2. Kỹ thuật
Trong nông nghiệp những kỹ thuật tiến bộ thể hiện rõ nhất là giống cây trồng năng suất cao, giống gia súc đã được cải tạo nhưng công nghệ thể hiện ở khâu vốn đầu tư nghĩa là máy móc, hệ thống tưới tiêu. Tiến bộ công nghệ đã trở thành hiển nhiên trong trồng trọt, chăn nuôi và trình độ quản lý của người nông dân.
Các nhà kinh tế cho rằng công nghệ là một tập hợp những kỹ thuật sẵn có hoặc trình độ kiến thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra bằng vật chất nhất định. Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho nâng cao được năng lực sản xuất để có thể làm ra nhiều sản phẩm hơn với số lượng đầu vào như cũ hoặc làm ra sản lượng như cũ với khối lượng đầu vào ít hơn. Nhiều đổi mới công nghệ trong nông nghiệp còn nhằm để tiết kiệm lao động (do sử dụng máy móc) hoặc tiết kiệm đất đai.
Phần lớn những kỹ thuật tiến bộ áp dụng vào sản xuất đều tạo ra khả năng đạt được mục tiêu kinh tế do xã hội đặt ra như năng suất cao hơn, chất lượng cao hơn, giá thành hạ hơn và tăng thu nhập cho người sản xuất, đồng thời nó cũng tạo ra hiệu quả xã hội khác như cải thiện điều kiện sống, cải tạo môi sinh, môi trường.
* Các nguồn kỹ thuật tiến bộ và việc áp dụng nó:
– Đúc kết từ kinh nghiệm thực tế
– Những kết quả nghiên cứu và phát triển qua khảo nghiệm được áp dụng trong sản xuất
– Những kết quả nghiên cứu và phát triển bên ngoài đưa vào
* Công tác phổ biến áp dụng là đưa sáng kiến cải tiến ra ứng dụng trong sản xuất đại trà, là quá trình tiếp thu từng bước qua mấy vụ sản xuất liên tục. Những thuộc tính kỹ thuật mới được nông dân quan tâm là những công nghệ có thể được chia nhỏ (Viện kinh tế nông nghiệp, 1995).
* Tốc độ phổ biến áp dụng phụ thuộc vào mức độ công nghệ đó có mang tính địa phương rõ rệt hay không, có phù hợp với điều kiện canh tác cụ thể của đa số nông dân hay không, ngoài ra còn các yếu tố như văn hóa, xã hội, thị trường cũng ảnh hưởng nhiều đến tốc độ ứng dụng công nghệ.
91 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4297 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hiệu quả sản xuất của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa của nông hộ xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
“Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rong
Nhất nông nhì sĩ”
Câu châm ngôn xưa đã phần nào nói lên mối quan hệ tác động qua lại giữa người nông dân và người trí thức. Ngày nay, mối quan hệ đó ngày càng chặt chẽ hơn, thể hiện ở việc nông dân và cán bộ nghiên cứu, cán bộ nông nghiệp đã dần rút ngắn khoảng cách. Nhà nghiên cứu thì tìm ra các nguyên lý, các biện pháp khoa học để phục vụ cho nông dân, còn nông dân là người thực nghiệm, là người kiểm chứng các kết quả đó.
Trước xu thế phát triển của các hoạt động kinh tế đã và đang dẫn đến việc đô thị hóa các vùng nông thôn chuyên sản xuất nông nghiệp làm giảm diện tích canh tác ở một số vùng trong cả nước. Do đó, để duy trì mức sản lượng nông sản đặc biệt là lúa gạo thì các nước sản xuất nông nghiệp trong đó có Việt Nam đều xem việc áp dụng kỹ thuật mới theo hướng sản xuất bền vững là một trong những giải pháp ưu tiên được chọn trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đang được rất nhiều nông dân quan tâm và thực hiện, bởi lẻ nó mang lại lợi ích cho chính người sản xuất. Tuy nhiên, cùng áp dụng một mô hình khoa học kỹ thuật nhưng hiệu quả sản xuất của mỗi nông hộ được nhìn nhận là khác nhau. Điều đó cho thấy mức độ áp dụng của các hộ là khác nhau. Bên cạnh đó, nguồn lực của mỗi nông hộ khác nhau cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến những khác biệt này. Nếu nông hộ biết tận dụng tốt các nguồn lực sẵn có của mình kết hợp với việc ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất sẽ mang lại hiệu quả cao đồng thời cũng nâng cao trình độ sản xuất cho bản thân. Xuất phát từ thực tế đó, em thực hiện đề tài “Phân tích hiệu quả sản xuất của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa của nông hộ xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng” để thấy tính hiệu quả khi nông hộ ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, thu nhập ròng của nông hộ trên địa bàn nghiên cứu.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài là phân tích hiệu quả sản xuất khi nông dân ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa và xác định những thuận lợi, khó khăn trong quá trình sản xuất trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp liên quan đến việc ứng dụng kỹ thuật mới đối với nông hộ và chính quyền địa phương.
