Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình ảnh
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN.3
1. 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC HỢP CHẤT MÀU AZO VÀ PHƯƠNG PHÁP XỬ
LÝ.3
1.1.1. Tổng quan về các hợp chất màu azo .3
1.1.2. Giới thiệu một số thành tựu xử lý các hợp chất màu azo.7
1.2. VẬT LIỆU TiO2 VÀ TiO2 BIẾN TÍNH.10
1.2.1. Vật liệu nano TiO2.10
1.2.2. Cơ chế quang hóa của nano TiO2 trong xử lý chất ô nhiễm .13
1.2.3. Vật liệu nano TiO2 biến tính.17
1.2.3.1. Vật liệu nano TiO2 pha tạp kim loại.18
1.2.3.2. Vật liệu nano TiO2 pha tạp phi kim.19
1.2.3.3. Vật liệu nano TiO2 được biến tính bởi hỗn hợp .19
1.3. BENTONIT VÀ BENTONIT CHỐNG TiO2 BIẾN TÍNH.20
1.3.1. Bentonit .20
1.3.1.1. Cấu trúc tinh thể và thành phần hoá học của montmorillonit .21
1.3.1.2 Các tính chất của bentonit .22
1.3.2. Bentonit chống kim loại .24
62 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 690 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổng hợp, đặc trưng cấu trúc vật liệu ns - Tio2/bentonit và fenstio2/bentonit để xử lý phẩm màu db71 trong môi trường nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải.
Phương pháp này không gây ô nhiễm thứ cấp, chi phí vận hành rẻ, ổn định,
khá hiệu quả và tận dụng được nguồn vi sinh vật trong nước thải. Tuy nhiên, thời
gian xử lý lâu, lượng bùn thải tạo ra đòi hỏi khâu xử lý tiếp theo. Ngoài ra cần
8
phải duy trì lượng dinh dưỡng N, P nhất định, nhiệt độ, pH, DO đảm bảo cho vi
sinh vật phát triển. Hơn nữa phương pháp này xử lý kém đối với những loại thuốc
nhuộm có cấu trúc bền, khó phân hủy sinh học hoặc các chất tẩy, các loại dầu
khoáng.
1.1.2.3. Phương pháp hóa học
a. Phương pháp ôxi hoá/khử
Ưu điểm nổi bật của các phương pháp hóa học so với các phương pháp hóa
lý thông thường là biến đổi, phân hủy chất ô nhiễm (chất màu) thành các chất dễ
phân hủy sinh học hoặc không ô nhiễm chứ không chỉ là chuyển chúng từ pha này
sang pha khác. So với phương pháp vi sinh thì tốc độ xử lý chất thải bằng phương
pháp hóa học nhanh hơn nhiều.
Khử hoá học: Được ứng dụng trong trường hợp nước thải chứa các chất có
khả năng bị khử. Phương pháp khử hóa học hiệu quả với các thuốc nhuộm azo nhờ
phân giải liên kết azo tạo thành các amin thơm không màu có khả năng phân giải vi
sinh hiếu khí tốt hơn thuốc nhuộm gốc.
Khử hóa học trên cơ sở natri bohiđrua, xúc tác bisunfit áp dụng với thuốc
nhuộm tan trong nước như thuốc nhuộm trực tiếp, axit, hoạt tính chứa các nhóm
azo. Quy trình này có thể khử màu trên 90%.
Ôxi hóa hóa học: Các chất ôxi hóa thông thường như clo, clodioxit, natri
hipoclorit, kali permanganate, ozon, dicromat, hidropeoxit có thể được dùng để
ôxi hóa các chất ô nhiễm nói chung và thuốc nhuộm nói riêng. Quá trình ôxi hóa
tiêu tốn một lượng lớn tác nhân ôxi hóa, do đó, quá trình ôxi hóa hóa học chỉ được
sử dụng trong trường hợp khi chất ô nhiễm không thể loại bỏ bằng các phương pháp
khác. Khả năng ôxi hóa được xác định bởi thế ôxi hóa.
b. Phương pháp ôxi hoá pha lỏng (WO)
Ôxi hóa pha lỏng là quá trình ôxi hóa bởi các gốc tự do xảy ra khi một dung
dịch chứa các chất hữu cơ (hoặc vô cơ) được khuấy trộn tốt với ôxi hoặc tác nhân
ôxi hóa khác ở nhiệt độ khoảng 150oC đến 325oC. Áp suất 20 ÷ 210 bar được đặt
vào hệ để tăng cường phản ứng và kiểm soát sự bay hơi.
