MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU .1
1. Lý do lựa chọn đề tài.8
2. Mục đích nghiên cứu.9
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .9
4. Giới hạn nghiên cứu.10
5. Giả thuyết nghiên cứu.10
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.11
7. Phương pháp nghiên cứu .11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI .15
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề .15
1.1.1 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở nước ngoài . 15
1.1.2 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở Việt Nam. 18
1.2 Cơ sở lý luận về phẩm chất nghề nghiệp .24
1.2.1 Phẩm chất và phẩm chất nghề nghiệp . 24
1.2.1.1 Khái niệm “phẩm chất”.24
1.2.1.2 Khái niệm “phẩm chất nghề nghiệp” .26
1.2.1.3 Mức độ và biểu hiện của sự phù hợp với yêu cầu của nghề.27
1.2.1.4 Quá trình hình thành các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên .28
1.2.2 Phẩm chất nghề sư phạm . 29
1.2.2.1 Khái niệm phẩm chất nghề sư phạm.29
1.2.2.2 Thành phần phẩm chất nghề sư phạm .29
1.2.3 Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm . 38
1.2.3.1 Những cơ sở để xác định phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
sư phạm .38
1.2.3.2 Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm.44
1.2.4 Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành phẩm chất nghề
nghiệp của sinh viên sư phạm. 46
151 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 1067 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường đại học Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn và
tập trung nhiều phẩm chất đạt ở mức độ trung bình. Kết quả này phù hợp với
nhận định chung của một số giảng viên khoa Sư phạm và những thầy, cô trong
Ban Giám hiệu ở các trường phổ thông, khi cho rằng “sinh viên sư phạm hiện
nay còn hạn chế ở các kỹ năng sư phạm và kiến thức chuyên ngành”. Quan sát
biểu hiện sinh viên khi tham gia các giờ học trên lớp và các giờ thực hành sư
phạm, giảng viên khoa Sư phạm cho rằng: “sinh viên năm cuối phản biện khá
tốt các vấn đề đang học, tuy nhiên khi hỏi về kiến thức cũ thì thường lúng túng,
trong đó có những môn chuyên ngành, thể hiện khá rõ các bạn chưa lĩnh hội
kiến thức một cách hệ thống”. Mặt khác, thầy Võ Hoài Nhân Trung – Trưởng
khoa Sư phạm trường Đại học Tiền Giang nhận xét qua những buổi tham dự
tổng kết kiến tập và thực tập sư phạm: “Các đơn vị trường học, nơi tiếp nhận
sinh viên, phản ánh rất nhiều về sinh viên chưa có kỹ năng soạn kế hoạch giảng
dạy, kỹ năng tổ chức lớp học còn hạn chế”.
• So sánh giữa ba nhóm phẩm chất nghề nghiệp, chúng tôi cũng nhận
thấy rằng độ lệch chuẩn ở nhóm phẩm chất đạo đức nghề khá cao. Điều này thể
hiện ý kiến khác nhau của sinh viên nhìn nhận về các giá trị đạo đức nghề giáo.
• Điều đáng lưu ý trong kết quả khảo sát, chúng tôi cho rằng sinh viên
sư phạm hiện nay có những biểu hiện đặc trưng phù hợp với thời đại như ý
thức học tập, nâng cao trình độ (ĐTB=2.86), tác phong gương mẫu
(ĐTB=2.86), hướng về học sinh (ĐTB=2.76), khả năng ứng xử các tình huống
sư phạm trong giáo dục (2.76), khả năng tiếp cận thông tin (2.46).
Ở những nội dung phân tích tiếp theo, chúng tôi tập trung vào mức độ
đạt được các biểu hiện cụ thể của từng nhóm phẩm chất nghề sư phạm.
2.3.2 Mức độ đạt được các phẩm chất đạo đức nghề
Phẩm chất đạo đức nghề giáo là những giá trị cốt lõi trong nhân cách
người sinh viên sư phạm, quyết định trực tiếp thái độ của người sinh viên đối
với nghề nghiệp trong tương lai. Đây cũng là những đặc điểm quan trọng giúp
sinh viên nhận diện sự phù hợp với những đặc trưng của nghề dạy học.
