DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT . 5
DANH MỤC BẢNG. 7
DANH MỤC HÌNH . 9
MỞ ĐẦU. 11
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án . 11
2. Mục tiêu nghiên cứu. 12
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án. 12
4. Những đóng góp mới của luận án. 13
5. Phạm vi giới hạn của luận án. 13
CHưƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU. 14
1.1. PHÂN LOẠI HỌC VÀ QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA CỦA CHI BÔNG
GOSSYPIUM . 14
1.1.1. Phân loại học cây bông . 14
1.1.2. Quá trình tiến hóa chất xơ và những đặc tính chất lượng xơ chính
của cây bông. 15
1.2. ĐÁNH GIÁ NGUỒN TÀI NGUYÊN DI TRUYỀN VÀ PHÂN TÍCH
ĐA DẠNG DI TRUYỀN TRONG CHI BÔNG . 18
1.2.1. Sự đa dạng các chỉ tiêu hình thái và nông học của cây bông. 18
1.2.2. Đa dạng di truyền phân tử trong nguồn gen bông trồng trọt. 19
1.2.2.1. Nguồn gen bông lưỡng bội. 19
1.2.2.2. Nguồn gen bông tứ bội. 20
1.3. MỘT SỐ KỸ THUẬT CHỈ THỊ PHÂN TỬ VÀ NHỮNG ỨNG
DỤNG TRÊN CÂY BÔNG . 22
1.3.1. Một số kỹ thuật chỉ thị phân tử chính trên cây bông . 22
1.3.2. Sự phát triển của chỉ thị SSR và các cơ sở dữ liệu về chỉ thị phân tử
của cây bông. 24
1.4. NGHIÊN CỨU LẬP BẢN ĐỒ LIÊN KẾT DI TRUYỀN VÀ BẢN ĐỒ
CÁC LOCUS QUY ĐỊNH CHẤT LưỢNG XƠ Ở CÂY BÔNG . 27
1.4.1. Những nghiên cứu lập bản đồ liên kết di truyền ở cây bông trên thế
giới. 27
63 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu xác định chỉ thị phân tử ssrs liên kết với locus kiểm soát chất lượng xơ ở cây bông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chỉ thị RFLP
đƣợc sử dụng khá phổ biến ở thập kỷ 90 trong nghiên cứu lập bản đồ liên kết
di truyền ở cây trồng, trong đó có cây bông và hiện nay đang dần đƣợc thay
thế bằng chỉ thị SSR, SNP... [70][78]
RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA): là kỹ thuật chỉ thị phân
tử dựa trên PCR thế hệ đầu tiên do Williams và cs. phát hiện năm 1990 [95].
RAPD sử dụng những mồi PCR ngẫu nhiên, dài từ 9 - 12 nucleotide để nhân
bội những trình tự ngẫu nhiên trên hệ gen. Kỹ thuật này có nhiều ƣu điểm hơn
RFLP ở chỗ nhanh, giá thành cho mỗi mẫu phân tích thấp, không cần biết
những thông tin về trình tự, dễ dàng phân tích số lƣợng mẫu lớn. Tuy nhiên,
nhƣợc điểm của RAPD là chỉ thị trội, do đó không có khả năng phân biệt
đƣợc cá thể đồng hợp tử và cá thể dị hợp tử. Kỹ thuật RAPD thiếu khả năng
lặp lại do kết quả phụ thuộc vào điều kiện thí nghiệm nhƣ kỹ năng phòng thí
nghiệm, chu kỳ chạy PCR, chất lƣợng và nồng độ mồi... Kỹ thuật RAPD
trƣớc đây đƣợc sử dụng khá phổ biến trong phân tích đa hình của hệ gen thực
vật, chọn lọc dựa vào chỉ thị phân tử trong những quần thể lai khác loài...
RAPD cũng đƣợc sử dụng kết hợp với các loại chỉ thị khác trong nghiên cứu
lập bản đồ liên kết ở cây bông [99]. Tuy nhiên, gần đây chỉ thị RAPD chỉ còn
đƣợc sử dụng chủ yếu ở những đối tƣợng cây trồng còn thiếu thông tin về hệ
gen.
AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism): đƣợc phát triển
bởi Vos và cs. (1995) cũng là một kỹ thuật chỉ thị phân tử dựa trên PCR. Ƣu
điểm của AFLP là kỹ thuật có độ nhạy cao dễ phát hiện đa hình trong toàn bộ
hệ gen [85]. AFLP cho phép phân tích nhanh, ổn định, số liệu đáng tin cậy, có
khả năng ứng dụng trong lập bản đồ hệ gen và chọn giống. Trƣớc đây, kỹ
24
thuật AFLP đƣợc sử dụng khá phổ biến để đánh giá đa dạng di truyền ở cây
bông, phát triển lập bản đồ liên kết cùng với các chỉ thị khác. Nhƣợc điểm của
AFLP là chỉ thị di truyền trội do đó không có khả năng phân biệt đƣợc cá thể
đồng hợp tử và cá thể dị hợp tử, phƣơng pháp phức tạp, giá thành nghiên cứu
tƣơng đối cao, do vậy chỉ thị AFLP hiện nay cũng không còn đƣợc sử dụng
rộng rãi trên đối tƣợng cây trồng nói chung và cây bông nói riêng.
