Tỉnh Phú Thọ được người dân cả nước đều biết đến như là một mảnh đất “địa linh
nhân kiệt”. Nơi hợp lưu của các con sông lớn như: sông Hồng, sông Đà, sông Lô. Nơi
truyền rằng có kinh đô Văn Lang và hiện nay cũn cú đền thờ các Vua Hùng trên núi
Nghĩa Lĩnh Những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gũ Mun, Đông Sơn, đó gắn truyền thuyết vào với hiện thực đời thường, minh
chứng cho sự xuất hiện của cư dân Việt Mường (người Việt cổ) trên đất Phú Thọ từ hơn
mười ngàn năm trước [25, tr.30 - 35].
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó
nơi gọi là cồng vặn) dùng để đánh trùng âm, loại trung bỡnh được gọi là cồng “đúm”,
nhỏ nhất trong bộ cồng và có âm thanh cao nhất, thánh thót nhất là cồng boũng beng.
Hội sộc bựa được tổ chức vào nhiều dịp trong năm, nhưng phổ biến là trong dịp tết
nguyên đán. Đầu năm phường bùa (bao gồm cả nam và nữ) từ 15 đến 20 người, đi thành
hàng một, dẫn đầu là người mang cồng boũng beng, rồi đến cồng đúm, cồng khệ, cồng
đàm. Đầu tiên phường bùa đến những nhà có hẹn trước để hát sắc bùa, theo tục lệ thỡ
chủ nhà sẽ tập trung anh, em để đón nhưng cổng nhà vẫn đóng, phường bùa sẽ phải
đánh cồng và hát bài hát mở cổng:
“Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào cũn đèn cũn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào…”.
Chủ nhà mở cổng đón, phường bùa đi vào sân, vừa đi vừa đánh cồng và hát bài hát
chúc tụng, ngợi ca:
“…Chúc tết nhà ông
Vườn trước có cau, vườn sau có mít
Vựa lỳa nếp cũn đến tháng năm
Gạo tẻ tháng mười chưa hết…” [73, tr. 146-147].
Sau cuộc hát, chủ nhà mang thóc gạo tặng phường bùa, nắm thóc trên tay chủ nhà
được vói nhẹ vào chiếc cồng đàm, người cầm cồng sẽ ngửa cồng đỡ lấy; thóc, gạo rơi
vào lũng chiếc cồng giống như gieo mạ, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, tốt tươi của
mùa màng trong năm. Nhận thóc gạo từ chủ nhà, phường bùa hát bài tạ ơn rồi tiếp tục đi
sang nhà khác [52, tr.31].
Múa trống đu: Đây là một trong những hỡnh thức mỳa trống độc đáo của tất cả
các làng người Mường ở Phú Thọ, nhưng nay chỉ cũn được tổ chức ở xó Tất Thắng,
huyện Thanh Sơn. Khi múa trống, người ta đặt một chiếc trống cơm lên trên mặt một
chiếc trống cái, người đánh trống là một ông già và 6 đến 8 cặp trai, gái tay cầm kèm
kẹp (hai thanh tre dài 40cm, rộng 4cm) xếp thành vũng xung quanh. ễng già tay cầm
trống cơm, tay kia gừ vào trống cỏi theo nhịp, mỗi lần di chuyển ụng thường gừ một tiếng
vào mặt trống cỏi và dứ trống cơm về phớa cỏc cặp trai gỏi cho họ gừ cựng. Điệu múa vui
vẻ, rộn ràng, giống như người cha và đàn con đang vui đùa với nhau, mừng mùa màng bội
thu và gia đỡnh hạnh phỳc. Cú người cho rằng: có thể xuất xứ của điệu múa là “múa trống
đùa” và vỡ một lý do nào đó được gọi chệch thành múa trống đu [43, tr.32].