Biểu đồ 2.5 Mức độ đạt được phẩm chất đạo đức nghề sư phạm
2.64 2.63
2.86
2.64
2.43
2.86
2.76
2.64
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
ĐTB
Trung
thực
Công
bằng
Gương
mẫu
Lý
tưởng
nghề
nghiệp
Cầu tiến Ý thức
học tập
Yêu học Yêu
nghề
Với 8 phẩm chất cơ bản về đạo đức nghề nghiệp, trong đó có 3 phẩm
chất sinh viên đạt được mức độ cao, bao gồm: tác phong gương mẫu
(ĐTB=2.86), ý thức học tập nâng cao trình độ (ĐTB=2.86), phẩm chất yêu học
sinh (ĐTB=2.76). Các phẩm chất khác như tính trung thực, lòng yêu nghề,
phẩm chất công bằng, sống có lý tưởng và thái độ cầu tiến đều đạt trên mức
trung bình (ĐTB>2.34). Tuy nhiên, trong nhóm các phẩm chất đạo đức, phẩm
chất cầu tiến ở sinh viên sư phạm biểu hiện thấp nhất (biểu đồ 2.5). Theo nhận
xét chung của giảng viên khoa Sư phạm, “sinh viên sư phạm năm cuối có xu
hướng thể hiện tâm lý ngại thay đổi, khi bị phê bình về những hạn chế trong
học tập, giảng dạy, sinh viên rất dễ nản lòng và mất tự tin trong nghề nghiệp”.
Điều này cho thấy thái độ chấp nhận ý kiến phê bình của người khác để tự rút
kinh nghiệm và hoàn thiện bản thân của sinh viên chưa tích cực, còn mang tính
cục bộ cá nhân.
Để nhìn nhận một cách toàn diện, khách quan về các phẩm chất đạo đức
nghề sư phạm, chúng tôi xét riêng từng phẩm chất với những biểu hiện cụ thể
trong thực tế.
Biểu hiện của phẩm chất trung thực: biểu đồ 2.6
Biểu đô 2.6 Mức độ đạt được phẩm chất trung thực ở SVSP
2.77
2.84
2.61
2.4
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
ĐTB
Chấp nhận
ưu khuyết
điểm
Không vi
phạm nội
qui
Không nói
dối
Mạnh dạn
trong tranh
luận
Từ biểu đồ 2.6, chúng tôi rút ra một số nhận định như sau:
• Tất cả 4 biểu hiện về phẩm chất trung thực của sinh viên sư phạm
đều đạt mức điểm trên trung bình ( ĐTB>2.34). Trong đó có những biểu hiện
mang tính trung thực cao như biểu hiện không vi phạm nội qui phòng thi (ĐTB
= 2.84); không nói dối (ĐTB = 2.84).
• Tuy nhiên, biểu hiện mạnh dạn tranh luận với giảng viên hướng dẫn
về những nội dung chưa đồng tình còn hạn chế (ĐTB = 2.40). Điều này, chúng
tôi cũng đã thu nhận được ý kiến đánh giá tương tự từ các giảng viên khoa Sư
phạm trường Đại học Tiền Giang. Các thầy, cô cho rằng “sinh viên sư phạm
còn chưa mạnh dạn đưa ra những tranh luận mà thông qua đó có thể đi đến việc
mở rộng vấn đề hoặc giảng viên có thể hiểu được chính kiến của sinh viên”.
Thực tế quan sát các giờ học trên lớp, sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền
Giang rất ít khi đưa ra ý kiến phản biện về những vấn đề giáo viên chuyển giao,
họ thường chấp nhận những luận điểm của giảng viên và xem đó như là chuẩn
mực. Những vấn đề sinh viên nghĩ ngược lại với luận điểm giảng viên, họ cũng
thường chia sẻ trong nhóm bạn hoặc các thầy cô khác hơn là giảng viên trực
tiếp hướng dẫn. Trong những giờ thảo luận nhóm, rất nhiều sinh viên đặt câu
hỏi phản biện cho nhóm bạn, nhưng lại ít khi đưa những câu hỏi tương tự với
giảng viên. Đôi khi ai đó mạnh dạn đưa ra những tranh luận, tập thể lớp có thể
tỏ thái độ khó chịu và cho đó là biểu hiện vô lễ. Ở đây, chúng ta xét dưới góc
độ phẩm chất trung thực, thì những điều suy nghĩ thật trong lòng mình, lại
không dám đối mặt, đó là biểu hiện không mang tính tích cực.
