Người phụnữthời nào cũng vậy, luôn là linh hồn của gia đình. Xã hội càng 
phát triển, các quan hệtrong gia đình càng trởnên phức tạp hơn, và do vậy càng đòi 
hỏi nhiều hơn ởngười phụnữ. Dễnhận thấy trong sáng tác của các cây bút nữnổi bật 
đềtài gia đình mà ở đó nhân vật nữ được thểhiện gắn với niềm vui và nỗi buồn, hi 
vọng và thất vọng, hạnh phúc và bất hạnh. Với ưu thếgiới tính của mình, các nhà văn 
cũng là những người phụnữhiện đại hiểu hơn ai hết những khó khăn mà họgặp phải 
trong các quan hệvới cha mẹ, anh em của cái gia đình thứnhất sinh ra họ; trong quan 
hệvới chồng, con của cái gia đình thứhai, “gia đình hạt nhân” mà chính họtạo nên. 
Với trải nghiệm của bản thân, sựnhạy cảm trước những nỗi đau quanh mình, sựtinh 
tếtrong phát hiện chi tiết và khảnăng phân tích nhạy bén cuộc sống qua thếgiới tâm 
hồn, hình ảnh những người phụnữhiện lên vô cùng sinh động như đang thầmthì kể
với chúng ta câu chuyện gia đình của họ. Và chẳng có gì phải ngạc nhiên khi đây đó 
có những độc giảnữtìm thấy hình bóng của mình trong nhân vật cũng nhưta nhìn 
thấy hình bóng cuộc đời của nhà văn qua nhân vật mà họ đã dồn bao tâm huyết tạo 
nên. 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 125 trang
125 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3775 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 suốt đời sống vì con nhưng không 
được đền đáp xứng đáng. Trong truyện ngắn Của để dành, Nguyễn Thị Thu Huệ đưa 
chúng ta đến với không gian nhỏ hẹp của một gia đình Hà Nội giữa đô thị sầm uất.. 
“Bà Vy có ba con. Hai trai, một gái. Đều học hành đến nơi đến chốn và xinh đẹp cả. 
Thằng Cả làm giám đốc công ty may. Thằng Hai làm kế toán trong một nhà máy. 
Còn cô Út, là diễn viên của một đoàn kịch. Hàng tháng, con cả đưa bà năm trăm 
ngàn tiền ăn chung, ba trăm tiền gạo và hai trăm tiền điện. Con thứ góp năm trăm vị 
chi ăn bữa tối. Còn cô út, cười xòa: “Giàu con út, khó con út. Các anh ấy kiếm tiền 
dễ, chứ con mua danh ba vạ bán danh ba hào, tiền lương không đủ hai bộ váy”. Bà 
Vy làm được một việc mà không phải người phụ nữ nào cũng thành công là nuôi dạy 
con khôn lớn, có công ăn việc làm ổn định. Bà phục vụ các con một cách vô điều 
kiện, tận tụy chăm chỉ, và bà tìm thấy niềm hạnh phúc trong những công việc ấy. Thế 
nhưng, oái oăm thay bà Vy lại chính là nạn nhân của lối suy nghĩ “nước mắt chảy 
xuôi” của mình. Cái chết của bà là một hồi chuông cảnh tỉnh cho những bà mẹ hãy 
dạy cho các con biết sống vì người khác. Có như vậy, con cái mới là “của để dành” 
của cha mẹ. Những đứa con của bà Vy không thể nói là không thương mẹ, nhưng 
chúng quá coi trọng công việc và sự tự do của riêng mình. Chúng không hiểu rằng mẹ 
cần chính sự chăm sóc của chúng, chứ không phải chỉ là tiền bạc. Lời ông bác sĩ có lẽ 
sẽ ám ảnh những đức con của bà Vy cho đến suốt đời: “Nạng sắt đâu có đỡ được 
mãi. Mẹ cháu chỉ có thể dựa vào các cháu thôi. Mà các cháu không cho dựa thì mới 
ra nông nỗi này”. 