Hội đu quay (tu xe): đây là trũ chơi ngày xuân, cho đến nay vẫn cũn khỏ phổ biến
ở cỏc vựng Mường trong tỉnh. Hỡnh thức chiếc đu quay gần giống với chiếc cọn nước,
bốn cột gỗ lớn được chôn chắc chắn xuống đất, trên đỉnh cột bắc một trục xoay với các
nan bằng gỗ, đầu mỗi đôi nan treo một ghế. Thường thỡ mỗi cõy đu có 12 ghế ngồi (ghế
đơn) dành cho 6 cặp nam, nữ. Chiều 29 tết, ông mo của làng sẽ làm lễ “cúng đu”, cỗ
cúng sẽ do một gia đỡnh trong làng đảm nhiệm (nhiệm vụ này được các gia đỡnh luõn
phiờn qua cỏc năm). Khi chơi đu quay, người đạp đà sẽ trèo lên đỉnh cột, dùng chân đạp
vào các nan cho đu quay trũn, cỏc cặp chơi ngồi trên các ghế quay mặt vào nhau và hát
những câu hát xuân, ví giao duyên, kết bạn. Hội đu kéo dài suốt nhiều ngày trong dịp
tết, không chỉ thu hút các cặp trai, gái Mường đến tỡm nhau trong hội đu, mà cũn là dịp
vui gặp gỡ của cỏc ụng, bà (ụụng, mế) trong ngày xuõn. Đu quay là một trũ chơi đũi hỏi
đôi bàn tay khéo léo và cả sức khỏe của các chàng trai mường từ khi dựng đu đến hết
hội. Người Mường quan niệm, nếu khi cúng đu mà đổ vỡ bát đĩa, không cắt được tiết
gà, cỗ cúng xong không mời mọi người ăn mà đem về nhà… thỡ chơi đu sẽ có người
ngó. Do vậy, cho đến nay đĩa để bày cỗ cúng người ta vẫn dùng đĩa cắt từ lá chuối tươi,
cúng xong sẽ mời tất cả mọi người có mặt lúc đó ăn cỗ tại gốc đu. Hội đu bắt đầu vào
sáng mùng một tết, nhưng thường thỡ hỏt vớ đu chỉ nhộn nhịp về đêm; hội đu quay kéo
dài đến hết tháng giêng, sau đó người ta tháo rời cây đu, đem gỗ ngâm xuống ao làng,
đợi mùa xuân năm sau.
Hát ghẹo: Đây là một hỡnh thức ca hỏt điển hỡnh thể hiện tỡnh kết nghĩa “nước
anh, nước em” giữa cư dân mường Thục Luyện, Hùng Nhĩ (huyện Thanh Sơn) với cư
dân Kinh ở xó Nam Cường (huyện Tam Thanh). Tục truyền, một năm đỡnh làng Nam
Cường bị cháy, nhờ có sự giúp đỡ của hai xó Thục Luyện, Hựng Nhĩ lấy gỗ, Nam
Cường mới dựng lại được đền, từ đó họ kết nghĩa anh em. Do vậy, cứ đến ngày lễ thần
Tản Viên 13/3 âm lịch và ngày hội đỡnh Nam Cường 9/9 âm lịch họ lại gặp nhau. Hỏt
ghẹo là hỡnh thức hỏt chay, khụng mỳa, khụng cú nhạc đệm, âm điệu của hát ghẹo vừa
mang âm hưởng hát Ví của người Kinh, hát Rang của người Mường. Không khí cuộc
hát vui vẻ, tự nhiên, không chịu ảnh hưởng của các loại nhạc lễ. Trong cuộc hát, mỗi
lượt hai nam hát đối đáp với hai nữ, vừa hát vừa nhỡn nhau, đối hợp câu, hợp giọng,
phản ánh được tỡnh kết nghĩa anh em và cảnh quan của miền trung du cũng như cuộc
sống sinh hoạt của nhân dân trong vùng [73, tr.90].