Biểu hiện của phẩm chất công bằng: Kết quả hiển thị ở biểu đồ 2.7
Biểu đồ 2.7 Biểu hiện phẩm chất công bằng ở SVSP
2.37
2.65
2.8
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
ĐTB
Phân công công
việc như nhau
Tạo cơ hội ngang
bằng nhau
Quan tâm đến tất
cả học sinh
Phẩm chất công bằng ở sinh viên sư phạm đạt mức độ cao ở hai biểu
hiện quan tâm như nhau đến từng học sinh trong lớp (ĐTB=2.8) và tạo cơ hội
ngang bằng nhau cho tất cả học sinh tham gia phát biểu ý kiến (ĐTB=2.65).
Đối với biểu hiện phẩm chất công bằng thông qua việc phân chia công việc
ngang nhau giữa các thành viên, mức độ đạt được của sinh viên thấp hơn
(ĐTB=2.37), gần với mức trung bình
Biểu hiện của tác phong gương mẫu: Đây là một trong 8 phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp mà sinh viên đạt mức độ cao nhất.Tất cả bốn biểu
hiện về tác phong gương mẫu của sinh viên như tính nghiêm túc, tính tự giác,
uy tín, sự tôn trọng đều đạt trên 2.8, kết quả hiển thị ở biểu đồ 2.8.
Biểu đồ 2.8 Mức độ đạt được tác phong gương mẫu
2.86
2.82
2.88
2.86
2.79
2.8
2.81
2.82
2.83
2.84
2.85
2.86
2.87
2.88
ĐTB
Tính nghiêm
túc
Tình tự giác Uy tín Sự tôn trọng
giáo viên
Biểu hiện của phẩm chất sống có lý tưởng nghề nghiệp: Lý tưởng
nghề nghiệp là mục tiêu phấn đấu để đạt đến sự thành công. Nếu phẩm chất này
được hình thành ngay từ quá trình đào tạo ở nhà trường, đó sẽ là động lực thúc
đẩy sinh viên sư phạm tích cực, tự giác học tập, rèn luyện nghề nghiệp.
Biểu đồ 2.9 Mức độ đạt được phẩm chất sống có lý tưởng nghề nghiệp
2.18
2.87 2.53 2.91 2.71
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
ĐTB
Làm gương
choHS
Phấn đấu trở
thành giáo
viên giỏi
Sẵn sàng
dạy ở các
vùng sâu
vùng xa
Hoàn thiện
mình
Tham gia
chiến dịch
thanh niên
tình nguyện
Từ kết quả ở biểu đồ 2.9, chúng tôi nhận thấy lý tưởng phấn đấu trở
thành một giáo viên giỏi đạt mức độ cao ở sinh viên sư phạm (ĐTB>2.87). Bên
cạnh đó, sinh viên cũng thể hiện lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ sẵn sàng phục vụ
cho sự nghiệp giáo dục. Đây là hai biểu hiện quan trọng của lý tưởng nghề sư
phạm, định hướng mục tiêu rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên,
đồng thời cũng là động lực quan trọng hình thành lòng yêu nghề, gắn bó lâu dài
với sự nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, lý tưởng phấn đấu để trở thành tấm gương
cho học sinh, ở biểu hiện này sinh viên đạt mức trung bình (ĐTB=2.18). Vì đây
là quá trình đòi hỏi sự hoàn thiện ở tất cả các mặt thuộc về nhân cách người
sinh viên sư phạm.
Biểu hiện của thái độ cầu tiến: Phẩm chất này được thể hiện thông
qua các biểu hiện như tích cực lắng nghe ý kiến nhận xét của giảng viên, góp ý
của bạn bè; không hài lòng với khuyết điểm bản thân; muốn có nhiều cơ hội
thực tập giảng dạy nhằm hoàn thiện chính mình. Dựa vào biểu đồ 2.10 , sinh
viên sư phạm Đại học Tiền Giang biểu hiện thái độ tích cực lắng nghe ý kiến
người khác (ĐTB=2.31) và thái độ không hài lòng với khuyết điểm bản thân
(ĐTB=2.34) ở mức độ trung bình. Ngược lại, biểu hiện mong muốn thực tập,
rèn luyện mình trước bạn bè khá cao (ĐTB=2.65). Kết quả phản ánh thái độ
cầu tiến của sinh viên sư phạm chưa thật sự tích cực, còn hướng về sự thể hiện
bản thân nhiều hơn là đánh giá và tự đánh giá đúng khuyết điểm cá nhân.