9
Quá trình ôxi hóa pha lỏng thích hợp để xử lý nước thải chứa chất ô nhiễm
nồng độ cao nhưng bền với sự ôxi hóa hóa học thông thường hoặc bền với phân giải
vi sinh.
Phương pháp này thu được kết quả xử lý tốt nếu như các điều kiện nhiệt độ,
áp suất được tối ưu hóa. Tuy nhiên đây là phương pháp có chi phí khá cao, do phải
thực hiện ở nhiệt độ, áp suất cao (chi phí thiết bị, năng lượng,). Vì vậy, tùy thuộc
vào yêu cầu xử lý mà cân đối giữa mức độ ôxi hóa cần thiết và chi phí xử lý.
c. Phương pháp ôxi hoá tiên tiến (AOPs)
Các phương pháp ôxi hoá sử dụng gốc HO làm tác nhân ôxi hoá được gọi là
các phương pháp (quá trình) ôxi hoá tiên tiến (Advanced Oxidation Processes -
AOPs); các kỹ thuật tương ứng được gọi là các kỹ thuật ôxi hoá tiên tiến (Advanced
Oxidation Technologies - AOTs).
Theo Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (US Environmental Protection Agency –
USEPA), dựa theo đặc tính của quá trình có sử dụng nguồn năng lượng bức xạ UV
hay không có thể phân loại các quá trình ôxi hóa tiên tiến thành hai nhóm: Nhóm
các quá trình ôxi hóa tiên tiến không sử dụng tác nhân ánh sáng (Advanced Non -
Photochemical Oxidation Processes) và nhóm các quá trình ôxi hóa tiên tiến sử
dụng tác nhân ánh sáng (Advanced Photochemical Oxidation Processes).
Phương pháp oxy hóa tiên tiến sử dụng xúc tác quang hóa đã được nghiên
cứu và ứng dụng rộng rãi trong những năm gần đây, với mục đích xử lý các hợp
chất hữu cơ khó phân huỷ trong môi trường nước. Đây là một trong những phương
pháp oxy hoá tiên tiến có khả năng oxy hoá mạnh, xử lý được những chất hữu cơ
khó phân huỷ. Phương pháp này sử dụng năng lượng ánh sáng để hoạt hoá xúc tác
và các tác nhân phản ứng. Đây là phương pháp có nhiều tiềm năng ứng dụng trong
thực tiễn. Nguyên tắc của phương pháp dựa trên hoạt động của gốc tự do OH sinh
ra trong quá trình phản ứng . Gốc này có độ hoạt động cao, thế oxy hoá 2,80 V, chỉ
đứng sau Flo (có thế oxy hoá là 3,03 V). Quá trình oxy hóa sẽ bẻ gãy các liên kết
nối đôi liên hợp của các nhóm mang màu trong phân tử thuốc nhuộm, như liên kết
azo -N=N- của thuốc nhuộm, làm mất hoàn toàn màu của nước thải.
10
Để đáp ứng quy định chất lượng môi trường ngày càng cao, nhiều phương
pháp khác nhau như hóa học, hóa lý, sinh học đã được phát triển để loại các phẩm
màu hữu cơ độc hại trong môi trường nước. Các phương pháp này đều có những ưu
và nhược điểm, vì thế, thông thường người ta không dùng một phương pháp riêng
biệt mà kết hợp chúng với nhau. Điều này còn phụ thuộc vào bản chất phức tạp của
nước thải và mức độ yêu cầu xử lý. Bên cạnh việc sử dụng kỹ thuật keo tụ, hấp phụ
để thu gom các hợp chất màu từ dung dịch nước, các nhà khoa học rất quan tâm đến
khả năng loại bỏ triệt để các hợp chất này bằng phương pháp ôxi hoá tiên tiến sử
dụng xúc tác quang TiO2 và TiO2 biến tính.
1.2. VẬT LIỆU TiO2 VÀ TiO2 BIẾN TÍNH
1.2.1. Vật liệu nano TiO2
Từ đầu thế kỷ XX, sản phẩm TiO2 thương mại đã được sử dụng rộng rãi làm
chất tạo màu trong sơn, kháng khuẩn trong kem đánh răng, thuốc mỡ Năm 1972,
Fujishima và Honda [54, 55] đã phát hiện ra hiện tượng quang xúc tác chia cắt phân
tử nước trên điện cực TiO2 dưới tác dụng của bức xạ UV. Từ đó, có rất nhiều
nghiên cứu dành cho vật liệu TiO2, những nghiên cứu này cho thấy khả năng ứng
dụng to lớn của TiO2 trong nhiều lĩnh vực như làm chất xúc tác quang, cảm biến, tế
bào quang điện Các ứng dụng này chủ yếu xuất phát từ vấn đề năng lượng và môi
trường. Trong thời gian gần đây, vật liệu nano TiO2 được quan tâm nghiên cứu rất
nhiều để nâng cao tính năng ứng dụng trong lĩnh vực xử lý các hợp chất hữu cơ ô
nhiễm.