Ngoài cỏc hỡnh thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian nêu trên, người Mường
ở Phú Thọ cũn cú nhiều hỡnh thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác như: ném cũn,
mỳa mỡi, mỳa đâm ống…
Trong tục cưới: Cũng giống như một số các dân tộc khác, việc cưới xin là một
trong những sự kiện quan trọng của một đời người, kiếp người, đây không chỉ là dịp vui
cho riêng đôi trai gái, mà là ngày hội cho cả hai họ và cả mường. Trước khi tiến tới hôn
nhân, đôi trai gái có quyền được gặp gỡ hẹn hũ trong cỏc lễ hội, trong cỏc phiờn chợ,
trong cỏc buổi cựng nhau đi làm đồng; họ có thể gặp gỡ, có thể tặng nhau những kỷ vật
làm tin như chằm bạc (vũng bạc), chiếc tỳi vải tự dệt…nhưng quan trọng hơn cả vẫn là
những quyết định của cha mẹ. Người Mường nặng quan niệm “môn đăng hộ đối”, quan
niệm hôn nhân ngoại tộc (chín đời vẫn góp giỗ nên không được lấy nhau); từ đó việc
kén vợ, chọn chồng cho con rất khắt khe, nhiều khi những quy định ấy lại trở thành tai
họa, trở thành nguyên nhân cho sự đổ vỡ những quan hệ tỡnh cảm của đôi trai gái. Hôn
nhân của người Mường xưa có rất nhiều thủ tục, có nơi từ lúc nhà trai đem miếng trầu
đầu tiên đến xin nhà gái cho đôi trẻ qua lại tỡm hiểu đến lúc tổ chức đám cưới (thường
là 3 năm) phải có đủ 12 “cái lễ”, hỡnh thức rất nhiờu khờ và phức tạp, gõy tốn kộm tiền
của khụng ớt; trong thời gian 3 năm đó chàng trai phải mang đến nhà gái (đôi gà, yến gạo
nếp, chục lít rượu) và các loại bánh phù hợp với các ngày lễ; đặc biệt là dịp tết nguyên đán,
rằm tháng giêng, tết nguyên tiêu (3/3), tết 5/5, lễ xá tội vong nhân (rằm tháng 7), tết cơm
mới (10/10)…là không thể thiếu. Hiện nay, ở một số vùng mường hẻo lánh ở Phú Thọ
vẫn cũn những nghi thức này, tuy việc sắm lễ cú nhẹ hơn so với trước. Trong đám cưới
của người Mường, thách cưới là do nhà gái đưa ra, họ quan niệm nuôi con khôn lớn để
nhà trai lấy về nên cha mẹ cô dâu cần được nhà trai trả công xứng đáng; lễ vật thách
cưới chủ yếu là đồ ăn, thức uống để tiếp đói họ hàng (xưa cũn cú thờm bạc trắng). Do
vậy, cú nhiều đám cưới bị biến thành các cuộc mua bán nàng dâu, nhà trai phải chấp
nhận lời thách mà không được phép nài bớt thứ gỡ. Vỡ lý do nào đó cuộc hôn nhân
không được tiếp tục; mà nhà gái chủ động thỡ phải hoàn trả lại mọi lễ vật và những chi
phớ nhà trai đó bỏ ra trong suốt thời gian hai gia đỡnh qua lại; nếu là nhà trai chủ động
thỡ phải cú khoản bồi thường cho cô dâu (bằng một nửa tài sản). Trong thời gian từ lúc
dạm hỏi đến đám cưới của người Mường có một người không thể thiếu, đó là “ông mờ”
(ông mối), người đó thường là em trai, hoặc em họ của bố chú rể; người Mường quan
niệm: vía của “ông mờ” sẽ có ảnh hưởng lớn đến đời sống của đôi trẻ, nên ngoài khả
năng giao tiếp tốt, sự hiểu biết các phong tục, lễ nghi; cũn phải là người có đạo đức tốt,
kinh tế gia đỡnh khỏ giả, vợ chồng hũa thuận, cú đủ con trai, con gái…Người mường có
câu: “Cơm ngon vỡ miếng, tiếng tốt vỡ mờ”, vỡ thế “ụng mờ” thường được đôi trẻ đưa
lễ nhiều năm (3 năm hoặc đến khi có con), khi “ông mờ” chết, họ phải có đầu lợn đem
đến làm ma. Trong đám cưới, các nghi lễ mà “ông mờ” và chú rể phải thực hiện khi đến
nhà gái; hoặc cô dâu khi về nhà chồng là do từng họ quy định, nhưng nhất thiết khi đón
dâu (hoặc khi dâu về đến) thỡ mẹ chồng phải ra đón, nếu không có nghi thức này thỡ
quan hệ giữa mẹ chồng - nàng dõu sau này sẽ rất xấu. Vị trớ của người phụ nữ trong các
gia đỡnh Mường thấp kộm cú lẽ cũng cú lý do từ tục thỏch cưới nặng nề này, nhưng
cũng vỡ vậy mà cỏc cuộc ly hụn rất ớt xảy ra trong xó hội Mường cổ truyền.