Giống với bà Vy, bà Nội trong truyện ngắn Khoảng trời phía sau nhà của 
Nguyễn Thị Ngọc Tú cũng lấy con làm lẽ sống cho mình. Trong công việc ở cơ quan, 
bà luôn hoàn thành xuất sắc, được mọi người quý mến, nhưng trong gia đình, bà lại là 
một người phụ nữ nhu nhược. Bà trở thành cái bóng của đứa con gái lúc nào cũng 
không biết: mặc quần áo của con thải ra, ăn đồ ăn thừa của con và bạn bè nó bỏ lại, 
che chắn cho lối sống phóng túng của con trước những cặp mắt phán xét của bà con 
hàng xóm. Bà hoàn thành công việc xã hội, một mình nuôi đứa con gái với người 
chồng chết cách đây đã hơn hai mươi năm. Bà đã cho con một mái nhà êm ấm, nơi có 
một người mẹ tảo tần, đoan trang, hiền hậu, luôn dõi theo mỗi bước con đi. Thế 
nhưng sự chiều chuộng quá đáng của bà làm cho cô gái trở nên một con người ích kỉ. 
Cô là tín đồ của lối sống “sành điệu” của một bộ phận giới trẻ thời hiện đại: ăn chơi, 
rượu chè, nhảy nhót, cặp bồ lung tung. Cô chỉ biết sống cho mình, làm những gì mình 
thích, không cần quan tâm đến người khác, thậm chí đó là mẹ mình. Cô từng phản 
ứng với mẹ khi mẹ tỏ ra quan tâm: “Mẹ lạ thật, cái gì cũng muốn biết, cũng tò mò, 
thắc mắc. Người hiện đại bây giờ không ai sống thế. Nào, nào mẹ xem, con có bao 
giờ thắc mắc là mẹ làm những gì, mẹ bạn bè với ai và có ông nào đang “bắn” 
mẹ…”. Bà Nội sáng suốt hơn bà Vy ở chỗ bà đã nhận ra sai lầm và tìm cách sửa 
chữa. Bà thay đổi, đã biết sống cho mình. Bà may áo mới, một cái áo cổ lỗ nhưng 
hợp với bà. Bà mua guốc mới, một đôi guốc của người già. Bà đi thăm bạn bè thay vì 
đứng ở cửa ngóng chờ con về. Bà không phần cơm khi con về trễ. Tất cả những thay 
đổi đó của bà đã làm cho cô con gái phải suy nghĩ lại. “Con người hiện đại sống 
phóng túng lâu nay chẳng cần cái gì. Chẳng quan tâm tới ai. Bỗng nhiên Ngân cảm 
thấy một nỗi sợ hãi. Lần đầu tiên, Ngân thấy gian nhà trống vắng đến ghê người – 
ngôi nhà và nỗi trống vắng mà mẹ cô đã phải sống bao nhiêu năm trời”. Câu chuyện 
của bà Nội làm cho chúng ta nghĩ về những đòi hỏi mà xã hội hiện đại yêu cầu ở 
người phụ nữ. Hoàn thành tốt công việc xã hội, nuôi con khỏe và chung thủy với 
chồng thôi chưa đủ, còn phải biết dạy con nên người. Người phụ nữ của xã hội ngày 
hôm nay không phải chỉ biết sống vì con, mà còn phải biết sống cho mình. Dung hòa 
được hai nhu cầu ấy, người phụ nữ sẽ có nhiều cơ may để trở thành người đàn bà 
thành đạt và hạnh phúc. 
Nếu như với đề tài mẹ - con, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Thị Ngọc Tú và Y 
Ban tập trung vào vấn đề sự quan tâm đến nhau, thì Lý Lan lại khai thác khía cạnh 
khoảng cách thế hệ. Truyện ngắn Mẹ và con của chị kể về hai người phụ nữ: người 
mẹ đã sáu mươi tuổi, suốt ngày quanh quẩn với những công việc nội trợ “ngày hai 
buổi quét lá tấp vô gốc mận, nấu hai bữa cơm, lau nhà hai lần, đóng cửa cổng cho 
con gái đi và về” và cô con gái trên ba mươi tuổi “mười mấy năm nay lăn lộn chốn 
thương trường, không biết đến chữ nhịn, không chấp nhận chữ thua”. Cả hai mẹ con 
đều rất thương yêu nhau, bà mẹ coi việc mình hi sinh cả đời cho con gái là lẽ sống 
duy nhất, còn cô con gái đã làm hết sức mình để mẹ có được những ngày cuối đời 
thảnh thơi. Thế nhưng bà mẹ không hề thảnh thơi bởi “nếu không kiếm ra công việc 
để cặm cụi làm suốt ngày thì bà không chịu được” và cô con gái cũng không thấy 
hạnh phúc vì sự hi sinh của mẹ dành cho mình mà trái lại còn cảm thấy mệt mỏi. “Khi 
bước qua tuổi ba mươi, Quyên nghĩ mẹ có cần thiết phải hi sinh như vậy không? 