Biểu đồ 2.10 Mức độ đạt được thái độ cầu tiến
2.31
2.65
2.34
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
ĐTB
Tích cực lắng nghe
ý kiến đóng góp
Muốn có nhiều cơ
hội thực tập giảng
dạy
Không hài lòng với
khuyết điểm bản
thân
Biểu hiện ý thức học tập nâng cao trình độ: Ở phẩm chất này, sinh
viên đạt được mức độ khá cao, tập trung ở hai biểu hiện cơ bản: xem trọng việc
học tập, rèn luyện (ĐTB=2.92) ; huy động các nguồn thông tin để mở rộng vấn
đề đã học (ĐTB=2.77).
Biểu hiện phẩm chất yêu học sinh: Đây là một trong những phẩm
chất đạo đức cao quí của nhà giáo, xuất phát điểm của mọi hứng thú trong quá
trình tương tác sư phạm. Mức độ đạt được phẩm chất yêu trẻ của sinh viên
biểu hiện ở kết quả bảng 2.9
Đối với sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang, các biểu hiện của
phẩm chất yêu học sinh nhìn chung đều đạt mức độ cao. Một số biểu hiện nổi
bật như tinh thần trách nhiệm, quan tâm đến các em học sinh yếu kém, thích
tiếp xúc với học sinh, cảm nhận niềm vui khi tạo ra bầu không khí tích cực trên
lớp, tin yêu vào học sinh. Tuy nhiên, ở biểu hiện đầu tư cho những học sinh ưu
tú (ĐTB=2.26), thể hiện chưa cao, đạt ở mức trung bình. Kết quả này cho thấy,
sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang thể hiện lòng yêu trẻ, yêu học
sinh bằng tinh thần trách nhiệm, thái độ quan tâm đầy thiện chí đối với học sinh,
đặc biệt là những học sinh yếu kém, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Bảng 2.9 Biểu hiện phẩm chất yêu học sinh
Biểu hiện phẩm chất yêu học sinh ĐTB ĐLC
Yêu mến học sinh 2.85 0.38
Thích tiếp xúc với học sinh 2.85 0.39
Quan tâm đến từng học sinh trong lớp thực tập giảng dạy 2.74 0.52
Có niềm tin ở học sinh 2.80 0.45
Không khí học tập tích cực của học sinh luôn là niềm vui 2.86 0.41
Đầu tư phát triển khả năng của những học sinh ưu tú 2.26 0.76
Quan tâm nhiều hơn đến những học sinh học kém trong lớp 2.86 0.41
Đánh giá cao sự tiến bộ của học sinh trong rèn luyện hơn là kết
quả bằng điểm số
2.75 0.54
Có trách nhiệm tìm ra biện pháp giúp đỡ những học sinh khó khăn 2.87 0.38
Sẵn sàng giảng giải cho học sinh đến khi nào hiểu thì thôi 2.78 0.46
Biểu hiện lòng yêu nghề: Lòng yêu trẻ và lòng yêu nghề là hai phẩm
chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên nền tảng của sự phù hợp với
các yêu cầu nghề dạy học. Trong kết quả điều tra khảo sát, chúng tôi nhận thấy,
cả hai phẩm chất này sinh viên đều đạt trên mức trung bình.
Từ kết quả ở bảng 2.10, một số biểu hiện của phẩm chất ở sinh viên đạt
mức độ rất cao như biểu hiện quan tâm đến phương pháp phát huy tính chủ
động của người học (ĐTB=2.89), biểu hiện đầu tư toàn bộ tâm huyết, kiến
thức, khả năng của mình vào bài dạy (ĐTB=2.89), đi tìm những điều lý thú
trong các bộ môn (ĐTB=2.85), tự hào là sinh viên sư phạm (ĐTB=2.83).
Những biểu hiện này cho thấy, sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang
thể hiện lòng yêu nghề với tinh thần làm việc trách nhiệm cao, hướng đến cải
tiến phương pháp, nội dung dạy học phát huy tính tích cực của người học. Tuy
nhiên, biểu hiện vượt qua những khó khăn để duy trì lòng yêu nghề ở sinh viên
chỉ đạt mức trung bình (ĐTB=2.33). Đây là đặc điểm mang tính khách quan do
sinh viên sư phạm năm cuối chưa trải nghiệm nhiều trong công việc thực tế,
những thử thách nghề nghiệp trong quá thực tập sư phạm dễ làm sinh viên cảm
thấy khó thích ứng.