- Văn hóa tâm linh:
Đối với người Mường, văn hóa tâm linh được thể hiện trong mọi khía cạnh của
cuộc sống, đặc biệt là trong các nghi lễ tang ma và thờ cúng tổ tiên. + Trong tang
ma: Tang lễ của người Mường là một trong những nghi lễ tôn giáo đậm đặc với nhiều
tập tục cổ truyền, yếu tố tâm linh thể hiện rất rừ nột qua cỏc nghi lễ, những quan niệm
về vũ trụ, nhõn sinh, về cừi sống, cừi chết... Khi tỡm hiểu về nghi lễ tang ma của người
Mường ở Hũa Bỡnh, giỏo sư Nguyễn Đức Từ Chi đó núi: nú “là hỡnh thỏi khỏ tập trung
của mờ tớn dị đoan cổ truyền” [12, tr.10]. Các nghi lễ trong tang ma của người Mường
ở Phú Thọ cũng giống như các Mường ở nơi khác. Từ lúc trong gia đỡnh cú người qua
đời, cho đến lúc đưa người về “Mường ma” yên ổn, những người trong gia đỡnh và dõn
làng tổ chức rất nhiều cỏc nghi lễ phức tạp. Đặc biệt, là 12 đêm mo. Trong những đêm
mo ấy, thầy cúng sẽ lần lượt đưa linh hồn người chết lên trời, về âm phủ để hỏi về việc
sống, việc chết của con người, sau đó trở về Mường người để ngắm cảnh cừi trần lần
cuối [44, tr. 79-87]. Người Mường quan niệm, chết không phải là hết, là kết thúc, mà là
sự thay đổi môi trường sống của con người từ “mường người” sang “mường ma”. Khi
cũn sống ở “mường người”, đạo lý là hành động cư xử tốt đẹp, là sự chăm sóc tận tỡnh
với nhau; đến khi chết, đạo lý ấy biến thành trách nhiệm và bổn phận của người sống
đối với người chết “nghĩa tử là nghĩa tận”, là sự đưa tiễn người đến “mường ma” một
cách long trọng và đủ đầy. Không có chữ viết, nên “tang ca” là cách mà người Mường
(qua người hành lễ - Bố mo) “ôn lại lần cuối” cho người chết, cũng là một lần nói cho
người sống về cách đối xử với nhau, về quan niệm sinh thành, về linh hồn, về cừi sống,
cừi chết, về mụi trường tự nhiên…[12, tr.183-323]. Có thể hỡnh thức tổ chức tang ma
và cỏc “bài cỳng” trong cỏc đêm mo của người Mường ở Phú Thọ không hoàn toàn
giống như những sưu tầm của các nhà nghiên cứu đó cụng bố, cũng khụng chi tiết như
trong trường ca “Đẻ đất, đẻ nước” đó ghi. Nhưng những tư tưởng, tỡnh cảm của người
sống đối với người chết, những mong muốn, ước mơ của người đang sống được thể hiện
trong 12 đêm mo thỡ cú lẽ khụng khỏc so với cỏc nghiên cứu trước đây. Đối với người
Mường, sự mất mát về con người là nỗi mất mát chung, nên thường khi trong làng có
một người qua đời, các gia đỡnh trong làng khụng phõn biệt sang hốn đều mang đến
cho tang gia một xuất gạo, gà, rượu và muối để cùng lo tang lễ. Đến nay, các tiêu chí
mới trong quy định xây dựng làng, xó văn hóa đó giỳp nghi lễ tang ma của người
Mường tiến hành đơn giản, tiết kiệm hơn, nhưng những nét cơ bản trong tín ngưỡng vẫn
được duy trỡ ở một số làng Mường ở vùng sâu, vùng xa.
Nếu tách bỏ những yếu tố mờ tớn, những hủ tục trong tang lễ thỡ chỳng ta sẽ tỡm
thấy trong cỏc “đêm mo” những triết lý và quan niệm nhõn sinh, những yếu tố văn hóa
dân gian truyền thống của cư dân Mường trong lịch sử.
+ Các quy định khi làm nhà và thờ cúng tổ tiên: Ngôi nhà của người Mường trước
đây chủ yếu là nhà sàn, đó là nơi để ở, cũng là nơi diễn ra các nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo
trong mỗi gia đỡnh. Số gian nhà tựy thuộc vào số lượng người sống trong nhà, nhưng
người Mường theo chế độ phụ hệ, nên muốn “đa đinh thịnh vượng”, số gian nhà thường
tương ứng với số vía của người đàn ông. Do vậy, nhà của người Mường phổ biến là 7 gian,
tám hàng cột. Hai vị trí đặc biệt quan trọng trong ngôi nhà của người Mường là “đáng thờ”
(bàn thờ tổ tiên) và bếp; “đáng thờ” của người Mường được bày biện theo tục hèm của mỗi
dũng họ, nhưng thường thỡ thờ cỳng tổ tiờn trong phạm vi bốn đời là hỡnh thỏi tớn ngưỡng
chính trong mỗi gia đỡnh. Ngoài việc thờ cỳng tổ tiờn thỡ một số dũng họ mường ở Phú
Thọ cũn thờ cỏc “linh vật tổ” như một loài chim, một loài vật…Thờ linh vật nào sẽ kiêng
không bắt giết, hoặc ăn thịt loài vật đó.
