềm tới hàm lượng lignin cần thiết, xử lý bằng manganaza được thực hiện
trong vòng 24h với cùng một mức dùng enzyme. Kết quả thu được trình bày
trên bảng 1.5
38
Bảng 1.5. Ảnh hưởng của xử lý bằng manganazaa peroxidaza tới tính chất
của bột gỗ mềm có hàm lượng lignin ban đầu khác nhau
Trị số
Kappa
ban
đầu
Trị số Kappa cuối cùng Độ trắng (% ISO)
Manganasa
peroxidasa
Mẫu đối
chứng
Manganasa
peroxidasa
Mẫu
đối
chứng
21,2 17,3 18,5 31,2 25,3
16,2 13,1 15 33 28,1
12,4 9,6 10,7 38,6 37
10,8 7,9 9,7 38,6 35,4
Ảnh hưởng của thời gian xử lý bằng enzyme manganaza peroxidaza
cũng đã được nghiên cứu với bột gỗ mềm đã qua xử lý oxi-kiềm có độ trắng
ban đầu là 62 % ISO. Sau đó bột được tẩy trắng tiếp theo bằng hidropeoxit
cho thấy, kéo dài thời gian xử lý bằng enzyme hơn 120h không cải thiện được
độ trắng vượt quá giá trị độ trắng sau 24h. Kết quả ở (Hình 1.9) cho thấy thời
gian xử lý bằng enzyme manganaza peroxidaza 4h đủ để tăng độ trắng của bột
lên 6% ISO.
39
Hình 1.9: Ảnh hưởng của thời gian xử lý bằng enzyme tới sự thay đổi
độ trắng của bột gỗ mềm tẩy trắng
Enzyme laccaza được phân lập từ P. eryngic ATCC 90787 đã được sử
dụng để tẩy trắng bột giấy sản xuất bằng phương pháp nấu xút bổ sung
anthraquinone từ cây lanh của nhà máy CELESA (Tây Ban Nha) [21]. Bột
ban đầu có độ trắng 36% ISO, trị số Kappa 11. Giai đoạn L (xử lý bằng
laccaza ) được thực hiện với 10 g bột nồng độ 2% trong đệm 50 mM tartrate,
pH 4, mức dùng enzym là 10 – 20 u/g và mg ABTS hay HBT/g chất hoạt
động bề mặt. Sau giai đoạn L bột được xử lý bằng trích ly kiềm ( xử lý bằng
1,5% NaOH trong vòng 1h ở 60oC). Tiếp theo bột được tẩy trắng bằng H2O2
(xử lý bằng 3% H2O2 và 1,5% NaOH trong 2h ở 90oC). Cuối cùng bột được
xử lý bằng 2% NaBH4 trong vòng 30 phút tại 20oC. Tất cả các giai đoạn sau L
đều được thực hiện với nồng độ bột 5%.
Độ trắng, trị số Kappa, độ nhớt được đo theo tiêu chuẩn ISO 302, ISO 5351/1
và ISO 3688. Kết quả được trình bày trên bảng 1.6
76
74
72
70
68
66
64
62
4 8 12 16 20 24
Đ
ộ
tr
ắn
g
%
IS
O
Thời gian xử lý, giờ
40
Bảng 1.6. Kết quả xử lý bột sunfat bằng enzyme laccaza và chất hoạt động
bề mặt.
Mẫu Độ trắng (%) Trí số Kappa Độ nhớt
(mL/g)
Mẫu ĐC 40.0 750
T.versicolor laccaza + ABTS 48,4 434
T.versicolor laccaza + HBT 60,2 600
P.cinnabarinus laccaza + ABTS 34,2 8,5 565
P.cinnabarinus laccaza + HBT 55,3 2,9 9.0
P.eryngii laccaza + ABTS 33,4 8,8 6,3
P.eryngii laccaza + HBT 35,8 8,0 3,3
Xylanaza do hãng Iogen cung cấp đã được sử dụng tại nhà máy bột giấy
của Cannada (Marathon Pulp Inc.) có công suất 560 tấn bột gỗ mềm tẩy trắng
/ ngày [25]. Trong thời gian từ tháng 1/2001 đến tháng 2 năm 2002 nhà máy
đã áp dụng công nghệ xử lý bột giấy bằng xylanaza trong 152 ngày và 48
ngày không xử lý bằng enzym, sau đó đánh giá ảnh hưởng cuả việc xử lý bột
bằng xylanaza (bảng 1.7).