SSR (Simple Sequence Repeats): còn gọi là các microsatellite, là những
đoạn ADN có trình tự đơn giản đƣợc lặp lại nhiều lần, mỗi đơn vị lặp dài từ
1- 6 bp, đƣợc mô tả đầu tiên bởi Litt và cs. (1989) [59].
Các chỉ thị SSR có ƣu điểm là khá phong phú, phân bố trên toàn hệ gen,
di truyền đồng trội, đa alen, nhân bản dễ dàng, độ phân giải cao và dễ dàng
thao tác dựa trên kỹ thuật PCR. Nhờ những lợi thế sẵn có đó, SSR đã đƣợc
phát triển trên nhiều đối tƣợng thực vật khác nhau. Mặc dù còn những hạn chế
trong sự hiểu biết về chức năng của các đơn vị lặp lại, SSR đã trở thành loại
chỉ thị đƣợc sử dụng rộng rãi trong phân tích hệ gen thực vật. Cho đến nay,
chỉ thị SSR đã và đang đƣợc sử dụng thành công cho nhiều ứng dụng trong
lĩnh vực di truyền và cải tiến giống cây trồng nói chung cũng nhƣ cây bông
nói riêng nhƣ lập bản đồ gen hữu ích, xây dựng bản đồ liên kết di truyền,
chọn lọc dựa vào sự trợ giúp của chỉ thị và lai trở lại (MAS, MABC), nhận
biết giống cây trồng, xác minh phả hệ, phân tích đa dạng di truyền và nghiên
cứu tiến hóa [40][47].
1.3.2. Sự phát triển của chỉ thị SSR và các cơ sở dữ liệu về chỉ thị phân tử
của cây bông
Nhờ có những phƣơng pháp mới và hiệu quả trong việc phân lập các
trình tự lặp lại đã giúp giảm giá thành sản xuất các cặp mồi SSR và thúc đẩy
sự ứng dụng mạnh mẽ hệ thống chỉ thị này [65]. Các chỉ thị SSR có thể đƣợc
phát triển trực tiếp từ thƣ viện ADN hệ gen hoặc từ những thƣ viện đƣợc làm
25
giàu đặc hiệu cho SSR. Hiện nay, số lƣợng lớn các chỉ thị SSR đã đƣợc phát
triển và đƣợc tích hợp vào các cơ sở dữ liệu hệ gen cây trồng [40].
Trên đối tƣợng chi bông Gossypium, sự phát triển của chỉ thị SSR đƣợc
ghi nhận từ những năm 90, với sự công bố quy trình phân lập và phân tích đặc
tính của thƣ viện microsatellite với hơn 500 chỉ thị SSR [24]. Nguồn chỉ thị
SSR mới liên tục đƣợc phát triển và bao phủ rộng trên hệ gen cây bông.
Reddy và cs. (2001) đã công bố một quy trình phân lập microsatellite với chi
phí thấp, dễ sử dụng và hiệu quả. Với quy trình tối ƣu này, hơn 10.000 SSR
với đơn vị lặp 2 và 3 nucleotide từ hệ gen bông Luồi G. hirsutum L. đã đƣợc
phân lập, trong đó 588 đoạn ADN đƣợc giải trình tự và 307 trình tự mồi đã
đƣợc thiết kế. Kết quả thử nghiệm trên tập hợp các giống bông Luồi G.
hirsutum L. và bông Hải đảo G. barbadense L. đã ghi nhận đƣợc khoảng 49%
mồi cho đa hình [69]. Tác giả Nguyen và cs. (2004) đã phát hiện và định vị
đƣợc 392 trình tự microsatellite và thiết kế mồi để sàng lọc đa hình giữa hai
giống bông bố mẹ G. hirsutum và G. barbadense, kết quả đã ghi nhận đƣợc
56% tƣơng ứng với 204 cặp mồi cho đa hình. Nguồn chỉ thị này đã đƣợc sử
dụng để xây dựng bản đồ liên kết di truyền trên cây bông tứ bội và xác định
QTL kiểm soát các tính trạng quan tâm trên cây bông [64].