TiO2 có bốn dạng thù hình. Ngoài dạng vô định hình, nó có ba dạng tinh thể là
anata, rutin và brukit (Hình 1.3).
Rutin là dạng bền phổ biến nhất của TiO2, có mạng lưới tứ phương trong đó
mỗi ion Ti4+ được ion O2- bao quanh kiểu bát diện, đây là kiến trúc điển hình của
hợp chất có công thức MX2. Anata và brukit là các dạng giả bền và chuyển thành
rutin khi nung nóng. Tất cả các dạng tinh thể đó của TiO2 tồn tại trong tự nhiên như
là các khoáng, nhưng chỉ có rutin và anata ở dạng đơn tinh thể là được tổng hợp ở
nhiệt độ thấp.
11
(a) Dạng anata (b) Dạng rutin (c) Dạng brukit
Hình 1. 3. Cấu trúc tinh thể TiO2: (a) tế bào cơ sở của anata; (b) tế bào cơ sở của
rutin; (c) tế bào cơ sở của brukit
Cấu trúc mạng lưới tinh thể của rutin, anata và brukit đều được xây dựng từ
các đa diện phối trí tám mặt (octahedra) TiO6 nối với nhau qua cạnh hoặc qua đỉnh
oxi chung. Mỗi ion Ti4+ được bao quanh bởi tám mặt tạo bởi sáu ion O2-.
Hình 1. 4. Hình khối bát diện của TiO2
Các mạng lưới tinh thể của rutin, anata và brukit khác nhau bởi sự biến dạng
của mỗi bát diện và cách gắn kết giữa các octahedral (các chuỗi bát diện). Bát diện
trong rutin là không đồng đều do có sự biến dạng orthorhombic (hệ trực thoi) yếu.
Các octahedra của anata bị biến dạng mạnh hơn, vì vậy mức đối xứng của hệ là thấp
hơn hệ trực thoi. Khoảng cách Ti – Ti trong anata lớn hơn trong rutin nhưng khoảng
cách Ti - O trong anata lại ngắn hơn so với rutin. Trong cả ba dạng tinh thể của
TiO2 các octahedral (các chuỗi bát diện) được nối với nhau qua đỉnh hoặc qua cạnh
(Hình 1.4).
12
Những sự khác nhau trong cấu trúc mạng lưới dẫn đến sự khác nhau về mật
độ điện tử giữa hai dạng thù hình rutin và anata của TiO2 và đây là nguyên nhân của
một số sự khác biệt về tính chất giữa chúng. Tính chất và ứng dụng của TiO2 phụ
thuộc rất nhiều vào cấu trúc tinh thể các dạng thù hình và kích thước hạt của các
dạng thù hình này. Chính vì vậy, khi điều chế TiO2 cho mục đích ứng dụng thực tế
cụ thể người ta thường quan tâm đến kích thước, diện tích bề mặt và cấu trúc tinh
thể của sản phẩm.
Ngoài ba dạng thù hình tinh thể nói trên của TiO2, khi điều chế bằng cách
thuỷ phân muối vô cơ của Ti4+ hoặc các hợp chất cơ titan trong nước ở nhiệt độ thấp
người ta có thể thu được kết tủa TiO2 vô định hình. Tuy vậy, dạng này không bền,
để lâu trong không khí ở nhiệt độ phòng hoặc khi được đun nóng thì chuyển sang
dạng anata.
Động học của quá trình chuyển pha từ anata sang rutin là một quá trình phức
tạp, phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ và thời gian nung. Quá trình chuyển dạng thù
hình của TiO2 từ vô định hình → anata → rutin bị ảnh hưởng bởi điều kiện tổng
hợp. Khoảng nhiệt độ và tốc độ chuyển pha phụ thuộc vào phương pháp điều chế
TiO2 và hàm lượng tạp chất chứa trong nó [20]. Trong hai dạng thù hình này, anata
được biết là có hoạt tính xúc tác quang hóa tốt hơn. Một số nghiên cứu gần đây đã
chỉ ra rằng nếu xúc tác chứa một tỉ lệ nhất định pha rutin trong cấu trúc pha anata sẽ
làm tăng khả năng phân chia cặp điện tử – lỗ trống, không cho chúng kết hợp lại với
nhau và dẫn đến hoạt tính quang xúc tác tốt hơn [72, 110].