Bảng 1.7. Các thông số kỹ thuật
Thông số Bột không xử lý Bột xử lý bằng xylanaza
Mức dùng enzym (ml/tấn) - 158
Mức thể tích bột (%) 55,7 48,5
Nồng độ bột (%) 6- 7 6- 7
Độ pH 10,5 6,8
Nhiệt độ bột 56,7 59,7
41
Trong quá trình sản xuất trị số pH của bột được khống chế trong khoảng
6,5- 7 bằng cách bổ sung axit sunfuric với mức 2-5 kg/tấn. Tháp chứa một
lượng bột chiếm 50% thể tích với thời gian ngâm 60 phút. Sau đó bột được
tẩy trắng 5 giai đoạn Do-EO-D1-E-D2 và được rửa sau mỗi giai đoạn. Điều
kiện tẩy trắng và kết quả thu được như sau (bảng 1.8 và 1.9):
Bảng 1.8. Điều kiện tẩy trắng
Giai đoạn Thời gian,
phút
Nhiệt độ, 0C Nồng độ, % pH
Do 60 55 4 3,0
EOP 95 85 9 10,8
D1 120 67 9 3,8
E2 60 70 9 10,6
D2 80 85 9 4,5
Bảng 1.9. Kết quả thử nghiệm tẩy trắng bột sunfat
Thông số Bột không xử lý Bột xử lý
xylanaza
Số lượng ngày sản xuất 48 152
Kappa bột chưa tẩy trắng 29,8 48,5
Sản lượng, tấn 573 6-7
Hệ số Kappa tổng (TKF) công đoạn Do 0,18 6,8
Độ trắng công đoạn D1, % 85,2 59,4
Độ trắng công đoạn D2, % 90,7
Tổng ClO2, kg/tấn 36,3
Tổng H2O2, kg/tấn 3,5
Tổng O2, kg/tấn 6,1
42
Tổng NaOH, kg/tấn 43,2
Tổng clo hoạt tính, kg/tấn 116,2
Tính chất của bột cũng đã được kiểm tra (bảng 1.10): Bột được xử lý
bằng enzyme có chỉ số xé trung bình cao hơn 5% so với bột không xử lý, chỉ
số bục và độ bền kéo thấp hơn 6% và 8% tương ứng so với bột không xử lý.
Bảng 1.10. Tính chất của bột tẩy trắng và không tẩy trắng bằng enzyme
Thông số Bột không xử lý Bột xử lý xylanaza
Độ bụi 100 80
Độ chịu bục 100 95
Độ chịu xé 100 105
Độ chịu kéo 100 92
CSF 100 101
Độ trắng của bột tẩy
trắng
88,6 90,2
Như vậy, xử lý bột sunfat bằng xylanaza tại nhà máy Marathon đã giảm
mức sử dụng ClO2 , giảm tiêu hao chất tẩy xuống 3,4% và có những ảnh
hưởng tốt đối với độ bền của bột không nghiền mà không gây một tác động
bất lợi nào.
Tương tự, hiệu quả tách loại lignin của các dạng enzyme laccaza được
phân lập và tuyển chọn và một loại xylanaza là Pulpzyme HC của hãng
Novozymes đã được nghiên cứu với bột kraft gỗ bạch đàn có trị số Kappa
18-19 của nhà máy bột giấy ở Bắc Ấn Độ [9]. Enzyme Laccaza được xử lý
với bột nồng độ bột 15% ở nhiệt độ 45oC, pH 4,0 trong thời gian 5,5 giờ với
các mức sử dụng khác nhau. Loại enzyme có khả năng tách loại lignin cao
43
nhất đã được lựa chọn và sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo. Xử lý bột
bằng Pulpzyme HC được tiến hành với bột nồng độ bột 10%, nhiệt độ 50oC,
pH 8, thời gian 2h, và mức dùng enzyme là 0,075% so với bột khô tuyệt đối.
Bột đã qua xử lý bằng Laccaza và xylanaza-lacaza được tẩy trắng theo
quy trình D-E-D-D. Quy trình tẩy trắng được tiến hành tiếp theo với các mẫu
tương tự là D-E-P-D-D.Giai đoạn xử lý axit được tiến hành ở pH=2, 90oC,
thời gian 2 giờ, nồng độ bột 10%. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả rõ
rệt của xử lý bột gỗ bạch đàn bằng cả hai loại enzyme kết hợp (Bảng 1.11).
Bảng 1.11. Ảnh hưởng của xử lý bằng enzyme xylanaza tới quá trình
tẩy trắng bột kraft gỗ bạch đàn .