Những công bố rộng rãi về việc phát hiện các microsatellite ở các đoạn
trình tự biểu hiện (EST) trên cây bông đã thúc đẩy những nghiên cứu phát
triển chỉ thị EST- SSR. Từ dữ liệu 13.505 EST trong hai thƣ viện cDNA sợi
và noãn bông Luồi, Han và cs. (2006) đã phát triển đƣợc 489 cặp mồi EST-
SSR. Những cặp mồi này đã đƣợc sử dụng để sàng lọc đa hình giữa bông
Luồi và bông Hải đảo và thu nhận đƣợc 114 cặp mồi EST-SSR đa hình tƣơng
ứng với 130 locus EST-SSR. Trong số đó, 123 locus đƣợc tích hợp trên bản
đồ liên kết di truyền cây bông dị tứ bội [35]. Ngoài ra, một công trình nghiên
cứu khác năm 2009 cũng công bố một bộ mồi PCR cho 5.475 trình tự EST-
26
SSR, trong đó 2.937 trình tự đƣợc xác định là duy nhất và khuếch đại khoảng
4.000 locus trong hệ gen bông tứ bội. Bộ chỉ thị này đã đƣợc tích hợp trong
cơ sở dữ liệu CMD và đƣợc sử dụng trong nhiều nghiên cứu lập bản đồ liên
kết và bản đồ QTL trên cây bông [98].
Kết quả của các chƣơng trình nghiên cứu trên hệ gen cây bông, chỉ thị
phân tử và những thông tin khoa học trên đối tƣợng Gossypium đã đƣợc tích
hợp và công bố trên các trang web chuyên ngành. Cơ sở dữ liệu chỉ thị cây
bông (Cotton Marker Database- CMD) [19][113] hiện đã cung cấp khả năng
truy cập miễn phí với 17.448 SSRs và 312 trình tự RFLP có chứa SSR đã
đƣợc lập bản đồ. CMD có chứa dữ liệu về các công trình công bố, trình tự,
mồi, bản đồ và dữ liệu tƣơng đồng cho 9 dự án microsatellite. Hệ thống các
mồi SSR trên cây bông đƣợc đặt tên tƣơng ứng từ những dự án phát triển
chúng: BNL, CIR, JESPR, NAU, STV, TMB... Trong đó, một số nhóm mồi
đƣợc sử dụng rộng rãi và hiệu quả trong các nghiên cứu di truyền và chọn
giống phân tử trên cây bông nhƣ BNL, CIR, NAU, JESPR, MUSS, STV,
TMB. Số lƣợng các cặp mồi thuộc các nhóm cũng rất khác nhau trong CMD,
với 379 cặp mồi BNL, 392 cặp mồi CIR, 3.251 cặp mồi NAU, 53 cặp mồi
CM, 311 cặp mồi JESPR, 1.172 cặp mồi MUSS/MUCS, 150 cặp mồi STV,
750 cặp mồi TMB... [113]
Ngoài CMD, Cơ sở dữ liệu cây bông (Cotton Database Resources-
CottonGen) cũng là một nguồn cơ sở dữ liệu chứa thông tin di truyền, hệ gen
và phân loại chi bông (Gossypium spp.) [112] . CottonGen vừa là cơ sở dữ
liệu lƣu trữ vừa là cơ sở dữ liệu động, trong đó kết hợp các dữ liệu mới và các
nguồn sử dụng. Đây thực sự là các cơ sở dữ liệu hữu ích, dễ truy cập, giúp
cho các nhà nghiên cứu sử dụng hiệu quả hơn các nguồn chỉ thị microsatellite
và sẽ giúp tăng tốc độ nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng trong chọn
giống phân tử và lập bản đồ liên kết di truyền trong chi Gossypium spp.
27
1.4. NGHIÊN CỨU LẬP BẢN ĐỒ LIÊN KẾT DI TRUYỀN VÀ BẢN ĐỒ
CÁC LOCUS QUY ĐỊNH CHẤT LƢỢNG XƠ Ở CÂY BÔNG
1.4.1. Những nghiên cứu lập bản đồ liên kết di truyền ở cây bông trên thế
giới
Bản đồ liên kết di truyền dựa vào các chỉ thị phân tử đã trở thành công
cụ quan trọng trong phân tích hệ gen, phát hiện các QTL liên quan đến các
tính trạng quan trọng, lập bản đồ vật lý, chọn dòng dựa vào bản đồ và chọn
lọc dựa vào chỉ thị (MAS) trên nhiều đối tƣợng thực vật khác nhau. Sau khi
bản đồ liên kết di truyền đầu tiên dựa vào chỉ thị RFLP trên đối tƣợng cây
bông đƣợc Reinisch và cs. công bố năm 1994, nhiều bản đồ dựa trên các chỉ
thị RFLP, RAPD, SSR và AFLP cũng đã lần lƣợt đƣợc công bố và có những
ứng dụng thực tiễn trong nghiên cứu và chọn tạo giống bông trên toàn thế
giới.