Người ta cần trung thực sống cuộc đời của mình, hay cứ huyễn hoặc mình bằng cuộc 
sống cho người khác? Quyên đã nhận ra rằng khi một người biến người khác thành 
lẽ sống của mình là đã chất một gánh nặng tồi tệ nhất lên vai người đó. Quyên càng 
ngày càng mệt mỏi với cái gánh nặng đó”. Giữa hai mẹ con có một khoảng cách 
không thể rút ngắn lại: đó là khoảng cách của thói quen, của nếp nghĩ, của quan niệm 
về sự trật tự ngăn nắp giữa một người mẹ Việt Nam truyền thống và một cô gái Việt 
Nam thời hiện đại. Cuối cùng, cô gái cố gắng tìm cách để đến gần với mẹ, bởi cô biết 
cô không có gì khác ngoài ngôi nhà và mẹ, nhưng cố gắng của cô trở thành vô vọng 
bởi những thói quen, những quan niệm thẩm mĩ của họ đã khác nhau rất xa. Câu 
chuyện như một tiếng thở dài của con người thời hiện đại. Họ thấy cô đơn ngay cả 
khi đang sống bên người mà mình yêu thương nhất. 
Cũng nói về khoảng cách nhưng không chỉ dừng lại ở khoảng cách thế hệ, 
truyện ngắn Cô con gái còn kể với chúng ta câu chuyện về khoảng cách được tạo bởi 
nền văn hóa giữa mẹ và con gái. Một người phụ nữ có thai với người yêu. Mối tình 
này bị ngăn cấm, chị vượt biên đến Mỹ sinh sống và sinh con ở Mỹ. Cô gái lớn lên 
hòa nhập với nền văn hóa Mỹ, xa mẹ dần bởi mẹ không đủ vốn tiếng Anh để nói 
chuyện với con, và bởi cả lối sống “tự do kiểu Mỹ” khác xa với quan niệm “tự do 
trong khuôn khổ” của người Việt Nam. Đến năm hai mươi tuổi, cô nhận thức được 
mình cần phải biết về nền văn hóa Việt, vì cô là người gốc Việt. Và có lẽ cũng chính 
trong thời gian này, cô nung nấu quyết tâm tìm ra người cha của mình bởi cô không 
muốn trở thành một “người Mỹ không căn cước”. Người mẹ lúc đầu nói dối con về 
người cha của nó, bà cho rằng đấy là lời nói dối vô hại, vả lại bà không muốn khơi lại 
nỗi đau thời con gái. Nhưng trước sự đòi hỏi quyết liệt của con, bà phải nhượng bộ. 
“Mẹ có quyền giữ trong lòng nỗi riêng của mẹ. Nhưng con có quyền biết con là ai”. 
 Có lẽ là người được sống giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Mỹ, Lý Lan có 
điều kiện chứng kiến những sự khác biệt về phong cách sống của một người phụ nữ 
Việt đã bị “Mỹ hóa” với người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Cùng đề tài với Mẹ và 
con và Cô con gái, chị còn có truyện ngắn Ba người đàn bà. Những tác phẩm của 
chị cho chúng ta một độ lùi nhất định để hiểu người phụ nữ Việt Nam thấu đáo hơn. 
Lý Lan rất kiệm lời, không đao to búa lớn mà cứ nhẹ nhàng, tinh tế dẫn dụ người đọc 
đến với những nỗi đau của con người thời hiện đại. Tác phẩm của chị làm cho người 
ta phải lắng lòng để suy ngẫm về những con người nhỏ bé với những vui buồn chẳng 
phải của riêng ai. 
Góp thêm một tiếng nói với Lý Lan, Trần Thùy Mai có truyện ngắn Mưa đời 
sau. Chị kể với chúng ta câu chuyện về sự chọn lựa trong tình yêu của mẹ và con gái. 