Thông số DoEp*D1D2 SmXLEp**
DoEp***D1
SmXLEp**
A
DoEp***D1
SqXLEp**
DoEp***D1
D2
SqXLEp**A
DoEp***D1D2
Hệ số Kappa
(Kappa Factor)
0,28 0,12 0,09 0,12 0,09
Sự giảm mức
dùng ClO2
- 55,0 67,4 55,0 67,4
Độ trắng giai
đoạn EP* (%
ISO)
65,2 - - - -
Độ trắng giai
đoạn XLEPA
(% ISO)
- 49,5 - 49,2 -
Độ trắng giai
đoạn XLEPA
(% ISO)
- - 50,3 - 50,0
Độ trắng giai
đoạn D0 (%
42,0 67,8 62,9 68,1 62,7
44
ISO)
Độ trắng giai
đoạn EP*** (%
ISO)
- 79,7 77,5 77,0 77,3
Độ trắng giai
đoạn D1 (%
ISO)
84,5 88,3 88,0 88,0 87,9
Độ trắng giai
đoạn D2 (%
ISO)
87,8 - - - -
Độ nhớt 7,2 7,0 6,8 7,0 6,8
(EP*: Giai đoạn NaOH 0,85%, H2O2 0,5%, nhiệt độ 70oC, nồng độ bột 10%, thời
gian 2 giờ; EP**: Giai đoạn NaOH 1,5%, H2O2 0,5%, nhiệt độ 70oC. nồng độ bột 10%, thời
gian 2 giờ; EP***: Giai đoạn NaOH 0,8%, H2O2 0,5%, nhiệt độ 70oC. nồng độ bột 10%,
thời gian 2 giờ.).
Trong một nghiên cứu khác về khả năng giảm trị số Kappa và tách loại
các hợp chất mang màu bằng xylanaza ra khỏi bột [13]. Hai loại enzym là
Pulpzyme HC, SP342 (Novozymes) và Ecozyme (Swan Chemical) được sử
dụng để giảm trị số Kappa và khử một số chất mầu của hỗn hợp bột gỗ cứng
và gỗ mềm được lấy từ Công ty bột và giấy Thilmany Trị số Kappa ban đầu
tương ứng là 14,4 với gỗ cứng và 37,2 với gỗ mềm. Bột HW và SW được pha
loãng vào nước tới nồng độ gần 2% và được đánh tơi bằng thiết bị đánh tơi
của Anh trong khoảng 3 phút. Huyền phù bột sau đó được tách nước trên giấy
lọc (Fisher P8) để tách bỏ nước. Mỗi mẫu bột được chia thành 2 phần. Một
nửa được hòa vào lượng nước tinh khiết, nửa kia được hòa vào dung dịch
natri axetat nồng độ 100 mmol/lít, pH 7,8; nồng độ bột 10%. Các mẫu bột
được giữ ở nhiệt độ 50 trong 20h. Sau đó các mẫu bột được thu hồi lại bằng
cách tách nước như trước tới nồng độ gần 16%.
45
Các mẫu bột đã được rửa bằng axetat và rửa bằng nước (tương ứng 33,7
và 26,3 g khô gió) được bổ sung enzyme với mức dùng 25IU enzym/g bột
KTĐ ). Bột được ủ ở 50oC trong vòng 3h và được trộn ép 30 phút một lần.
Các mẫu sau đó được vắt nước trên phễu lọc Buchner bằng giấy lọc Fisher
P8. Dung dịch thu được chứa các chất đường hòa tan, HexA và nhóm chất
màu được làm lạnh và mẫu bột sau khi làm mất nước được gia nhiệt khoảng
30 phút để loại bỏ hết sự hoạt hóa của các enzyme. Các mẫu bột được làm
lạnh tới 3oC cho đến khi phân tích. Chỉ số Kappa được xác định bởi theo
phương pháp Tappi T236.
Đường và axit hexenuronic (HexA) được xác định bằng phương pháp
phân tích quang phổ.
Kết quả phân tích cho thấy, cả ba loại enzyme là Pulpzyme HC (P),
Ecozyme (E) và SP342 (S) đều có tác dụng hoạt hóa xylanaza giống nhau.
Mức dùng enzym (25IU/g bột KTĐ) là cao hơn với lượng sử dụng cho xử lý
thực tế. Chúng đều có khả năng giảm lượng HexA trong bột.
Cũng trong một nghiên cứu khác [26] G. P. A
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_su_dung_enzyme_xylanaza_de_tay_trang_bot.pdf