Các bản đồ liên kết di truyền đƣợc công bố sớm nhất là kết quả của
những công trình nghiên cứu trên chỉ thị RFLP. Bản đồ liên kết đầu tiên do
Reinisch và cs. công bố năm 1994 bao gồm 705 chỉ thị RFLP phân bố trên 41
nhóm liên kết, trải dài 4.675 cM, thu đƣợc khi phân tích quần thể con lai giữa
G. hirsutum và G. barbadense. Bản đồ này đã đặt nền móng và tạo thêm cơ
hội cho các nghiên cứu tiến hóa NST và khai thác nguồn di truyền Gossypium
trong tự nhiên [70]. Năm 1998, Shappley và cs. đã công bố một bản đồ liên
kết với 120 locus RFLP phân bố trên 31 nhóm liên kết, trải dài 865 cM. Mỗi
nhóm liên kết bao gồm từ 2 đến 10 locus, chiều dài từ 0,5-107 cM [78]. Năm
1999, Brubaker và cs. công bố một bản đồ RFLP khác và so sánh kích thƣớc
hệ gen giữa các loài dị tứ bội (hệ gen AD, n=26) và lƣỡng bội (hệ gen A và D,
n=13). Tác giả đã nhận định rằng sự đa bội hóa trong chi Gossypium có liên
quan đến tái tổ hợp tăng cƣờng vì chiều dài di truyền của hệ gen dị tứ bội lớn
hơn 50% so với tổng các phần lƣỡng bội hệ gen A và D [21].
28
Những bản đồ liên kết di truyền cây bông đƣợc công bố trong thời gian
tiếp theo đã đƣợc xây dựng từ chỉ thị SSR hoặc kết hợp nhiều loại chỉ thị khác
nhau. Tác giả Nguyen và cs. (2004) đã công bố bản đồ liên kết với 233 locus
SSR. Bản đồ liên kết này đã đƣợc cập nhật vào bản đồ trƣớc đó với tổng số
1.160 locus (gồm cả RAPD, RFLP và SSR) trải dài trên 5.519 cM, khoảng
cách trung bình giữa các chỉ thị là 4,8 cM. Bản đồ gồm 466 chỉ thị SSR, với
khoảng cách trung bình giữa hai chỉ thị SSR là 12 cM, đã cung cấp thông tin
hữu ích cho những nghiên cứu về QTLs [64]. Tác giả Rong và cs. (2004)
cũng công bố bản đồ liên kết di truyền cho hệ gen Gossypium lƣỡng bội (D)
và dị tứ bội (AD) bao gồm 2.854 locus SSR cho hệ gen AD và 763 locus cho
hệ gen D. So sánh hai bản đồ đã nhận thấy tái tổ hợp đôi không nhiều nhƣ
mong đợi ở cả bông lƣỡng bội và bông tứ bội và tác giả cho rằng hiện tƣợng
này là do quá trình trao đổi chéo bị ảnh hƣởng (negative crossover
interference) [72]. Việc nhận biết những SSR nằm trong 312 trình tự RFLP
cùng với bản đồ 124 SSR và sự phát hiện những chỉ thị CAPS và SNPs đã
chứng minh khả năng thay đổi vị trí của những locus SSR ở các quần thể và
các hệ thống chỉ thị này có ích cho việc cải tiến phƣơng pháp MAS ở cây
bông. Kết quả này đã thúc đẩy những nghiên cứu về cấu trúc, chức năng và
tiến hóa hệ gen.
Các bản đồ liên kết di truyền do Song và cs. (2005) xây dựng dựa trên
những quần thể khác nhau giữa G. hirsutum L. và G. barbadense L. gồm 440
SSR trải dài 4.331,2 cM đƣợc lập từ quần thể đơn bội kép và bản đồ gồm 444
SSR với chiều dài 3.262,9 cM đƣợc lập từ quần thể BC1. Sự khác nhau có ý
nghĩa trong tái tổ hợp giữa các bản đồ đã đƣợc quan sát ở mức độ NST và hệ
gen. Nhờ việc so sánh các bản đồ và kết hợp các bộ dữ liệu, tác giả đã cung
cấp thông tin hữu ích cho những nghiên cứu về đa dạng, cấu trúc quần thể,
cũng nhƣ các nghiên cứu lập bản đồ QTL/ gen trong chi Gossypium [81].