Người mẹ đã từ bỏ tình yêu đích thực của mình chỉ bởi gia đình chị cho rằng nghiệp 
âm nhạc của người chị yêu quá bấp bênh để sống cả một đời yên ổn nhưng không 
nồng thắm với người bây giờ là cha cô gái. Còn cô gái, con chị, lại từ chối một anh 
bạn Việt kiều xứng đôi vừa lứa để đến với một người đàn ông hơn cả tuổi mẹ mình vì 
cô tin đã tìm được đúng người mình mong đợi. Người mẹ là một kiểu phụ nữ của thời 
trước, thích sự ổn định, không dám đi đến tận cùng đam mê. Còn cô gái là kiểu phụ 
nữ của ngày nay, dám mơ ước, dám quyết định, dám chịu trách nhiệm với tương lai 
của mình. Cô gái đã không muốn phải lựa chọn giữa cha mẹ và người yêu. Cô thuyết 
phục để có cả hai. “Con yêu ba mẹ, và con cũng yêu ông Lãm, hai điều đó không loại 
trừ nhau”. Tôi giận dỗi hỏi con: “Trên đời hết đàn ông rồi sao?” Nhím mở to mắt 
như muốn soi thấu cả tim can tôi: “Mẹ đã biết, nhân loại rất đông nhưng chẳng có ai 
thay thế được ai”. Thật may mắn, giữa mẹ và con, hai con người của hai thế hệ, đã 
tìm được tiếng nói chung. Người mẹ với tấm lòng độ lượng bao dung, với sự từng trải 
của người từng chịu mất mát trong tình yêu đã tán thành quyết định của con gái. Đó 
là một cách ứng xử thông minh và đúng đắn. Như vậy, so với người mẹ, cô con gái 
đã đi được một bước dài. Trước kia, mẹ cô phải chọn lựa giữa gia đình và tình yêu. 
Bà đã không thuyết phục, mà chọn gia đình, hi sinh tình yêu để dần dần nhận ra con 
thuyền tình yêu của mình chưa bao giờ cập bến. Nay, cô gái đã có cả cha mẹ, cả tình 
yêu và sự nghiệp. Cô gái là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ ngày hôm nay: mạnh mẽ, 
tự tin, đầy bản lĩnh đối diện với thế giới. 
 Ở những tác phẩm vừa phân tích, hình ảnh người phụ nữ đã được nhìn nhận 
dưới ánh sáng của tình mẫu tử. Mỗi tác giả kể với chúng ta một câu chuyện khác 
nhau, và qua từng hoàn cảnh cụ thể, với những con người cụ thể, chúng ta hiểu hơn 
về người phụ nữ của hai thế hệ. Ở họ vẫn có những điểm giống nhau về cá tính, về 
niềm khao khát vươn tới hạnh phúc nhưng đã khác nhau rất xa ở cách ứng xử với 
cuộc sống. 
Tình cảm chị em cũng là một mảng đề tài trong sáng tác của các nhà văn nữ. 
Qua mối quan hệ với những người thân trong gia đình, hình ảnh người phụ nữ hiện 
đại hiện lên một cách toàn diện hơn. Cùng sinh ra trong một gia đình, cùng được cha 
mẹ nuôi dạy trong một môi trường nhưng tính cách của mỗi người một khác. Có 
người phụ nữ hi sinh hạnh phúc của mình cho người thân, nhưng ngược lại cũng có 
người lại giành giật hạnh phúc từ chính người ruột thịt. Có những gia đình, chị em lấy 
tình thương ra để đối xử với nhau, nhưng ngược lại, ở những gia đình khác, chị em 
nhìn nhau bằng ánh mắt thù hận. Dường như lời nhắc nhở của cha ông ta: “Anh em 
như thể tay chân”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” hay “Khôn ngoan đá đáp 
người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” không còn đúng với nhiều trường 
hợp. Chẳng lẽ trong xã hội hiện đại, những giá trị đạo đức lại xuống cấp đến mức 
nghiêm trong vậy sao? 
Truyện ngắn Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ và Hạnh của 
Nguyễn Thị Minh Dậu khắc họa hình ảnh hai chị em gái khác hẳn nhau về tính cách 
cũng như quan niệm sống. Người chị có tấm lòng nhân hậu, nhường nhịn, hi sinh cho 
em nhưng lại phải chịu nhiều thiệt thòi mà kết cục là cái chết. Còn cô em gái được 
hưởng tình yêu thương của chị lại cướp chồng của chị với mong ước có cuộc sống 
đầy đủ về vật chất, gây nên nỗi nhục loạn luân. Có nội dung na ná nhau, nhưng hoàn 
cảnh của từng truyện có khác. Cô Hảo trong truyện của Thu Huệ đã có một gia đình 
hạnh phúc trên thành phố với người chồng đẹp trai và thành đạt mới ở nước ngoài về. 
Cô em gái quyết tâm thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn bằng cách quyến rũ chồng chị. 