2. Mục tiêu cụ thể
– Mô tả thực trạng sản xuất của nông hộ liên quan đến các nguồn lực sẵn có
– Phân tích những yếu tố giúp nông hộ quyết định áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất lúa
– Đánh giá hiệu quả sản xuất của nông hộ khi ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật riêng lẻ và khi ứng dụng kết hợp các mô hình khoa học kỹ thuật
– Xác định những thuận lợi, khó khăn trong quá trình sản xuất hiện tạị cũng như những cơ hội và nguy cơ trong thời gian tới
– Đề xuất các giải pháp phát huy các mặt tích cực và khắc phục những hạn chế trong quá trình triển khai ứng dụng kỹ thuật đối với nông hộ và chính quyền địa phương
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp thu thập số liệu
1.1. Số liệu thứ cấp
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu có liên quan đến việc sản xuất lúa của nông dân; Niên giám thống kê huyện Mỹ Tú năm 2004; Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế, xã hội, sản xuất nông nghiệp của xã Phú Tâm và huyện Mỹ Tú trong 3 năm (2003 – 2005); Báo cáo kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Mỹ Tú giai đoạn 2001 – 2005 và kế hoạch 2006 – 2010; Các kế hoạch, dự án có liên quan đến mô hình; Những nghiên cứu về nông nghiệp đã được thực hiện ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
1.2. Số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu thập từ hai nguồn:
– Các nhận định, đánh giá của các nhà chuyên môn, quản lí trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế cấp xã, huyện.
– Thu thập thông tin trực tiếp thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn nông hộ trong vùng nghiên cứu (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng).
Đề tài nghiên cứu hiệu quả sản xuất của việc ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật. Sau khi tiếp xúc với cán bộ xã để nắm tình hình ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa của nông dân tại xã Phú Tâm, sau đó phân các hộ điều tra thành 3 nhóm: nhóm hộ chỉ ứng dụng mô hình giống mới; ứng dụng mô hình giống mới kết hợp IPM; ứng dụng cả 3 mô hình giống mới – IPM – 3 giảm 3 tăng; còn các mô hình như sạ hàng, lúa – màu, lúa - thủy sản… ít được nông hộ ứng dụng.
Toàn xã có 10 ấp, trong đó có 4 ấp có diện tích sản xuất lúa lớn nhất. Do giới hạn của đề tài nên chỉ chọn 3 ấp làm đại diện là ấp Phú Thành A, Phú Thành B và Phú Bình với cỡ mẫu là 60.
Do yêu cầu đặt ra là điều tra 3 nhóm hộ như trên nên ở đây dùng phương pháp chọn mẫu phán đoán. Vì áp dụng phương pháp này nên phải dựa trên sự nhận định của cán bộ xã để chọn ra thành phần nông hộ có triển vọng tốt, có khả năng cung cấp dữ liệu chính xác. Tóm lại, khi dùng phương pháp này là dựa vào mục đích nghiên cứu để chọn ra thành phần, đối tượng trả lời đúng và phù hợp. Phương pháp này giúp ta chọn mẫu nhanh nhưng sai số lớn.
2. Phương pháp phân tích số liệu
– Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phân tích tần số để mô tả nguồn lực của nông hộ, phân tích yếu tố giúp nông hộ quyết định áp dụng kỹ thuật mới...
– Phân tích hồi qui tương quan để xem xét mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng các mô hình khoa học kỹ thuật đến thu nhập ròng.