29
Tuy nhiên, để có đƣợc những phân tích toàn diện về hệ gen bông và lập
bản đồ QTL, các nhà khoa học cũng đã nhận định rằng cần thiết phải phát
triển nhiều chỉ thị hơn nữa và phát hiện những bộ chỉ thị mới. Các đoạn trình
tự biểu hiện (EST- Expressed sequence tags) đã cung cấp nguồn chỉ thị phong
phú và đƣợc các nhà khoa học bổ sung vào các bản đồ liên kết cây bông đã
công bố [35][61][66][86]. Với mục đích lập đƣợc bản đồ liên kết di truyền
mật độ cao và xác định đƣợc những gen kiểm soát chất lƣợng xơ phục vụ
chọn tạo giống, Park và cs. (2005) đã sử dụng một bộ chỉ thị microsatellite
mới bao gồm cả dạng đơn giản (simple- SSR) và dạng phức hợp (complex-
CSR) để phân tích trên 183 dòng nội phối tái tổ hợp (RIL) phát triển từ phép
lai khác loài giữa G. hirsutum TM1 và G. barbadense Pima 3-79. Từ tổng số
1.232 cặp mồi EST-SSR (MUSS) và CSR (MUCS), 1.019 (83%) cặp mồi cho
sản phẩm PCR với những giống nghiên cứu, tuy nhiên chỉ có 202 chỉ thị
(19,8%) cho đa hình giữa hai giống bông bố mẹ. Trong số đó, chỉ có 86 chỉ
thị (42,6%) biểu hiện trình tự thực sự tƣơng đồng với những gen kiểm soát
những chức năng đã biết. Bản đồ liên kết di truyền đƣợc tạo ra gồm có 193
locus, trong đó có 121 locus chất lƣợng xơ mới chƣa đƣợc xác định trƣớc đó.
Phân tích đã cho thấy các NST số 2,3,15 và 18 có thể tập trung nhiều locus
chất lƣợng xơ. Những chỉ thị EST-SSR này có tính ứng dụng cao trong các
nghiên cứu lập bản đồ liên kết di truyền mật độ cao, nghiên cứu cấu trúc và
chức năng gen kiểm soát chất lƣợng xơ và ứng dụng MAS trong cải tiến chất
lƣợng xơ của cây bông [66].
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Guo và cs. (2007) cũng sử dụng
2.218 SSR từ EST (1.554 từ G. raimondii và 754 từ G. hirsutum) để sàng lọc
đa hình phục vụ cho việc lập bản đồ liên kết di truyền khung ở bông dị tứ bội.
Trong số những chỉ thị đƣa vào sàng lọc, có 47,9% chỉ thị từ G.raimondii và
23,9% chỉ thị từ G. hirsutum cho đa hình giữa hai giống bố mẹ. Bản đồ liên
30
kết di truyền bao gồm 1.790 locus với 26 nhóm liên kết và bao phủ 3.425,8
cM với khoảng cách giữa hai chỉ thị là 1,91 cM. Bản đồ liên kết giàu gen dựa
vào microsatellite (microsatellite-based, gene-rich linkage map) của nhóm tác
giả đã chứa 71,96% locus chỉ thị chức năng, với 87,11% là các locus SSR
[32].
Ngoài các loại chỉ thị thông dụng nhƣ RFLP, SSR, AFLP, nhiều hệ
thống chỉ thị khác cũng đƣợc đƣợc phát hiện và sử dụng thành công trong các
nghiên cứu lập bản đồ liên kết di truyền ở cây bông. Hệ thống chỉ thị SRAP
(Sequence-related amplified polymorphism) đã đƣợc Li và cs. phát hiện năm
2001 và đƣợc sử dụng kết hợp cùng các hệ thống chỉ thị SSR, RFLP trong
một số công trình nghiên cứu lập bản đồ liên kết di truyền trên cây bông
[54][56][104]. Hệ thống chỉ thị TRAP (target region amplification
polymorphism) cũng dựa trên PCR đã đƣợc sử dụng để nghiên cứu đa dạng di
truyền ở một số loài cây trồng và trên cả cây bông [102].
Chỉ thị phân tử đƣợc sử dụng trong các nghiên cứu gần đây có xu
hƣớng tăng về số lƣợng nhằm mục đích xây dựng đƣợc những bản đồ liên kết
di truyền với mật độ chỉ thị cao hơn. Bản đồ liên kết mật độ cao của Yu và cs.
(2007) xây dựng từ quần thể con lai F2 thu đƣợc từ phép lai khác loài giữa hai
giống bông dị tứ bội G. hirsutum và G. barbadense. Bản đồ gồm có 1.097 chỉ
thị với 697 SSR, 171 TRAPs, 129 SRAP, 98 AFLP và 2 chỉ thị hình thái, trải
dài 4.536,7 cM với khoảng cách trung bình giữa các chỉ thị là 4,1 cM [102].