Brukit có hoạt tính quang hoá yếu nhất. Việc điều chế được brukit sạch,
không bị trộn lẫn bởi anata hoặc rutin là điều rất khó khăn. Trong thực tế tinh thể
brukit của TiO2 ít được đề cập trong các nghiên cứu và ứng dụng.
Anata có năng lượng vùng cấm là 3,25 eV tương đương với lượng tử ánh
sáng có bước sóng 388 nm. Rutin có năng lượng vùng cấm là 3,05 eV tương đương
với lượng tử ánh sáng có bước sóng 413 nm. Năng lượng vùng cấm của TiO2 đều
phù hợp để hấp thụ ánh sáng tử ngoại.
13
1.2.2. Cơ chế quang hóa của nano TiO2 trong xử lý chất ô nhiễm
Khả năng quang xúc tác của nano TiO2 được ứng dụng rộng rãi trong xử lý
môi trường, làm sạch không khí, diệt vi khuẩn, tiêu diệt các tế bào ung thư,... Đặc
biệt, nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng hệ xúc tác TiO2/UV trong phân huỷ các
chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường nước như thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, thuốc
diệt cỏ, hợp chất phenol.... đã được thực hiện và có nhiều hệ thống xử lý đã được áp
dụng trong thực tế [19].
Nhiều nghiên cứu liên quan đến cơ chế của quá trình phân hủy quang xúc tác
đã được công bố [21, 34, 91, 144, 145]. Khi chất bán dẫn bị kích thích bởi các
photon ánh sáng có năng lượng lớn hơn năng lượng vùng cấm Eg, các electron ở
vùng hoá trị của chất bán dẫn sẽ nhảy lên vùng dẫn. Kết quả là trên vùng dẫn sẽ có
các electron mang điện tích âm do quá trình bức xạ photon tạo ra gọi là electron
quang sinh và trên vùng hoá trị sẽ có các lỗ trống mang điện tích dương h+ được gọi
là các lỗ trống quang sinh. Electron quang sinh và lỗ trống quang sinh chính là
nguyên nhân dẫn đến các quá trình hoá học xảy ra, bao gồm quá trình oxi hoá đối
với lỗ trống quang sinh và quá trình khử đối với electron quang sinh (Hình 1.5).
Khả năng khử và khả năng oxi hoá của các electron quang sinh và lỗ trống quang
sinh là rất cao so với các tác nhân oxi hoá khử đã biết trong hoá học (Bảng 1.1).
Bảng 1. 1. So sánh thế oxi hóa của các gốc tự do và các chất oxi hoá phổ biến
Tác nhân oxi hóa Thế oxi hóa (V)
Flo 3,06
h+ (lỗ trống vùng hóa trị của anata và rutin) 3,00
Gốc hyđroxyl (HO) 2,80
Oxi nguyên tử 2,42
Ozôn (O3) 2,07
Peroxit hyđrô (H2O2) 1,77
Clo (Cl2) 1,36
Hidro (H2) 0,00
Electron vùng dẫn của rutin 0,00
Electron vùng dẫn của anata -0,52
14
Hình 1. 5. Cơ chế tạo thành gốc hoạt động trên vật liệu bán dẫn
Vật liệu bán dẫn TiO2 khi nhận được sự kích thích bởi ánh sáng có bước
sóng thích hợp có năng lượng lớn hơn năng lượng vùng cấm của TiO2 (λ < 387nm)
các electron hóa trị sẽ tách khỏi liên kết, chuyển từ vùng hóa trị lên vùng dẫn và để
lại lỗ trống ở vùng hóa trị [15].