Cô sẵn sàng dẫm đạp lên thuần phong mĩ tục, lên tình cảm chị em gắn bó bấy lâu nay 
để đạt được mục đích của mình. Với cô, sự sung sướng của mình là trên hết, ngoài ra, 
không cần quan tâm đến những lời khuyên nặng tình nặng nghĩa của chị. “Thời của 
tôi khác thời của chị rồi. Sống như các mẹ, các chị để mà ngớ ngẩn à?... Chẳng lẽ cái 
đời tôi chỉ có ăn với ngủ là xong thôi à?”. Cô nuông chiều cái con người bản năng 
của mình: cần ăn ngon, mặc đẹp, thỏa mãn nhu cầu tình dục. Cô đã chiếm được 
chồng chị, nhưng vẫn quan hệ với người đàn ông khác để thỏa cảm giác mới lạ. Cuối 
cùng cái giá mà cô phải trả là việc sinh ra một đứa con “không có bàn tay và thiếu 
một mắt”. Và người chị của cô, sau khi lặng lẽ lui về sống ở quê, cũng đã chết vì 
bệnh tật và đau buồn. Một cô gái có xuất thân từ nông thôn mà hành động và suy nghĩ 
như vậy có lẽ cũng không nhiều, nhưng nhân vật này là một ví dụ cụ thể cho thấy lối 
sống thực dụng kiểu thành thị đã len lỏi tới những vùng quê xa. 
Nếu như Hảo cùa Thu Huệ là một người chị đã nhường chồng cho em, nhận 
phần thiệt thòi về mình nhưng hành động hi sinh của chị ít nhiều có tính chất bắt 
buộc, thì chị Hạnh trong truyện ngắn cùng tên của Minh Dậu đã tự nguyện hi sinh sự 
nghiệp, tuổi trẻ, tình yêu của mình cho em. Năm mười tám tuổi, Hạnh đã phải một 
mình nuôi hai đứa em nhỏ. Cô rời bỏ giảng đường Đại học, chở xe than đi bán khắp 
ngang cùng ngõ hẻm. Nay đã hai mươi chín tuổi, cô vẫn chưa lấy chồng, vẫn tất bật 
với những lo lắng chạy vạy để xin cho em môt việc làm. Hạnh và em gái khác hẳn 
nhau. Hạnh xinh xắn và trầm lặng, còn em gái thì sôi nổi, tươi rói và hừng hực sức 
sống. Em gái của Hạnh đã tốt nghiệp trường Sư phạm nhưng chưa có chỗ dạy, mới 
hai mươi mốt tuổi nhưng có vẻ lọc lõi, từng trải. Cô từng cãi lại chị: “Con gái con 
đứa thế kỉ hai mốt nó thế chị Hạnh ạ”. Cô sẵn sàng làm tất cả để thay đổi số phận, kể 
cả việc chiếm đoạt người yêu của chị, anh chàng mà cũng nhờ chị cô mới có ngày 
hôm nay. Ở Hạnh có đức hi sinh, lòng tin vào những người thân yêu của mình nhưng 
cuối cùng cô nhận thấy mình “chẳng khác nào con dã tràng”. Truyện ngắn để lại 
trong lòng độc giả một dư vị xót xa khi trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ này, đôi 
lúc, cái xấu xa, thấp hèn lại chiếm ưu thế so với cái cao cả, đẹp đẽ. Có một câu hỏi 
dường như trở đi trở lại trong những tác phẩm này: Để tồn tại trong cõi nhân gian 
chật chội, con người buộc phải tàn nhẫn thế sao? 
May mắn là không phải mối quan hệ chị em nào cũng nhuốm màu bon chen 
thực dụng như ở hai truyện ngắn nói trên. Nhà có ba chị em của Võ Thị Xuân Hà kể 
về ba chị em gái rất yêu thương nhau, dù mỗi người ở trong một cảnh ngộ chẳng lấy 
gì làm sung sướng. Cô chị làm giáo viên đã quá lứa nhỡ thì, sống lặng lẽ và an phận. 
Cô em thứ hai là nhà báo, có chồng con nhưng không tìm thấy hạnh phúc trong đời 
sống vợ chồng. Cô em út đã có hai đời chồng mà vẫn không toại nguyện, vẫn đang 
trên con đường tìm kiếm người đàn ông giàu có để được ấm thân. Chẳng ai trong số 
họ hạnh phúc, nhưng họ luôn nghĩ đến nhau, chia sẻ những khó khăn về vật chất và 
những bí mật tâm hồn. Tình cảm chị em gắn bó là thế nhưng vẫn không đủ sức mạnh 
kéo họ lại gần với nhau. Cuối cùng, cô chị cả ở lại nhà, hi vọng vào một hạnh phúc 
muộn mằn; cô chị thứ hai chọn cái chết để giải thoát khỏi mối tình ngang trái với một 
chàng trai trẻ; còn cô em út lấy chồng Tây và tự biến mình thành một con búp bê 
trong lồng kính nơi phương trời xa lạ. Mỗi người đi trên con đường số phận mình, họ 
vĩnh viễn xa nhau. 