Bên cạnh đó, bản đồ liên kết di truyền do He và cs. (2007) xây dựng
với các chỉ thị dựa vào PCR rất có ích cho chƣơng trình chọn giống dựa vào
chỉ thị. Bản đồ của nhóm tác giả gồm 4 loại chỉ thị SSR, SRAP, RAPD và
REMAP đƣợc sử dụng để phân tích quần thể con lai F2 thu đƣợc từ phép lai
giữa Handan208 (G. hirsutum) và Pima (G. barbadense). 69 cây F2 đƣợc sử
dụng để xây dựng bản đồ với 834 SSR, 437 SRAP, 107 RAPD và 16
31
REMAP. Qua phân tích liên kết, nhóm tác giả nhận thấy rằng 1.029 locus đã
đƣợc lập thành 26 nhóm liên kết, bao phủ 5.472,3 cM, khoảng cách trung
bình giữa hai locus là 5,32 cM [37].
Bản đồ của Ma và cs. (2008) xây dựng từ quần thể con lai F2 thu đƣợc
từ phép lai cùng loài của bông lƣỡng bội hệ gen A (G. arboreum L.) với các
chỉ thị SSR bao gồm 267 locus với chiều dài 2.508,71 cM, khoảng cách trung
bình giữa hai chỉ thị là 9,40 cM [61]. Bản đồ này đã đƣợc nhiều nghiên cứu
khác tham khảo và làm bản đồ đối chiếu trong nghiên cứu của mình [6].
1.4.2. QTL và những nghiên cứu lập bản đồ QTL chất lƣợng xơ ở cây
bông trên thế giới
Nhận biết những locus đóng góp vào biến dị di truyền các tính trạng số
lƣợng trong tự nhiên (nhƣ năng suất và chất lƣợng của cây trồng) luôn đƣợc
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Số lƣợng và hiệu quả của những locus
này (còn gọi là những locus tính trạng số lƣợng- QTLs) sẽ cung cấp cơ sở di
truyền học, hóa sinh học của những tính trạng nghiên cứu cũng nhƣ sự tiến
hóa của chúng trong quần thể qua thời gian. Thêm vào đó, những hiểu biết về
QTLs sẽ hỗ trợ đắc lực trong việc nghiên cứu cải tiến chất lƣợng cây trồng.
Cải tiến chất lƣợng xơ luôn là một hƣớng trọng tâm trong các nghiên
cứu di truyền và chọn giống cây bông trên toàn thế giới. Chất lƣợng xơ là tính
trạng số lƣợng, điều khiển bởi đa gen. Nhận biết những QTL ổn định đóng
góp hiệu quả vào những tính trạng chất lƣợng xơ quan trọng sẽ cung cấp
những chìa khóa cơ bản cho những dự án chọn giống dựa vào chỉ thị phân tử.
Nhiều công trình nghiên cứu về các QTL chất lƣợng xơ trên cây bông
tứ bội sử dụng những loại quần thể khác nhau (F2, BC, RIL...) đã đƣợc công
bố trên thế giới. Nhóm tác giả Lacape và cs. (2005) đã tiến hành nghiên cứu
trên các quần thể lai trở lại thế hệ BC1 và BC2 và định vị đƣợc 26 QTL trên
32
bản đồ NST và công bố hiệu quả của chúng. Các QTL đƣợc phát hiện có ảnh
hƣởng tới các tính trạng kinh tế quan trọng nhƣ chiều dài xơ, độ bền xơ, độ
mịn xơ và màu sắc xơ. Tác giả cũng nhận biết 19 vùng trên 15 NST khác
nhau là v ng đích cho những chiến lƣợc chọn lọc bằng chỉ thị phân tử [52].
Công trình nghiên cứu của Shen và cs. (2005) đã xác định đƣợc 39
QTL chất lƣợng xơ thông qua lập bản đồ kết hợp dựa trên 3 quần thể bông
Luồi G. hirsutum, trong đó có 11 QTL chiều dài xơ, 10 QTL độ bền xơ, 9
QTL độ mịn xơ và 9 QTL độ giãn xơ. Trong số đó có 5 QTL ổn định ở các
quần thể phân ly, chỉ ra tiềm năng lớn cho việc sử dụng MAS trong cải tiến
chất lƣợng xơ. Tác giả cũng nhận định kết quả thu đƣợc đã cung cấp những
hiểu biết tốt hơn trong nghiên cứu di truyền các tính trạng xơ ở cây bông tứ
bội [80].