2.2. thực trạng vấn đề nhân tố chủ quan trong giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc mường ở phú thọ
2.2.1. Thực trạng hoạt động của các ngành chức năng đối với việc giữ gỡn và
phỏt huy giỏ trị văn hóa dân tộc Mường ở Phú Thọ
Trong những năm qua Đảng bộ, Chính quyền, và các Đoàn thể nhân dân trong tỉnh
đó cú rất nhiều nỗ lực và cố gắng, đoàn kết, sáng tạo khắc phục khó khăn, phát huy
những thuận lợi, khai thác triệt để tiềm năng và lợi thế để phát triển mọi mặt kinh tế -
văn hóa - xó hội - an ninh - quốc phũng, xõy dựng và củng cố hệ thống chớnh trị, khẳng
định những bước đi vững chắc của tỉnh trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đặc biệt, ngành VH – TT - TT tỉnh Phú Thọ với tư cách là một ngành sự nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, với hai nhiệm vụ quan trọng là: Quản lý nhà nước, tổ
chức các hoạt động phong trào văn hóa, thông tin, thể thao ở cơ sở và các hoạt động sưu
tầm, nghiên cứu vốn văn hóa truyền thống trên địa bàn tỉnh. Cụ thể:
Thứ nhất, trong hoạt động quản lý nhà nước, tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính
trị và tổ chức các phong trào VH - TT - TT ở cơ sở.
Sở VH - TT - TT đó chủ động trong việc gắn công tác xây dựng văn bản với việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển sự nghiệp, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật đến các cơ sở văn hóa trong tỉnh như: Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết Trung
ương bốn (khóa VII) về Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt;
Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Trung ương Tám (khóa IX) về
Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa; Kết luận Hội nghị
Trung ương mười (khóa IX) về việc Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW năm (khóa VIII);
Luật di sản văn hóa, ngày 29/6/2001. Các nghị quyết của Chính phủ và chỉ thị của Bộ
Văn hóa về công tác Văn hóa – Thông tin vùng dân tộc thiểu số; Nghị quyết số
56/2003/ NQ-HĐND tỉnh về xây dựng các thiết chế thông tin, thể thao giai đoạn 2003-
2010…Cùng với đó là triển khai đồng bộ việc kiện toàn công tác cán bộ; Chương trỡnh
kế hoạch chi ngõn sỏch cho hoạt động sự nghiệp và công tác bảo tồn di sản trong từng
năm, từng thời kỳ; Công tác quản lý và tổ chức các hoạt động lễ hội; Công tác sưu tầm
và lưu giữ các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Tính đến 6 tháng đầu năm 2006, tỉnh Phú Thọ đó cơ bản hoàn thành các thiết chế
văn hóa, thông tin, thể thao từ tỉnh đến cơ sở, gồm một trung tâm văn hóa, thông tin, thể
thao cấp tỉnh, 12/12 nhà văn hóa cấp huyện, 273/273 hội trường kiêm nhà văn hóa cấp
xó (phường, thị trấn). Hệ thống các thư viện khoa học từ tỉnh đến cơ sở cũng được quan
tâm phát triển. Đề án “Nâng cao chất lượng hệ thống thư viện xó, phường, thị trấn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2002 – 2005” được chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả. Riêng
trong năm 2004 đó khai trương mới 87 thư viện và phũng đọc ở cơ sở. Hiện nay, toàn
tỉnh đó cú 128 phũng đọc và thư viện, trong đó có 1 thư viện khoa học tổng hợp tỉnh, 12
thư viện huyện, thị, thành và 115 phũng đọc sách ở các xó, phường, thị trấn, 13 phũng
đọc sách thiếu nhi tại các thư viện tỉnh, huyện, thành, thị. Sở Văn hóa - Thông tin đó
phối hợp với cỏc ngành Bưu điện và Tư pháp xây dựng và tổ chức đưa vào hoạt động 3
thiết chế Thư viện, Bưu điện văn hóa và Tủ sách pháp luật ở các xó (đặc biệt chú trọng
tới các xó vựng nỳi). Trung bỡnh mỗi năm luân chuyển 5.000 bản sách, hỗ trợ khoảng
18 đến 40 triệu đồng, tương ứng với khoảng 3000 đến 6000 bản sách cho các thư viện
huyện, thị, thành. Các hoạt động của các thiết chế văn hóa huyện, xó (đặc biệt là các
trung tâm hội nghị và văn hóa) đó gúp phần tớch cực vào việc phục vụ đời sống tinh
thần cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh như: Tổ chức các cuộc liên hoan nghệ thuật
quần chúng, các lớp năng khiếu nghệ thuật hàng năm cho thanh -thiếu niên các dân tộc,
hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa địa phương [68, tr.4,5].
Hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, tổ chức các phong trào văn
hóa, thông tin, thể thao, kỷ niệm các ngày lễ lớn được các sở ban ngành quan tâm và
triển khai tốt đến các cơ sở. Chỉ tính riêng hoạt động của đội Thông tin lưu động của
tỉnh và của hai huyện Thanh Sơn, Yên Lập trong năm 2004 đó tổ chức được 305 buổi
tuyên truyền lưu động phục vụ đồng bào các huyện vùng dân tộc thiểu số. Cùng năm, tổ
chức thành công “lễ hội cồng chiêng và diễn xướng dân gian” các dân tộc ít người toàn
tỉnh (lần thứ nhất) tại Thanh Sơn với hơn 30 tiết mục tham gia; 1 chương trỡnh tham gia
liờn hoan thụng tin lưu động toàn quốc tổ chức tại Điện Biên. Trong các đợt tổ chức Đại
hội Thể dục - Thể thao của tỉnh, bộ môn bắn nỏ của người Mường hai huyện Thanh Sơn
và Yên Lập đều đạt giải cao. Các chương trỡnh văn nghệ phục vụ nhiệm vụ chính trị
của tỉnh và địa phương cũng được tổ chức tốt, góp phần tạo không khí thi đua sôi nổi,
động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực học tập, lao động sản xuất, thúc đẩy kinh tế -
xó hội phỏt triển.
Trong đa dạng các loại hỡnh hoạt động của ngành VH - TT - TT, Đài phát thanh
truyền hỡnh và bỏo chớ tỉnh cũng cú những đóng góp to lớn; toàn tỉnh có 3 tờ báo được
Bộ Văn hóa – Thông tin cấp phép hoạt động là Báo Phú Thọ, Đài phát thanh truyền
hỡnh, Tạp chớ Văn nghệ Đất Tổ; năm 1994 Báo điện tử Phú Thọ ra đời, lượng thông tin
cập nhật hàng ngày. Tỉnh Phú Thọ đó phủ súng phỏt thanh trờn 90,8%, phủ súng truyền
hỡnh trờn 83% địa bàn dân cư. Hiện nay, Phú Thọ có một đài phát thanh truyền hỡnh
tỉnh; 12/12 huyện, thị, thành cú đài truyền thanh - truyền hỡnh; 273 trạm phát thanh cơ
sở xó, phường, thị trấn; 9 trạm tiếp hỡnh, đảm bảo phục vụ nhu cầu tối thiểu về thông
tin, văn hóa cho đồng bào các dân tộc.
Tác động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thời
gian qua đó làm chuyển biến sõu sắc tư tưởng, hành động của các cấp ủy đảng, chính
quyền và toàn thể nhân dân trong tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh đó cú 1.961 bản quy ước,
hương ước văn hóa, 1.996/ 2.864 làng, khu phố được công nhận danh hiệu “Làng văn
hóa”, 216.480/ 302.494 gia đỡnh đạt tiêu chuẩn “Gia đỡnh văn hóa”. Việc cưới, việc
tang theo nếp sống mới và vấn đề tổ chức lễ hội trong vùng Mường có nhiều chuyển
biến tích cực. Nhận thức của người dân nói chung, người dân vùng Mường nói riêng
được nâng lên, thực hiện xây dựng nếp sống mới khá tự giác và nghiêm túc, các hủ tục,
tập quán lạc hậu giảm xuống đáng kể.