Với dung lượng ngắn gọn của thể loại truyện ngắn, những tác phẩm trên đã cho 
chúng ta những nhận thức về người phụ nữ hiện đại trong từng mối quan hệ: với 
chồng, với con, với đấng sinh thành và với anh chị em trong gia đình. Bởi vì chỉ chú 
trọng vào một mối quan hệ, nên nhân vật được miêu tả có độ sâu của tính cách, tâm 
trạng và cũng vì chỉ chọn một khía cạnh của hiện thực để khám phá nên những ý 
tưởng mà các nhà văn gửi gắm có sức thuyết phục cao. Là một “lát cắt” của hiện thực 
cuộc sống, mỗi truyện ngắn đưa chúng ta đến với người phụ nữ trong một thời điểm 
nào đó của cuộc đời họ. Nhiều truyện với nhiều cảnh đời tạo nên một bức tranh toàn 
cảnh về người phụ nữ của xã hội hiện đại. 
Với lợi thế về dung lượng, tiểu thuyết có thể kể với chúng ta câu chuyện về 
một đời người. Đời người phụ nữ phải đương đầu với biết bao biến cố xã hội, phải 
ứng xử với biết bao mối quan hệ phức tạp trong gia tộc, trong gia đình. Cuốn tiểu 
thuyết Gia đình bé mọn cùa Dạ Ngân kể một câu chuyện như vậy. 
Như tên gọi cuốn tiểu thuyết, Gia đình bé mọn trước hết là tác phẩm kể 
chuyện gia đình. Có lẽ bất kì ai có quan hệ mật thiết với tác giả đều nhận thấy một 
cách lồ lộ bóng dáng của chị qua nhân vật chính Mỹ Tiệp. Theo Hoài Nam trong bài 
báo Gia đình bé mọn” – “bản dập” cuộc đời Dạ Ngân? thì “đây là câu chuyện về 
những gia đình của nhân vật nữ nhà văn tên Tiệp”. 
“Gia đình 1: Đây là gia đình mà Tiệp đã sinh ra và lớn lên từ đó, gia đình của 
những người đàn bà góa chồng hoặc không chồng, cái gia đình luôn phải gồng mình 
lên để gánh chịu nỗi bất hạnh và cả sự kiêu hãnh của một mái nhà thiếu hơi ấm 
người đàn ông. 
Gia đình 2: “Gia đình hạt nhân”, gia đình mà Tiệp và người chồng tên Tuyên 
là những vật liệu xây dựng tỏ ra đã chẳng có chút kết dính nào ở những phẩm chất 
nhân tính cơ bản, và vì thế, tan vỡ là kết cục tất yếu của nó. 
Gia đình 3: “Tập hai” trong “lịch sử đời sống vợ chồng” của Tiệp. Cùng với 
Tiệp làm nên gia đình này là “gã” nhà văn lãng tử có tên Đính, người đã cùng Tiệp 
đi qua cái “đích lịch trình khổ nạn” là 11 năm yêu đương trong cảnh người Bắc kẻ 
Nam, trong cái nghèo đói đáng rùng mình của một thời bao cấp, trong cả những điều 
tiếng tàn nhẫn của dư luận xã hội. Con đường đời của Tiệp là đi từ gia đình 1 đến 
gia đình 3”. 
Tiệp đã đi những bước vất vả khó nhọc trên đường đời không hề bằng phẳng 
của mình. Ở gia đình 1, Tiệp có một người mẹ hết mực thương con, một người cô uy 
quyền suốt đời nghĩ tới hạnh phúc của những đứa cháu, và những người chị mỗi 
người một tính nhưng đều thương em theo cách của mình. Theo nghiệp văn chương, 
Tiệp đã là một đứa con lạc loài của dòng họ. Bỏ chồng, Tiệp chịu tiếng làm ô danh 
gia đình. Từ gia đình ấy, Tiệp bước ra cuộc sống, bị gia đình từ bỏ, rồi cuối cùng lại 
được trở về. Gia đình và dòng sông Hậu luôn mở rộng vòng tay bao la ôm ấp và chở 
che cho những đứa con của mình. Qua nhân vật Tiệp, ta có thể nhận thấy người phụ 
nữ và gia tộc của mình có mối quan hệ gắn bó bền chặt vô cùng. Dù có lúc này, lúc 
kia, mối quan hệ ấy phải chịu đựng thử thách, nhưng cuối cùng rồi những người thân 
cũng sẽ đón người phụ nữ trở về và đứa con lưu lạc ấy lại thấy mình bé nhỏ trong 
tình thương vô bờ bến của những người ruột thịt. 