Bảng 2.10 Biểu hiện lòng yêu nghề
Biểu hiện lòng yêu nghề ĐTB ĐLC
Tự hào là sinh viên sư phạm 2.83 0.43
Muốn gắn bó lâu dài với nghề 2.78 0.46
Thích học những tiết rèn luyện nghiệp vụ sư phạm 2.77 0.46
Đi tìm những điều lý thú trong các bộ môn sẽ giảng dạy 2.85 0.38
Quan tâm đến những phương pháp dạy phát huy tính chủ động ở
học sinh
2.89 0.32
Lòng nhiệt huyết của tôi đang giảm dần khi gặp khó khăn trong
giảng dạy
2.33 0.81
Đầu tư toàn bộ tâm huyết, kiến thức, khả năng của mình vào bài
dạy trên lớp
2.89 0.35
Thật yêu quí nghề sư phạm mặc dù chứng kiến những tiêu cực 2.66 0.53
Thích làm một công việc khác hơn là giảng dạy sau khi ra trường 2.41 0.76
Cho rằng dạy học rất nhàm chán 2.60 0.70
Kết luận chung, những biểu hiện phẩm chất đạo đức nghề của sinh viên
sư phạm năm cuối trường Đại học Tiền Giang đều đạt mức độ từ trung bình
đến cao, cơ bản đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường. Trong đó, có những
phẩm chất đạo đức truyền thống, đặc trưng của nghề giáo như lòng yêu trẻ,
lòng yêu nghề, phong cách mẫu mực, tính trung thực biểu hiện khá tốt ở sinh
viên.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng đạt được mức độ cao ở phẩm chất được
xem là phù hợp với thời đại mới như ý thức học tập nâng trình độ. Tuy nhiên,
biểu hiện khả năng vượt khó để thích ứng trong công việc còn hạn chế và chưa
mạnh dạn đưa ra chính kiến của mình trong những tranh luận mang tính chất
khoa học.
2.3.3 Mức độ đạt được các năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm
2.3.3.1 Mức độ đạt được các năng lực chuyên môn
Kết quả hiển thị ở biểu đồ 2.11 cho thấy, với ba biểu hiện về năng lực
chuyên môn, sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang đạt được mức độ từ
trung bình đến khá cao. Trong đó biểu hiện về phương pháp tiếp cận kiến thức
đạt mức độ cao nhất so với hai biểu hiện còn lại. Mặt khác, chúng tôi cũng
nhận thấy rằng, biểu hiện về năng lực kiến thức chuyên môn ở sinh viên sư
phạm năm cuối còn hạn chế, chỉ đạt mức độ trung bình.
Biểu đồ 2.11 Mức độ đạt được năng lực chuyên môn của SVSP
2.44 2.46
2.33
2.26
2.28
2.3
2.32
2.34
2.36
2.38
2.4
2.42
2.44
2.46
ĐTB
Phân tích khái niệm Phương pháp tiếp
cận kiến thức
Kiến thức chuyên
môn
Trên cơ sở phân tích các mức độ đạt được năng lực chuyên môn qua tình
huống cụ thể, chúng tôi rút ra một số kết quả:
• Về năng lực phân tích khái niệm: Mức độ đạt được của sinh viên sư
phạm năm cuối là trên trung bình (ĐTB=2.44). Với ba lựa chọn theo mức độ
khó khác nhau, kết quả thống kê cho thấy, 23.7% sinh viên sư phạm đạt được
mức độ thấp nhất là trình bày khái niệm, giải thích các từ, cụm từ liên quan,
làm mẫu hướng dẫn học sinh vận dụng vào tình huống thực tế. Ở mức độ thứ
hai, sinh viên trình bày khái niệm, định hướng người học tự vận dụng vào tình
huống thực tế, có 9.1% sinh viên đạt được mức độ này. Và mức độ cao nhất là
sinh viên không trình bày khái niệm có sẵn cho người học, mà thông qua hệ
thống bài tập, các câu hỏi gợi mở hướng dẫn người học tự tiếp cận khái niệm, ở
mức độ này, tỷ lệ sinh viên đạt được là 67.2%. Như vậy, ở năng lực phân tích
khái niệm, số đông sinh viên đạt được tập trung ở mức độ 3 và mức độ 1. Ở
năng lực phân tích khái niệm chuyên ngành thể hiện phân cách khá rõ rệt giữa
mức độ thấp và mức độ cao.