TiO2 TiO2 (eCB- + hVB+)
Các quá trình xảy ra sau khi TiO2 bị kích thích dẫn đến phân tách các cặp
electron – lỗ trống. Các lỗ trống có tính oxy hoá mạnh và có khả năng oxy hoá H2O
thành HO (do thế khử chuẩn của lỗ trống ở vùng hóa trị là 3,00V, dương hơn thế
khử chuẩn của gốc HO là 2,80 V)
hVB+ + H2O HO + H+
hVB+ + OH- HO
- Các electron quang sinh trên bề mặt chất xúc tác có khả năng khử mạnh. Nếu có
mặt O2 hấp phụ lên bề mặt xúc tác, các eCB- có thể khử O2 tạo ra ion O2- trên bề mặt
(vì thế khử của eCB- ở vùng dẫn của anata là -0,52 V, âm hơn thể khử của O2- là -
0,28 V) [100] và tiếp sau đó xảy ra phản ứng với H2O như sau:
eCB- + O2 O2-
Gốc O2- này có thể phản ứng với ion H+ (tạo thành do sự phân ly H2O) để
sinh ra HO2
H+ + O2- HO2
Từ các gốc O2-, và HO2, có thể tạo thành H2O2 theo các phản ứng sau:
2 O2- + 2H2O H2O2 + 2OH- + O2
eCB- + HO2 + H+ H2O2
+hν (λ < 387 nm)
15
Sau đó, H2O2 bị phân tách, tạo ra các gốc HO
eCB- + H2O2 HO + OH-
H2O2 + O2- HO2
Ion OH- sinh ra lại có thể tác dụng với lỗ trống quang sinh (hVB+) để tạo thêm
gốc HO.
Các electron quang sinh và lỗ trống quang sinh có thể di chuyển ra bề mặt
hạt xúc tác và tác dụng trực tiếp hay gián tiếp với các chất hấp phụ trên bề mặt. Các
lỗ trống có thể tham gia trực tiếp vào phản ứng oxi hóa các chất độc hại, hoặc có thể
tham gia vào giai đoạn trung gian tạo thành các gốc tự do hoạt động như OH, 2O
.
Tương tự, các electron sẽ tham gia vào các quá trình khử tạo thành các gốc tự do.
Các gốc tự do sẽ tiếp tục oxi hóa các chất hữu cơ bị hấp phụ trên bề mặt chất xúc
tác thành sản phẩm cuối cùng không độc hại là CO2 và H2O [41]. Sự gia tăng khả
năng hấp phụ các chất hữu cơ trên giá thể rắn là thuận lợi chính dẫn đến sự gia tăng
hoạt tính quang hoá. Cơ chế xảy ra như được nêu trên Hình 1.6.
Hình 1. 6. Cơ chế quá trình xúc tác quang trên vật liệu bán dẫn
Tất cả các tiểu phân sinh ra trong quá trình quang hóa trên, bao gồm các lỗ
trống hVB+, gốc HO, O2-, H2O2 và O2, đóng vai trò quan trọng trong cơ chế quang
phân huỷ hợp chất hữu cơ. Trong đó, gốc tự do HO là một tác nhân oxi hoá rất
mạnh, không chọn lọc và có khả năng oxi hoá nhanh chóng hầu hết các chất hữu cơ.
Sản phẩm cuối cùng của phản ứng quang hoá là CO2, H2O.
16
HO + hợp chất hữu cơ (R) CO2 + H2O
hVB+ + hợp chất hữu cơ (R) CO2 + H2O
Cần chú ý rằng, các electron quang sinh và lỗ trống quang sinh có xu hướng
tái kết hợp với nhau, kèm theo sự giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt hoặc ánh
sáng, đồng nghĩa với hoạt tính xúc tác của TiO2 bị giảm đi. Do vậy, để nâng cao
hiệu quả của quá trình quang xúc tác cần phải biến tính vật liệu không chỉ để
chuyển vùng hoạt động của xúc tác về vùng khả kiến mà còn nhằm mục đích giảm
sự tái kết hợp của electron và lỗ trống.
Trong quá trình xúc tác quang, hiệu suất phản ứng có thể bị giảm bởi sự tái
kết hợp của các electron và lỗ trống [95]:
e- + h+ → (SC) + E
Trong đó (SC) là tâm bán dẫn trung hoà và E là năng lượng được giải phóng
ra dưới dạng bức xạ điện từ (hv’ ≤ hv) hoặc nhiệt.
Hiệu suất lượng tử của quá trình quang xúc tác được tính theo công thức:
Trong đó: kc: tốc độ vận chuyển electron;
kk: tốc độ tái kết hợp của các electron và lỗ trống.