Đến năm 2007, cũng nhóm tác giả Shen và cs. đã công bố kết quả
nghiên cứu xây dựng bản đồ QTL năng suất và chất lƣợng xơ khi phân tích
các dòng nội phối tái tổ hợp (RIL) phát triển từ quần thể con lai F2 của giống
bông Luồi G. hirsutum L. Bản đồ liên kết di truyền đƣợc xây dựng bao gồm
156 locus SSR, với chiều dài 1.024,4 cM. Tác giả đã phát hiện đƣợc 25 QTL
chất lƣợng xơ và các yếu tố cấu thành năng suất, trong đó có 4 QTL có hiệu
quả ảnh hƣởng lớn đến chất lƣợng xơ và 7 QTL ảnh hƣởng lớn đến các yếu tố
cấu thành năng suất. Tác giả cũng công bố những cặp chỉ thị liên kết liền kề
hai phía với các QTL năng suất và chất lƣợng xơ. Ví dụ, trên NST D8, cặp chỉ
thị JESPR127- CIR070a liên kết với QTL độ bền xơ qFS-D8-1; cặp
NAU1037- BNL2961 liên kết với QTL độ mịn xơ qFMIC-D8-1; cặp chỉ thị
NAU1262-NAU1125 liên kết chặt với QTL kích thƣớc hạt qBS-D8-1 và QTL
năng suất bông hạt qSY-D8-1. Đây là những QTL có ảnh hƣởng lớn tới tính
trạng tƣơng ứng với tỷ lệ quy định biến dị kiểu hình đều trên 15% [79].
33
Những nghiên cứu về ứng dụng chỉ thị ADN trong cải tiến cây bông
tiếp tục đƣợc quan tâm nghiên cứu trên thế giới trong những năm gần đây.
Loại chỉ thị đƣợc sử dụng thông dụng nhất vẫn là SSR. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả Wu và cs. (2009) đã phân tích 14 tính trạng nông học và chất
lƣợng xơ của quần thể gồm 188 dòng RIL phát triển từ 94 dòng F2 giữa hai
giống bố mẹ „HS 46‟ và „MARCABUCAG8US-1-88‟. Kết quả phân tích di
truyền số lƣợng đã cho thấy các yếu tố di truyền đã chi phối hơn 20% biến dị
kiểu hình đối với tất cả các tính trạng nghiên cứu trừ chu vi sợi (18%). 56
QTL liên quan tới 14 tính trạng nông sinh học và chất lƣợng xơ đã đƣợc định
vị trên 17 NST, trong số đó có một số QTL quy định trên 10% biến dị kiểu
hình. Nhóm nghiên cứu cũng công bố những cặp chỉ thị SSR liên kết liền kề
hai phía QTL quan tâm. Ví dụ, trên NST số 5, cặp chỉ thị CIR328- BNL3029
liên kết với QTL độ bền xơ, cặp chỉ thị BNL3241- BNL2609 liên kết với
QTL độ mịn xơ. Các NST 3, 5, 12, 13, 14, 16, 20 và 26 mang những QTL
quan trọng cho cả tính trạng năng suất và chất lƣợng xơ. Tác giả nhận định
những QTL này sẽ rất có ích cho chọn lọc dựa vào chỉ thị nhằm cải thiện một
cách có hiệu quả công tác chọn tạo giống bông [97].
Đa số những nghiên cứu lập bản đồ QTL chất lƣợng xơ trên thế giới
đều có định hƣớng ứng dụng cho chọn tạo và cải tiến các giống bông. Chỉ
riêng với tính trạng độ bền xơ, tác giả Chee và Campell (2009) đã tổng kết
đƣợc hơn 80 QTL từ 17 nghiên cứu lập bản đồ QTL khác nhau đã đƣợc công
bố trên thế giới. Số lƣợng QTL độ bền xơ đƣợc phát hiện trong mỗi nghiên
cứu thay đổi từ 1 tới 21, giải thích từ 2,4 đến 53,8% tổng số biến dị kiểu hình
của tính trạng [22]. Do vậy, việc quy tụ những QTL quan tâm vào cùng một
nền di truyền là việc hoàn toàn có thể thực hiện. Tuy nhiên, việc nhận biết
đƣợc các QTL chính và ổn định để cải tạo hiệu quả chất lƣợng xơ đòi hỏi một
thời gian dài nghiên cứu liên tục của các nhà khoa học và sự kế thừa kết quả
34
của các công trình trƣớc đó. Nghiên cứu của nhóm tác giả Kumar và cs.
(2012) là một ví dụ. Kế thừa kết quả của các nghiên cứu trƣớc về QTL độ bền
xơ chính đƣợc định vị trên NST 24 ở giống bông Suyuan 7235, nhóm tác giả
đã nghiên cứu liên tục từ năm 2007 trở lại đây và đã xác nhận đƣợc hiệu quả
của QTL độ bền xơ quy định trên 40% biến dị kiểu hình, ổn định qua các thế
hệ và các quần thể nghiên cứu khác nhau. Cặp chỉ thị SSR BNL2621-
BNL3145 liên kết liền kề hai phía với v ng định vị của QTL và 10 chỉ thị
SSR nằm giữa hai chỉ thị này đã đƣợc sử dụng để sàng lọc những dòng ƣu tú
mang QTL độ bền xơ trong chƣơng trình cải tạo giá trị kinh tế cho giống bông
ở Hoa Kỳ [46].