• Về phương pháp tiếp cận kiến thức: Có 16.7% sinh viên sư phạm
tiếp cận kiến thức chủ yếu thông qua giờ dạy của giáo viên trên lớp, 20.4% sinh
viên biết kết hợp thông tin từ sách giáo trình và bài dạy của giáo viên, 62.9%
sinh viên tận dụng được nhiều nguồn thông tin khác nhau. Như vậy, tỷ lệ sinh
viên đạt được mức độ cao nhất về phương pháp tiếp cận thông tin khá cao. Tuy
nhiên, vẫn còn một số sinh viên lệ thuộc vào kiến thức cơ bản mà chưa hình
thành phương thức tiếp cận thông tin phù hợp.
• Về kiến thức chuyên môn: Kết quả đánh giá chung cho thấy về kiến
thức chuyên môn, sinh viên chỉ đạt ở mức trung bình. Trong ba biểu hiện ở
bảng 2.11, chúng tôi nhận định sinh viên sư phạm còn hạn chế ở hai năng lực
vận dụng kiến thức và năng lực phản hồi thông tin về các vấn đề liên quan đến
kiến thức chuyên môn. Có đến 11.3% sinh viên không phản hồi được thông tin,
11.8% sinh viên lúng túng xem lại các kiến thức đã học. Như vậy, năng lực về
kiến thức chuyên môn của sinh viên sư phạm năm cuối cơ bản đáp ứng yêu cầu
trình bày lại, khả năng phân tích sâu hoặc vận dụng vào trong quá trình nghiên
cứu biểu hiện chưa cao
Bảng 2.11 Biểu hiện kiến thức chuyên môn của SVSP
Các mức độ đạt được SL %
Kiến thức
chuyên môn
Tôi cảm thấy lúng túng, phải xem lại toàn bộ những gì
đã học
44 11.8
Tôi có thể trình bày được sơ lược các nội dung cơ bản
mà ít khi lấy ví dụ hoặc phân tích sâu
102 27.4
Tôi cảm thấy kiến thức chuyên ngành giúp tôi hiểu và
diễn đạt mạch lạc trước học sinh trên lớp
226 60.8
Phản hồi
thông tin về
kiến thức
chuyên môn
Không tìm được minh chứng để trả lời cho câu hỏi 42 11.3
Tôi biết có thể tìm minh chứng cho câu trả lời ở đâu
và phải tìm lại thông tin
147 39.5
Tôi có thể đưa ra những minh chứng cơ bản để trả lời
câu hỏi.
183 49.2
Vận dụng
kiến thức
chuyên môn
Trả lời các câu hỏi trên lớp của giáo viên 79 21.2
Thực hiện các chuyên đề nghiên cứu theo yêu cầu của
giáo viên
128 34.4
Tự nghiên cứu sâu các chuyên đề quan trọng. 165 44.4
2.3.3.2 Mức độ đạt được các năng lực sư phạm
Năng lực sư phạm bao gồm: năng lực dạy học và năng lực giáo dục.
a. Mức độ đạt được năng lực dạy học, đối với sinh viên sư phạm có
10 biểu hiện đặc trưng ở biểu đồ 2.12.
Biểu đồ 2.12 Biểu hiện năng lực sư phạm của sinh viên
2.34 2.34
2.3
2.36 2.34
2.28 2.3
2.25
2.48
2.33
2.1
2.15
2.2
2.25
2.3
2.35
2.4
2.45
2.5
Biểu đạt
ngôn
ngữ
Phong
cách
đứng
lớp
Sử dụng
phương
pháp
dạy học
Sử dụng
phương
tiện dạy
học
Trình
bày
bảng
Quản lý,
tổ chức
lớp học
Lập kế
hoạch
dạy học
Kiểm
tra,
đánh giá
học sinh
Hình
thành kỹ
năng
học tập
cho học
sinh
Ứng xử
tình
huống
sư phạm
trong
dạy học
Đ
TB
Dựa vào biểu đồ 2.12, chúng tôi nhận thấy, các biểu hiện năng lực sư
phạm của sinh viên năm cuối, hầu hết đều đạt ở mức trung bình. Trong đó, có 2
biểu hiện đạt mức độ cao là năng lực hình thành kỹ năng học tập cho học sinh
(ĐTB=2.48) và năng lực sử dụng phương tiện dạy học (ĐTB=2.36). Xét trên
bình diện chung, nhóm các năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; năng
lực quản lý, tổ chức lớp học ở sinh viên, đat mức độ trung bình nhưng thấp nhất
trong nhóm các năng lực sư phạm. Bên cạnh đó, các năng lực cơ bản trong hoạt
động dạy học như năng lực lập kế hoạch dạy học, năng lực sử dụng các phương
pháp dạy học chưa biểu hiện cao ở sinh viên sư phạm năm cuối.