Như vậy, để tăng hiệu suất phản ứng quang xúc tác có 2 cách: thứ nhất tăng
tốc độ vận chuyển điện tích và thứ hai là giảm tốc độ tái kết hợp của các electron và
lỗ trống. Để thực hiện phương án 2 (giảm tốc độ tái kết hợp), “bẫy điện tích” được
sử dụng để thúc đẩy sự bẫy điện tử và lỗ trống trên bề mặt, tăng thời gian tồn tại của
electron và lỗ trống trong chất bán dẫn. Điều này dẫn tới việc làm tăng hiệu quả của
quá trình chuyển điện tích tới chất phản ứng. Bẫy điện tích có thể được tạo ra bằng
cách biến tính bề mặt chất bán dẫn như đưa thêm ion kim loại, chất biến tính vào
hoặc sự tổ hợp với các chất bán dẫn khác dẫn tới sự giảm tốc độ tái kết hợp điện tử -
lỗ trống và kết quả là tăng hiệu suất lượng tử của quá trình quang xúc tác [35].
Đó cũng chính là mục đích của việc đưa các nguyên tố kim loại hay các
nguyên tố phi kim vào trong cấu trúc của TiO2 và tạo ra các khuyết tật của mạng
tinh thể.
17
Kích thước hạt và cấu trúc TiO2 ảnh hưởng nhiều đến khả năng xúc tác
quang hoá. Bột TiO2 có kích thước càng nhỏ thì hoạt tính xúc tác càng cao. Hầu hết
các tài liệu đều chỉ ra rằng TiO2 dạng bột kích thước nano có cấu trúc anata có hoạt
tính xúc tác cao nhất.
1.2.3. Vật liệu nano TiO2 biến tính
Do TiO2 tinh khiết kích thước nano có năng lượng vùng cấm khá lớn (3,25
eV đối với pha anata và 3,05 eV đối với pha rutin), chỉ hoạt động trong vùng ánh
sáng tử ngoại. Điều này hạn chế khả năng quang xúc tác của TiO2, thu hẹp khả năng
ứng dụng của loại vật liệu này. Một xu hướng đang được các nhà nghiên cứu quan
tâm là tìm cách thu hẹp dải trống của TiO2, sao cho có thể tận dụng được ánh sáng
mặt trời cho các mục đích quang xúc tác của titan đioxit. Để thực hiện được mục
đích này, nhiều ion kim loại và không kim loại đã được sử dụng để biến tính các
dạng thù hình của TiO2. Trong các dạng biến tính, như với các kim loại chuyển tiếp,
các kim loại thuộc nhóm đất hiếm, phi kim, cho thấy bột TiO2 điều chế được hoạt
động tốt trong vùng ánh sáng nhìn thấy và khả năng ứng dụng quang xúc tác rất
cao. Do đó, có thể thấy một trong những mục đích nhằm nâng cao ứng dụng của
TiO2 là làm tăng hoạt tính quang xúc tác trong vùng khả kiến của vật liệu này, tức là
thu hẹp năng lượng vùng cấm của TiO2 [90, 140].
Mặt khác, hiệu suất lượng tử của phản ứng bị cản trở bởi sự tái hợp các
electron và lỗ trống, như vậy, để hiệu suất lượng tử của phản ứng quang xúc tác
tăng, cần phải thêm một điều kiện nữa, đó là tăng tốc độ di chuyển của các electron
và các lỗ trống. Do đó, mục đích của sự biến tính TiO2 là:
- Đưa năng lượng vùng cấm của TiO2 về vùng ánh sáng khả kiến – tức là vật
liệu thể hiện hoạt tính quang xúc tác ngay cả khi chiếu ánh sáng khả kiến lên bề
mặt;
- Tạo các “bẫy điện tích” để giảm sự tái kết hợp của các electron và lỗ trống;
- Tăng tốc độ di chuyển electron, từ đó tăng hiệu suất lượng tử của phản ứng
quang hóa.
Đặc tính tối ưu của bất kỳ vật liệu nào đó phần lớn là do cấu trúc điện tử
quyết định. Đặc tính điện tử của vật liệu có liên quan đến thành phần hoá học của
nó (bản chất hoá học, liên kết giữa các nguyên tử hoặc các ion), sự sắp xếp các
18
nguyên tử, kích thước hạt của vật liệu. Thành phần hoá học của TiO2 có thể được
biến đổi bằng cách pha tạp bởi các hợp phần khác. Đặc biệt, hợp phần kim loại (Ti)
hoặc phi kim (O) có thể được thay thế nhằm thay đổi đặc tính của vật liệu. Cation
Ti4+ trong TiO2 dễ dàng thay thế bởi các kim loại chuyển tiếp, còn sự thay thế anion
O2- bằng các anion khác là khó khăn hơn do sự không tương quan về trạng thái điện
tích và bán kính ion [34, 38].