Thứ hai, hoạt động sưu tầm, nghiên cứu vốn văn hóa dân gian nói chung, văn hóa
dân gian Mường nói riêng trên địa bàn tỉnh.
Trong lĩnh vực văn hóa, tỉnh Phú Thọ rất quan tâm đến nhiệm vụ bảo tồn, bảo tàng
và phục hồi các giá trị văn hóa dân gian, chỉ đạo sở VH - TT - TT phối hợp cùng các sở,
ban, ngành khác tổ chức thành công nhiều hội thảo khoa học có giá trị lịch sử và thực
tiễn. Biên soạn một số ấn phẩm văn nghệ dân gian khá phong phú như: Tổng tập Văn
nghệ dân gian Đất Tổ, Địa chí Văn nghệ dân gian Bạch Hạc, Văn hóa dân gian các dân
tộc thiểu số Huyện Yên Lập, Văn nghệ dân gian huyện Thanh Thủy …Riêng cơ quan
Bảo tàng tỉnh đó cú 2 đề tài được nghiệm thu, trong đó có một đề tài khoa học năm
2005, là: “Điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, hệ thống hóa và bảo tồn các di sản văn hóa phi
vật thể tỉnh Phú Thọ”, đề tài này tiếp tục được triển khai thực hiện đến năm 2020.
Trong 2 năm (2002, 2003), cơ quan Bảo tàng tỉnh kết hợp với trường Đại học
Khoa học xó hội và Nhõn văn quốc gia mở 2 cuộc sưu tầm văn hóa Mường tại hai
huyện Thanh Sơn và Yên Lập đạt kết quả tốt. Thu thập được trên 600 hiện vật thuộc các
loại dụng cụ sinh hoạt và dụng cụ sản xuất từ xưa đến nay, ghi hỡnh và thu băng một số
loại hỡnh nghệ thuật như hát mỡi, ví giang, ví đu… của đồng bào Mường. Năm 2004,
đơn vị Bảo tàng tỉnh đệ trỡnh kế hoạch bảo tồn nhà sàn của người Mường ở xóm Mít
thuộc thị trấn Tân Long, huyện Yên Lập và đó được HĐND và UBND tỉnh phê duyệt,
kế hoạch chi ngân sách cho tu bổ được thực hiện từ nay đến 2010.
Hội VHNTDG tỉnh Phú Thọ ra đời năm 1967, tập hợp được rất nhiều những “cây
đa, cây đề” trong làng nghệ thuật như: Nhạc sỹ Đào Đăng Hoàn, nhà văn Nguyễn Hữu
Nhàn, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương…Những cống hiến và
đóng góp của Hội VHNTDG vào kho tàng văn hóa của tỉnh và của đất nước được ghi
nhận bằng Huân chương lao động hạnh ba do Chủ tịch nước trao tặng. Những tác phẩm
nổi tiếng như: Tập sách ảnh “Người Mường trên đất tổ Hùng Vương” (2001); “Âm nhạc
người Mường Phú Thọ” (1998) của nhạc sỹ Đào Đăng Hoàn; “Hát ví giao duyên”
(1995), “Văn hóa cổ Việt Mường” (2001) của nhà nghiên cứu Văn hóa Dân gian
Nguyễn Khắc Xương, “Trống đồng vùng đất Tổ” của TS Nguyễn Anh Tuấn, “Gia đỡnh
và hụn nhõn của dõn tộc Mường ở Tỉnh Phú thọ” của TS Nguyễn Ngọc Thanh … Mặc
dù những nghiên cứu bước đầu về văn hóa Mường ở Phú Thọ của các tác giả đó nờu
gúp phần quan trọng trong quỏ trỡnh tỡm tũi, khai thỏc, bảo tồn, phỏt huy những vốn
cổ văn hóa Mường trên địa bàn tỉnh, thức tỉnh ý thức bảo tồn vốn quý văn hóa của
người dân, giới thiệu với các địa phương khác những nét độc đáo trong văn hóa
Mường ở Phú Thọ. Nhưng thực sự những nghiên cứu ấy cũng chưa bao quát được
hết diện mạo của các thể loại văn hóa của vùng Mường; cũn những bí mật về y học,
về quan niệm nhân sinh, về sức mạnh của con người…ẩn đằng sau lớp màn che
huyền bí, một thời được gán cho lớp áo “mê tín”, “hủ tục” nên chưa được chú ý khai
thỏc.