Ở gia đình 2, Tiệp tỏ ra cứng cỏi với người chồng bao nhiêu thì lại yếu đuối 
trước những đứa con bấy nhiêu. Chị luôn phải dằn vặt bản thân vì cân nhắc giữa việc 
sống cho con và sống cho mình. “…nàng muốn được gào khóc, được đào bới, nàng 
muốn vạch đất xé trời để được nhìn thấy các con… Để được sống với người mình yêu 
cũng có nghĩa là phải thường xuyên gào khóc với lương tâm làm mẹ như vầy sao, cái 
giá này nàng đã ước lượng được hết chưa và phải trả đến bao giờ?”. Chính vì vậy, 
khi đã có gia đình 3, gia đình mà Tiệp phải vượt qua bao gian nan thử thách, bao 
“miệng lằn lưỡi mối” của dư luận trong suốt mười một năm trời mới có được thì chị 
cũng không cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc. 
Cuối cùng, chúng ta nhìn thấy hình bóng của một người phụ nữ nữa trong tác 
phẩm, đó là cô con gái Tiệp. Cô là đứa con của một gia đình mà cha mẹ chia tay nhau 
để thành lập nên những gia đình mới. Cô được tự do sống trong căn hộ chung cư mẹ 
để lại, có điều kiện theo lối “sống thử” của thanh niên đương thời với một chàng bạn 
học đẹp trai. Có người mẹ rất thương con nhưng lại ở quá xa, có người cha giàu có và 
quyền thế, hoa mắt trước thế giới bổng lộc của cha và tiếng gọi quyến rũ của tình yêu 
tuổi trẻ, cô đã phải từ bỏ giảng đường Đại học để lập gia đình. Ở phần kết truyện, 
nhân vật chính của chúng ta nhận ra rằng: “Tình duyên lận đận, học hành dở ương, 
con cái nhỏ dại, cái vòng tròn của nàng chưa khép lại mà vòng tròn của con gái nàng 
đã chồng lên…”. Dường như đây không còn là những suy nghĩ của nhân vật mà 
chính là những chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc đời những người phụ nữ, nhưng 
người mẹ trên cõi đời này: Hành trình một đời người phụ nữ, hành trình của tình mẫu 
tử quá dài, “nó trải ra, thác ghềnh, sông ngòi, biển cả và tận cùng chắc chắn sẽ là 
một nắm đất, nhưng cho dù có là một nắm đất mệt nhoài đi nữa thì hành trình ấy 
chắc gì đã kết thúc”. 
Đời người phụ nữ có nhiều gánh nặng và niềm vui, vinh danh và cay đắng. Với 
Gia đình bé mọn, nhà văn Dạ Ngân đã xây dựng một mẫu hình phụ nữ chủ động lèo 
lái con thuyền cuộc đời mình, một kiểu phụ nữ kiên nhẫn đến cùng để sống thật và 
sống đẹp với chính nhu cầu tinh thần của mình. Và ở phương diện này, phải chăng 
Gia đình bé mọn chính là thiên tiểu thuyết tiếp tục cái mạch mà tiểu thuyết Tự Lực 
văn đoàn rất hứng thú: khẳng định cá nhân, ca ngợi những con người dám đương đầu 
với tất cả để bảo vệ hạnh phúc, bảo vệ phẩm giá của mình? 
2.3. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với bản thân 
Không phải cho đến ngày nay, các nhà văn mới chú ý đến nhu cầu sống cho 
mình của người phụ nữ. Nhưng phải đợi đến ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều 
nhà văn nữ thì những khao khát về hạnh phúc của người phụ nữ mới được bày tỏ ở 
tầng sâu bản thể. Bằng sự trải nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết cặn kẽ về 
những nhu cầu, đòi hỏi của người phụ nữ, các nhà văn đã mở ra trước mắt chúng ta 
một thế giới tâm hồn phong phú, một “cõi” riêng phức tạp đến lạ kì. Dưới cái nhìn 
sâu sắc, tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn con người, 
người phụ nữ của xã hội hiện đại hiện ra trên trang viết của các nhà văn nữ với nhiều 
hoàn cảnh, nhiều số phận. Mỗi người mỗi vẻ, mỗi con đường, mỗi thế giới tâm linh 
riêng… 
Y Ban với Sau chớp là bão dông, Người đàn bà và những giấc mơ, Người 
đàn bà đứng trước gương, Một phần ba cuộc đời, Đàn bà xấu thì không có quà…; 
Võ Thị Hảo với Góa phụ đen, Bàn tay lạnh, Máu của lá, Làn môi đồng trinh…; 
Phạm Thị Hoài với Người đàn bà với hai con chó nhỏ, Hai mươi năm sau, Thiên 
sứ…; Nguyễn Thị Thu Huệ với Mại, Giai nhân…; Bích Ngân với Bồng bềnh thiên 
sứ ; Phạm Thị Ngọc Liên với Biển hôm nay nhiều nắng; Nguyễn Thị Ngọc Tú với 
Dưới ánh đèn nhiều màu; Nguyễn Thị Anh Thư với Không nhan sắc ; Lê Minh 
Khuê với Cơn mưa cuối mùa là các tác giả có những tác phẩm viết về người phụ nữ 
hiện đại với những mối quan tâm hướng về bản thân mình. 