1.2.3.1. Vật liệu nano TiO2 pha tạp kim loại
Đã có nhiều nghiên cứu pha tạp các kim loại vào vật liệu nano TiO2 bằng các
phương pháp khác nhau. Nhìn chung, những kim loại pha tạp vào có thể được chia
làm hai nhóm với vai trò khác nhau.
Pha tạp kim loại chuyển tiếp
Quá trình pha tạp TiO2 bằng các ion kim loại chuyển tiếp đã thu được nhiều
thành công. Choi và cộng sự [47] đã nghiên cứu một cách có hệ thống về sự pha tạp
21 kim loại khác nhau vào TiO2 bằng phương pháp sol – gel và nhận thấy sự có mặt
của các chất pha tạp này đã làm gia tăng hoạt tính quang xúc tác của vật liệu nano
TiO2, đặc biệt là khi pha tạp những ion kim loại chuyển tiếp Fe(III), V(IV), Mo(V).
Wang X [122] và Liu H [79] cũng đã điều chế được TiO2 biến tính bằng các kim
loại sắt và vanadi theo phương pháp thủy nhiệt. Kết quả cho thấy, việc đưa vào
mạng tinh thể TiO2 những ion kim loại chuyển tiếp đã làm tăng độ hấp thụ ánh sáng
khả kiến. Những nghiên cứu của các tác giả [89, 122, 130] đã chứng minh ion Fe3+
đóng vai trò như chất bẫy electron ngăn sự tái kết hợp e-/h+.
Mn+ + e-cb → M(n-1) + (bẫy electron)
Mn+ + h+vb → M(n+1) + (bẫy lỗ trống)
(Mn+: ion kim loại chuyển tiếp pha tạp vào TiO2)
Pha tạp kim loại thuộc họ lantanit
Các nguyên tố lantanit cũng có khả năng bẫy các electron trên vùng dẫn một
cách hiệu quả. Adel A. Ismail và các cộng sự [67] đã pha tạp thành công các ion
lantanit La3+, Nd3+, Sm3+, Eu3+, Gd3+ và Yb3+, xúc tác thu được đã cho hoạt tính cao
trong việc phân hủy phẩm nhuộm DB53. Li và cộng sự [80] phát hiện ra rằng, khi
19
pha tạp La3+ vào TiO2 bằng phương pháp sol – gel đã làm hạn chế sự chuyển pha
của TiO2, gia tăng độ bền nhiệt của TiO2, làm giảm kích thước tinh thể và gia tăng
hợp phần Ti3+ trên bề mặt TiO2. Ngoài ra, các ion lantanit còn có khả năng tạo phức
với các bazơ Lewis khác nhau thông qua sự tương tác giữa các obitan f của nguyên
tố lantanit với các nhóm chức bazơ Lewis trong phân tử chất hữu cơ, do đó thúc đẩy
quá trình hấp phụ chất hữu cơ ô nhiễm lên bề mặt TiO2.
1.2.3.2. Vật liệu nano TiO2 pha tạp phi kim
Nhiều nguyên tố phi kim loại như B, C, N, F, S, Cl và Br đã được pha tạp
thành công vào vật liệu nano TiO2. Những công trình nghiên cứu [50, 71, 114, 130]
đã thành công khi pha tạp N vào TiO2 và ứng dụng để xử lý chất hữu cơ bền như
xanh metylen, rhodamin B, dưới ánh sáng khả kiến. Những nghiên cứu này cũng
đã chứng minh xúc tác TiO2 khi được pha tạp N đã giúp làm giảm năng lượng vùng
cấm và chuyển vùng hoạt động của xúc tác về vùng khả kiến.
Nhiều công trình nghiên cứu [19, 95, 101] đã thành công trong việc pha tạp S
từ nguồn thioure vào TiO2. Việc pha tạp lưu huỳnh cũng giúp làm giảm năng lượng
vùng cấm, chuyển hoạt động của xúc tác về vùng khả kiến. Lưu huỳnh cũng góp
phần vào sự chuyển điện tích giúp cho quá trình oxi hóa khử tại bề mặt xúc tác xảy
ra dễ dàng hơn.
Vật liệu TiO2 biến tính bằng cacbon cũng cho thấy có khả năng phân hủy tốt
các hợp chất hữu cơ độc hại [79, 97, 123, 137].