Các cấp, các ngành trong tỉnh (đặc biệt là ngành VH - TT - TT) đó quan tõm và có
rất nhiều cố gắng trong công tác sưu tầm, giữ gỡn, phỏt huy những di sản văn hóa của
tộc người Mường. Những thành tựu đó đạt được là đáng kể, nhưng khó khăn và hạn chế
cũng cũn nhiều. Sự lónh đạo của các cấp ủy Đảng và Chính quyền chưa thực sự có hệ
thống, hầu hết các kế hoạch hoạt động là do cơ quan chức năng đệ trỡnh, cỏc nghiờn
cứu khoa học phần lớn là do tỏc giả thấy tõm huyết và lo ngại trước tỡnh trạng mai một
quỏ nhanh của cỏc di sản văn hóa truyền thống mà chủ động nghiên cứu, giữ gỡn. Do
vậy, phần nào gõy ra tỡnh trạng mựa vụ trong cỏc phong trào. Kinh phớ dành cho hoạt
động nghiệp vụ văn hóa cũng rất ít. Chỉ tính riêng một ngành Bảo tàng, mỗi năm chỉ có
khoảng 250 triệu (Việt Nam đồng) cho hoạt động nghiệp vụ, chia ra cho khoảng 10 đầu
việc, thỡ số tiền dành cho sưu tầm hiện vật chỉ cũn 20 đến 30 triệu đồng, không đủ cho sưu
tầm các hiện vật quý. Hầu hết các hiện vật dân gian đều do nhân dân hiến tặng, nên thường
rất nghèo về chủng loại. Hơn nữa, quy định về quyền hạn và trách nhiệm của bảo tàng các
cấp trong luật di sản chưa rừ ràng, cộng với cơ chế quản lý hành chớnh như hiện nay khiến
cho công tác sưu tầm gặp nhiều khó khăn, khó cạnh tranh với các nhà sưu tầm cổ vật tư
nhân. Công tác cán bộ từ tỉnh đến cơ sở cũn nhiều bất cập, vừa thiếu, vừa yếu, một số chưa
qua đào tạo hoặc đào tạo không đúng chuyên ngành, chậm được trẻ hóa và năng khiếu hạn
chế. Hiện nay, cả 5/5 cỏn bộ Phũng Văn hóa Dân gian của tỉnh, 209/ 246 cán bộ văn hóa
cấp xó là người Kinh nên khó khăn trong giao tiếp với đồng bào người dõn tộc, khụng hiểu
rừ phong tục tập quỏn nờn trong cụng tỏc vận động phong trào, khôi phục văn hóa dân gian
phải dựa toàn bộ vào người dân địa phương; tiến độ chậm và độ chính xác không cao, các
lễ hội được khôi phục cũn mang nặng tớnh hỡnh thức, phong trào. Các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích, thu hút tài năng nghệ thuật cũn hạn chế. Cụng tỏc xó hội húa cỏc hoạt động
văn hóa thông tin cũn chậm và gặp nhiều khú khăn, sự ỷ lại trông chờ kinh phí nhà nước
của một số địa phương cũn khỏ phổ biến, chưa huy động được tối đa nguồn lực trong nhân
dân.
2.2.2. Thực trạng việc giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa Mường của bản
thân những người chủ di sản
Ngày nay, những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nếp sống mới,
xây dựng khu dân cư và làng xó văn húa mới, giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hóa dân
tộc theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) được triển khai và thực
hiện rộng khắp trong các xó và làng bản người Mường ở Phú Thọ. Một số lễ hội và hoạt
động văn hóa truyền thống được phục hồi, duy trỡ và phỏt huy, đem lại nét sinh hoạt
văn hóa phong phú, vui tươi, lành mạnh cho người dân. Các hoạt động văn hóa, y tế,
giáo dục… trong địa bàn người Mường sinh sống được các cấp ủy đảng và chính quyền
tạo điều kiện phát triển, đó cải thiện rất nhiều đời sống vật chất, thay đổi nếp nghĩ của
bà con người dân tộc, làm cho đời sống văn hóa, xó hội ở vựng Mường có nhiều biến
đổi theo chiều tiến bộ. Cụ thể:
- Về văn hóa vật chất:
Đời sống vật chất của người dân, trước hết được thể hiện trong các nhu cầu về ăn,
ở, mặc, các phương tiện sinh h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_6134.pdf