– Dùng phương pháp kiểm định giả thuyết để kiểm định có hay không có sự liên hệ giữa diện tích và năng suất (kiểm định Chi-Square, kiểm định Mann – Whitney); giữa việc ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật khác nhau với năng suất (kiểm định Kruskal Wallis), kiểm định trung bình giữa hai mẫu phụ thuộc (mẫu từng cặp) để xem xét sự khác biệt của chi phí, thu nhập ròng trước và sau khi áp dụng khoa học kỹ thuật, sự khác biệt của thu nhập ròng khi áp dụng các mô hình khoa học kỹ thuật khác nhau có ý nghĩa hay không.
– Mô tả mối liên hệ giữa diện tích và năng suất khi phân nhóm 2 yếu tố này bằng phương pháp phân tích bảng chéo.
– Sử dụng các tỷ số tài chính như: thu nhập/chi phí; thu nhập ròng/chi phí; thu nhập/thu nhập ròng; thu nhập ròng/ngày công để làm cơ sở so sánh hiệu quả kinh tế.
– Dùng phương pháp so sánh số tuyệt đối và số tương đối để so sánh các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất, và các tỷ số tài chính.
– Phân tích những thuận lợi, khó khăn của nông hộ trong quá trình sản xuất; phân tích cơ hội và mối đe dọa của sản xuất lúa từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, phát huy thuận lợi, nắm bắt cơ hội và hạn chế những nguy cơ.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2006. Số liệu sơ cấp về thu nhập, các loại chi phí sản xuất chỉ được thu thập vào một vụ lúa Đông Xuân (khoảng tháng 11 năm 2005 đến tháng 3 năm 2006) khi nông hộ đã áp dụng các mô hình khoa học kỹ thuật trong sản xuất và vụ lúa Đông Xuân các năm trước khi nông hộ chưa ứng dụng kỹ thuật mới trong sản xuất.
Về không gian: Số liệu sơ cấp được thu thập ở 3 ấp của một xã thuộc huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng nên tính đại diện chưa cao.
Do phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu phán đoán, lựa chọn những hộ có ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, và việc chọn hộ điều tra phụ thuộc vào cán bộ địa phương chọn ra những hộ sản xuất điển hình trong 3 ấp của xã Phú Tâm nên năng suất đạt được trong vụ Đông Xuân năm 2005 – 2006 của những hộ được điều tra cao hơn năng suất trung bình của xã. Kết quả được phân tích từ số liệu điều tra chỉ đúng cho những hộ được điều tra nhằm đánh giá hiệu quả khi những hộ này ứng dụng các mô hình khoa học kỹ thuật khác nhau vào sản xuất lúa.
Ngoài ra, đề tài chỉ nghiên cứu hiệu quả sản xuất lúa, không nghiên cứu các thu nhập từ hoạt động nông nghiệp khác như: hoa màu, chăn nuôi, thủy sản… mà các nguồn thu nhập này có thể có được từ áp dụng khoa học kỹ thuật thông qua việc sản xuất theo mô hình kết hợp.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. CÁC KHÁI NIỆM ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT
1. Khoa học
Khoa học là sự tìm kiếm các quy luật khách quan chi phối các hiện tượng tự nhiên, không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào về các áp dụng kinh tế khả dĩ, khoa học chỉ đơn giản là sự theo đuổi chân lý.
Như vậy, khoa học tập trung vào kiến thức, lý giải nguyên nhân sản sinh ra kiến thức.
Kiến thức khoa học dễ dàng được truyền bá rộng rãi, không bị cản trở bởi biên giới quốc gia. Kiến thức khoa học là sở hữu chung, không dễ bị chiếm hữu. Phát triển khoa học tạo ra những tri thức mang tính chất tiềm năng. Mục đích của khoa học là phát triển tối ưu các nguồn lực phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội. Hoạt động khoa học được đánh giá theo giá trị khám phá, theo giá trị nhận thức, quy luật tự nhiên (Viện kinh tế nông nghiệp, 1995).
2. Kỹ thuật
Trong nông nghiệp những kỹ thuật tiến bộ thể hiện rõ nhất là giống cây trồng năng suất cao, giống gia súc đã được cải tạo… nhưng công nghệ thể hiện ở khâu vốn đầu tư nghĩa là máy móc, hệ thống tưới tiêu. Tiến bộ công nghệ đã trở thành hiển nhiên trong trồng trọt, chăn nuôi và trình độ quản lý của người nông dân.