Phân tích các biểu hiện cụ thể của từng năng lực dạy học , chúng tôi
nhận thấy một số kết quả như sau:
• Về năng lực biểu đạt ngôn ngữ, ở biểu đồ 2.13, tỷ lệ 52.96% sinh
viên đạt được mức độ cao, có thể điều chỉnh khả năng biểu đạt ngôn ngữ cho
phù hợp với tính chất nội dung, đặc điểm lứa tuổi học sinh. Ở mức độ trung
bình, có 29.57% sinh viên lựa chọn được ngôn từ biểu đạt chính xác, nhưng
vẫn chưa hạn chế được tiếng đệm hoàn toàn. Đối với mức độ thấp nhất, 17.47%
sinh viên sư phạm bộc lộc nhiều nhược điểm trong kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ
như tiếng đệm, lúng túng, còn ngập ngừng.
Biểu đồ 2.13 Các mức độ đạt được năng lực biểu đạt ngôn ngữ
17.47%
29.57%
52.96%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
Tỷ lệ phần
trăm
Lúng túng,
diễn đạt khó
trôi chảy
Sử dụng
đúng từ,
phát âm
chuẩn xác, ít
ngôn ngữ
đệm
Chú ý điều
chỉnh được
ngữ điệu
phù hợp
hoàn cảnh,
đối tượng
• Về năng lực thể hiện phong cách đứng lớp:
Kết quả thống kê ở bảng 1 - Phụ lục 4, cho thấy, các biểu hiện phong
cách đứng lớp của sinh viên sư phạm năm cuối đạt được mức độ từ trung bình
đến cao. Trong đó có 3 biểu hiện tốt nhất về thể hiện điệu bộ, biểu cảm trên nét
mặt, điều chỉnh các bước di chuyển, tất cả đều đạt mức độ khá cao (ĐTB>2.34).
Hai biểu hiện còn lại về khả năng hút sự chú ý và khả năng điều chỉnh tâm lý
đạt ở mức trung bình. Chúng tôi nhận thấy rằng, sinh viên sư phạm năm cuối
về cơ bản đáp ứng các yêu cầu tác phong đứng lớp, đặc biệt là sự điều chỉnh
những biểu hiện hành vi bên ngoài.
Tuy nhiên, khả năng điều chỉnh các yếu tố tâm lý còn hạn chế, 46.7%
sinh viên luôn phải ý thức duy trì sự điềm tĩnh và sự tự tin trong quá trình
tương tác sư phạm. Kết quả cũng cho thấy, phong cách truyền đạt của sinh viên
thu hút được sự chú ý của học sinh, tuy nhiên chưa điều chỉnh được tốc độ, bố
cục nội dung trình bày, tỷ lệ 46.2% sinh viên thừa nhận người nghe rất khó ghi
chép lại các thông tin.
• Về năng lực sử dụng phương pháp dạy học: Mức độ đạt được năng
lực sử dụng phương pháp dạy học của sinh viên ở mức trung bình. Kết quả
thống kê cho thấy 62.9% sinh viên sư phạm có ứng dụng các phương pháp tích
cực nhằm khơi gợi người học chủ động lĩnh hội tri thức, kỹ năng. Bên cạnh đó,
27.7% sinh viên biết kết hợp phương pháp trực quan hỗ trợ cho phương pháp
thuyết trình và 9.4% sinh viên sư phạm còn sử dụng thuyết trình như là phương
pháp chủ đạo trong dạy học.
Biểu đồ 2.14 Khả năng vận dụng phương pháp thuyết trình ở SVSP
53%
20%
27%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
Tỷ lệ phần trăm
Nội dung trừu
tượng
Học sinh thụ
động
Đảm bảo tiến độ
thời gian
Nhằm đánh giá mức độ vận dụng phương pháp thuyết trình của sinh
viên sư phạm vào hoàn cảnh thực tế ở lớp học, kết quả cho thấy ở biểu đồ 2.14.
Số đông sinh viên, chiếm tỷ lệ 53%, đã sử dụng phù hợp phương pháp thuyết
trình vào triển khai các nội dung mang tính trừu tượng, khái quát so với trình
độ của học sinh. Tuy nhiên, 47% sinh viên còn lại chưa cải thiện được tính thụ
động do phương pháp thuyết trình mang lại.