1.2.3.3. Vật liệu nano TiO2 được biến tính bởi hỗn hợp
Các vật liệu nano TiO2 không chỉ được biến tính bởi nguyên tố kim loại, phi
kim mà còn biến tính bởi đồng thời các nguyên tố như: pha tạp đồng thời các phi
kim, hay pha tạp đồng thời kim loại và phi kim... Hiện ngày càng có nhiều công
trình nghiên cứu pha tạp đồng thời kim loại và phi kim vào TiO2 [117, 128, 134,
137]. Khi TiO2 được biến tính chỉ bằng kim loại thì hiệu quả hoạt động quang vẫn
còn thấp. Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy việc đưa đồng thời kim loại và phi
kim sẽ tạo ra vật liệu có hiệu ứng với ánh sáng khả kiến cao hơn so với khi chỉ pha
tạp một loại.
20
Zhang J [50] đã tổng hợp thành công xúc tác TiO2 biến tính bằng sắt và nitơ
bằng phương pháp thủy nhiệt. Xúc tác có hiệu quả phân hủy rhodamin B (20 mg/l)
trong 4 giờ. Yang X [130] tổng hợp xúc tác pha tạp đồng thời sắt, cacbon, nitơ và
lưu huỳnh vào TiO2, xúc tác thu được có thể phân hủy rhodamin B (18 mg/l) trong
2,5 giờ. B. Tryba [118] đã điều chế thành công xúc tác Fe-C-TiO2 theo phương
pháp sol gel kết hợp với phương pháp nung, vật liệu thu được có khả năng phân hủy
những thuốc nhuộm như xanh metylen, đỏ axit, rhodamine B ở vùng UV. Zhonghe
Li [81] đã xử lý thành công rhodamine B dưới bức xạ mặt trời với quang xúc
tác N,S-TiO2 được tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt. Nhóm nghiên cứu
L.T.T. Thúy [10 ] đã xử lý thành công rhodamine B dưới bức xạ khả kiến bằng xúc
tác Fe/C-TiO2.
Xúc tác nano TiO2 biến tính có diện tích bề mặt riêng lớn và được dự đoán
là có hoạt tính xúc tác tốt do các phản ứng thường diễn ra trên bề mặt TiO2. Tuy
nhiên, việc sử dụng TiO2 gặp một số vấn đề thực tế, chẳng hạn như sự tích tụ chất
xúc tác và khó thu hồi [39, 40]. Do đó, cần cải thiện sự ổn định của TiO2 kích thước
nano để phát triển một loại xúc tác với hiệu suất quang xúc tác và khả năng tái sử
dụng cao. Việc đưa các hạt TiO2 biến tính lên bentonit dưới dạng bentonit chống
TiO2 có thể cải thiện được hiệu suất xúc tác do cấu trúc này làm bền các hạt TiO2,
tạo ra sự tiếp xúc tốt giữa TiO2 và các chất phản ứng, đồng thời giúp cho vật liệu
xúc tác có thể lọc tách dễ dàng trong quá trình xử lý, tạo điều kiện cho quá trình tái
sinh và tái sử dụng vật liệu [66, 73, 96].
1.3. BENTONIT VÀ BENTONIT CHỐNG TiO2 BIẾN TÍNH
1.3.1. Bentonit
Bentonit là loại khoáng có thành phần chính là montmorillonit với công thức
hoá học tổng quát dạng (OH)4Al4Si8O20.nH2O. Vì vậy, tính chất của bentonit được
quy định chủ yếu bởi tính chất của thành phần khoáng chính montmorillonit. Ngoài
montmorillonit, trong bentonit còn chứa một số loại khoáng khác như caolinit,
mica, canxit, thạch anh, các muối kiềm. Thành phần hoá học của montmorillonit,
ngoài hai nguyên tố kim loại chính là Si và Al còn có các nguyên tố khác như Fe,
21
Ca, Mg, Ti, K, Na... Tỷ lệ Al2O3:SiO2 nằm trong khoảng 1:2 đến 1:4. Bentonit được
chia thành hai loại:
- Bentonit trương nở có thành phần chính là montmorillonit Na, hay còn gọi
là bentonit natri. Khi bão hoà nước bentonit natri có thể trương nở đến 20 lần.
- Bentonit không trương nở có thành phần chính là montmorilonit canxi, còn
gọi là bentonit canxi.
1.3.1.1. Cấu trúc tinh thể và thành phần hoá học của montmorillonit
Trong montmorillonit các nguyên tử Si nằm ở tâm của mạng tứ diện còn các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003399_1_1919_2002696.pdf