Người phụ nữ Việt Nam xưa bị bó buộc bởi lễ giáo phong kiến hà khắc. Họ 
không tự quyết định được số phận của mình mà phải phụ thuộc vào những người đàn 
ông trong gia đình. Chúng ta hẳn ai cũng biết câu chuyện về cuộc đời một người con 
gái đẹp người đẹp nết có số phận bất hạnh: nàng Vũ Thị Thiết trong truyện cổ tích Vợ 
chàng Trương mà sau này Nguyễn Dữ sáng tạo lại thành truyện truyền kì Chuyện 
người con gái Nam Xương. Nàng Vũ Nương ở nhà chờ chồng nuôi mẹ già và con 
nhỏ, một lòng thủy chung, hiếu thảo, mà cuối cùng chỉ vì cơn ghen mù quáng của 
người chồng ít học, vũ phu đã làm cho nàng không còn con đường sống. Người phụ 
nữ xưa, khi bị chồng đánh đập, đuổi đi thì cầm như chỉ cách vào chùa đi tu hoặc chọn 
cái chết để giải thoát. Ngày nay, người phụ nữ đã được quyền định đoạt cuộc đời 
mình. Đã xa rồi cái cảnh “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. 
Trong truyện ngắn của các nhà văn nữ nổi bật hình tượng người phụ nữ tự chủ 
trong cuộc sống. Chính họ chứ không phải ai khác chọn cho mình một lối sống, một 
con đường tạo nên số phận cho mình. Có thể họ chọn cho mình một cuộc sống độc 
thân, suốt đời thiếu vắng đàn ông như Mại trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn 
Thị Thu Huệ, Trang trong Bàn tay lạnh, Thuận trong Goá phụ đen của Võ Thị Hảo. 
Có người quyết định lập gia đình khi đã ý thức rất rõ những phiền phức có thể sẽ gặp 
phải như Cẩm trong Tai nạn của Lý Lan. Có người lại quyết tâm thoát ra khỏi cuộc 
hôn nhân khi thấy không còn tình yêu với người chồng mà trước đây chính họ đã lựa 
chọn như Phượng trong truyện ngắn cùng tên của Lý Lan, hay như Tiệp trong tiểu 
thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân mà chúng tôi đã nhắc đến ở phần trên. Lại có 
những người quyết tâm làm lại cuộc đời sau khi nhận thấy những sai lầm của mình 
trong quá khứ như Thi trong Bồng bềnh thiên sứ của Bích Ngân, Tường trong Biển 
hôm nay nhiều nắng của Phạm Thị Ngọc Liên… Mỗi người mỗi cảnh nhưng họ đều 
giống nhau ở khát vọng hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân. Đối với những phụ nữ 
này, cả đời họ là cuộc rượt đuổi để kiếm tìm hạnh phúc, nhưng với họ đó là một khái 
niệm quá xa xôi, quá mơ hồ luôn vuột khỏi tầm tay với. 
Có những trang viết rất xúc động về ước mơ làm mẹ của người phụ nữ. Đó là 
những xao động, những run rẩy trong tâm hồn của một phụ nữ khi biết mình sắp được 
làm mẹ: “Dấu hiệu có mang thì Thi biết rất rõ… Thi không e dè cho Khả nhìn thấy, 
cảm thấy những dấu hiệu cấn thai. Trước tiên là hai bầu vú. Chúng đã bắt đầu căng 
lên như sẵn sàng tích sữa. Mỗi khi đôi tay Khả chạm vào bầu vú mân mê là mỗi lần 
Thi có cái cảm giác đau nh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LVVHVHVN021.pdf LVVHVHVN021.pdf