• Về năng lực sử dụng phương tiện dạy học: Dựa vào biểu đồ 2.15,
chúng tôi nhận thấy sinh viên sư phạm năm cuối biểu hiện mức độ sử dụng cao
ở các đồ dùng dạy học trực quan tự làm. Bên cạnh đó, các đồ dùng dạy học
truyền thống như phấn, bảng, đồ dùng trực quan có sẵn vẫn được duy trì..
Biểu đồ 2.15 Mức độ sử dụng đồ dùng dạy học của SVSP
48%
31%
21%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
Tỷ lệ phần trăm
Đồ dùng trực
quan tự làm
Bảng, phấn, giáo
án
Đồ dùng dạy học
có sẵn
Bên cạnh đồ dùng dạy học, sinh viên sư phạm còn ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học đạt mức độ cao. Biểu đồ 2.16 thể hiện tỷ lệ 66.9% sinh
viên sư phạm ứng dụng công nghệ thông tin một cách tích cực, chủ động. Mặt
khác, tỷ lệ 33.1% sinh viên có ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học,
nhưng còn mang tính bắt buộc, thụ động.
Biểu đồ 2.16 Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
10.5%
22.60%
66.90%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
Tỷ lệ phần trăm
Yêu cầu bắc buộc Được trang bị sẵn Chủ động ứng
dụng vào bài
giảng
• Về năng lực trình bày bảng: Sinh viên sư phạm năm thứ ba, thứ tư
biểu hiện năng lực trình bày bảng ở mức độ trung bình. Trong đó, có 48.9%
sinh viên sư phạm thể hiện nội dung trình bày trên bảng theo bố cụ rõ ràng, nét
chữ đẹp, đúng qui cách. Ở mức độ hai, khả năng trình bày bảng phù hợp với
canh dòng, tuy nhiên nét chữ chưa đẹp, tỷ lệ sinh viên đạt được là 38.4%. Còn
lại 12.6% sinh viên trình bày bảng, viết chưa ngay hàng, còn sai chính tả.
• Về năng lực quản lý, tổ chức lớp học: Với ba biểu hiện được trình
bày ở bảng 2- Phụ lục 4, kết quả cho thấy năng lực tổ chức thời gian trên lớp
học của sinh viên sư phạm ở mức độ khá cao, với 54.8% sinh viên làm chủ
được thời gian tổ chức. Ngược lại, cách thức tổ chức giờ học cho học sinh và
xây dựng bầu không khí lớp học tích cực, sinh viên sư phạm đạt mức độ trung
bình. Đặc biệt ở năng lực xây dựng bầu không khí lớp học tích cực, có đến
63.2% sinh viên sư phạm chỉ đạt mức trung bình, thu hút câu trả lời từ phía
người học, chưa khơi gợi được những câu hỏi mở rộng vấn đề. Đối với biểu
hiện về hình thức tổ chức lớp học, nhìn chung sinh viên sư phạm đã chú trọng
đến dạy học theo nhóm, phát huy vai trò chủ động của học sinh. Tuy nhiên tỷ lệ
khá cao 23.4% sinh viên vẫn còn dạy theo hình thức truyền thống theo tập thể
lớp học.
• Về năng lực lập kế hoạch dạy học:
Kết quả bảng 2.12, ở hai biểu hiện năng lực định hướng lập kế hoạch
dạy học và năng lực viết mục tiêu dạy học, sinh viên sư phạm chỉ đạt mức
trung bình. Trong đó, ở kỹ năng viết mục tiêu dạy học có đến 38.7% sinh viên
sư phạm chỉ đảm bảo được yêu cầu về ba mục tiêu: kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Khả năng thiết kế mục tiêu dạy học phù hợp với tính chất nội dung và đặc điểm
đối tượng học sinh biểu hiện chưa cao ở sinh viên.
Nhìn chung các tiêu chí của từng năng lực lập kế hoạch dạy, chúng tôi
nhận thấy số đông sinh viên đạt mức độ đạt được thứ hai, mức độ trung bình
của từng tiêu chí.
Bảng 2.12 Biểu hiện năng lực lập kế hoạch dạy học
ĐTB ĐLC Mức độ đạt được %
Định
hướng
lập kế
hoạch
dạy học
2.31 0.70
Nghiên cứu sách giáo khoa, lập ý tưởng về bố
cục nộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_21_8683400986_0391_1869299.pdf