Trong một nghiên cứu khác, Zhang và cs. (2012) đã phát triển quần thể
lai phức hợp (composite cross population) từ ba giống bông Luồi ƣu tú với
mục đích xây dựng đƣợc bản đồ liên kết di truyền mật độ cao và nhận biết
những QTL có liên quan đến chất lƣợng xơ bông. Bản đồ liên kết di truyền
đƣợc xây dựng bao gồm 978 chỉ thị SSR phân bố trên 69 nhóm liên kết, chiều
dài bản đồ là 4.184,4 cM, bao phủ khoảng 94,1% hệ gen bông tứ bội. Tổng số
63 QTL đƣợc phát hiện dựa trên dữ liệu kiểu hình trong ba năm 2007, 2008
và 2009. Những QTL này phân bố trên 18 NST, giải thích từ 8,1- 55,8% biến
dị kiểu hình, trong đó có 11 QTL độ giãn xơ, 16 QTL chiều dài xơ, 9 QTL độ
mịn xơ, 10 QTL độ bền xơ và 17 QTL độ đều xơ. Tuy nhiên, trong số những
QTL đƣợc phát hiện, chỉ có 6 QTL đƣợc phát hiện liên tục trong 2 năm. Điều
này cho thấy tác nhân môi trƣờng có ảnh hƣởng quan trọng đến sự biểu hiện
của QTL. Nhóm tác giả cũng nhận biết sự tƣơng đồng về vị trí của 11 QTL
trong nghiên cứu của mình với các công trình đã công bố trƣớc đó. Những
QTL đƣợc phát hiện trong hai môi trƣờng và ở các quần thể khác nhau rất có
giá trị cho chƣơng trình chọn giống dựa vào chỉ thị, do vậy tác giả đã đặt mục
tiêu cho bƣớc nghiên cứu tiếp theo là kết hợp bản đồ liên kết di truyền của
35
mình với hai bản đồ của các tác giả khác thành một bản đồ kết hợp mật độ cao
phục vụ cho việc xác định chính xác QTL sử dụng trong chọn tạo giống [105].
Việc nhận biết những QTL chất lƣợng xơ ổn định qua nhiều thế hệ và
các môi trƣờng khác nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chọn lọc dựa vào chỉ
thị phân tử nhằm cải tiến chất lƣợng của các giống bông trồng trọt. Nghiên
cứu liên tục nhiều năm trên những quần thể từ thế hệ đầu (F2, F2:3) cho đến
các quần thể nội phối tái tổ hợp (RIL, F6:8) đã đƣợc Sun và cs. tiến hành từ
năm 2001 đến 2012 nhằm phát hiện những QTL thực sự ổn định qua các thế
hệ khác nhau và ở các môi trƣờng khác nhau. Các quần thể phân ly thu đƣợc
từ phép lai cùng loài giữa hai giống bông Luồi 0-153 có chất lƣợng xơ tốt và
giống sGK9708 là giống chuyển gen chất lƣợng xơ trung bình đã đƣợc
thƣơng mại hóa. Tác giả đã sử dụng 5.742 cặp mồi SSR để sàng lọc đa hình
giữa hai giống bố mẹ. Bản đồ liên kết di truyền của quần thể con lai F2 và RIL
đƣợc xây dựng bao gồm 155 và 190 locus với tổng chiều dài tƣơng ứng là
959,4 cM và 700,9 cM. QTL chất lƣợng xơ đƣợc sàng lọc qua các thế hệ và
các môi trƣờng thông qua lập bản đồ kết hợp CIM (composite interval
mapping). Tổng số 50 QTL chất lƣợng xơ đƣợc phát hiện, trong đó 10 QTL
độ bền xơ, 10 QTL chiều dài xơ, 10 QTL độ mịn xơ, 8 QTL độ đều xơ và 12
QTL độ giãn xơ. Trong số đó có 9 QTL đƣợc nhận biết trong cả ba loại quần
thể nghiên cứu là F2, F2:3 và RIL. Hai QTL độ bền xơ trên NST C7 và C25
đƣợc nhận thấy là ổn định qua các thế hệ và các môi trƣờng nghiên cứu, đã
giải thích 16,67- 27,86% và 9,43- 21,36% biến dị kiểu hình. Tác giả cũng
công bố những cặp chỉ thị liên kết liền kề hai phía của các QTL ổn định này,
ví dụ cặp NAU1085- TMB1618 trên NST số 7 và cặp chỉ thị NAU3298b-
CM067 trên NST số 25 có thể sử dụng hiệu quả cho MA
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003295_3842_2006138.pdf