Các nhà kinh tế cho rằng công nghệ là một tập hợp những kỹ thuật sẵn có hoặc trình độ kiến thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra bằng vật chất nhất định. Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho nâng cao được năng lực sản xuất để có thể làm ra nhiều sản phẩm hơn với số lượng đầu vào như cũ hoặc làm ra sản lượng như cũ với khối lượng đầu vào ít hơn. Nhiều đổi mới công nghệ trong nông nghiệp còn nhằm để tiết kiệm lao động (do sử dụng máy móc) hoặc tiết kiệm đất đai.
Phần lớn những kỹ thuật tiến bộ áp dụng vào sản xuất đều tạo ra khả năng đạt được mục tiêu kinh tế do xã hội đặt ra như năng suất cao hơn, chất lượng cao hơn, giá thành hạ hơn và tăng thu nhập cho người sản xuất, đồng thời nó cũng tạo ra hiệu quả xã hội khác như cải thiện điều kiện sống, cải tạo môi sinh, môi trường.
* Các nguồn kỹ thuật tiến bộ và việc áp dụng nó:
– Đúc kết từ kinh nghiệm thực tế
– Những kết quả nghiên cứu và phát triển qua khảo nghiệm được áp dụng trong sản xuất
– Những kết quả nghiên cứu và phát triển bên ngoài đưa vào
* Công tác phổ biến áp dụng là đưa sáng kiến cải tiến ra ứng dụng trong sản xuất đại trà, là quá trình tiếp thu từng bước qua mấy vụ sản xuất liên tục. Những thuộc tính kỹ thuật mới được nông dân quan tâm là những công nghệ có thể được chia nhỏ (Viện kinh tế nông nghiệp, 1995).
* Tốc độ phổ biến áp dụng phụ thuộc vào mức độ công nghệ đó có mang tính địa phương rõ rệt hay không, có phù hợp với điều kiện canh tác cụ thể của đa số nông dân hay không, ngoài ra còn các yếu tố như văn hóa, xã hội, thị trường… cũng ảnh hưởng nhiều đến tốc độ ứng dụng công nghệ.
3. Hiệu quả
3.1. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
Hiệu quả bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có quan hệ mật thiết với nhau như một thể thống nhất không tách rời nhau.
– Hiệu quả kinh tế: là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra, nó là một phạm trù kinh tế chung nhất, liên quan trực tiếp tới nền kinh tế hàng hóa với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Một phương án có hiệu quả kinh tế cao hoặc một giải pháp kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao là một phương án đạt được tương quan tối ưu giữa kết quả mang lại và chi phí đầu tư. Bản chất của hiệu quả kinh tế xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, là đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội.
Hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp nó gắn liền với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Trước hết là ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được, nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cơ thể sống, chúng sinh trưởng, phát triển theo các quy luật sinh vật nhất định và cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh (ruộng đất, thời tiết, khí hậu). Con người chỉ tác động tạo ra những điều kiện thuận lợi để chúng phát triển tốt hơn theo quy luật sinh vật chứ không thể thay đổi theo ý muốn chủ quan.
– Hiệu quả xã hội: là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và tổng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù thống nhất (Viện kinh tế nông nghiệp, 1995).
3.2. Hiệu quả sản xuất
Hiệu quả sản xuất được đo lường bằng sự so sánh kết quả sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp được tính như sau:
Hiệu quả sản xuất = Thu nhập trên một đơn vị diện tích – Tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị diện tích
Trong đó:
Thu nhập trên một đơn vị diện tích = Giá bán * Sản lượng trên một đơn vị diện tích
Tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị diện tích là tổng các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất trên một đơn vị diện tích. Chi phí trong sản xuất lúa bao gồm: Chi phí chuẩn bị đất; chi phí giống; chi phí gieo sạ, cấy; chi phí phân bón; chi phí thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ; chi phí chăm sóc; chi phí nhiên liệu, năng lượng; chi phí vận chuyển trong sản xuất; chi phí thuê đất; chi phí lãi vay; chi phí thuế, phí; chi phí thu hoạch…
3.3. Hiệu quả kinh tế của tiến bộ khoa học kỹ thuật
Hiệu quả kinh tế của tiến bộ khoa học kỹ thuật là một bộ phận của hiệu quả kinh tế – xã hội, nó là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, nó gắn liền với hiệu quả sử dụng đất, với việc lợi dụng tối đa các điều kiện của khí hậu – thời tiết, gắn liền với việc tác động chủ quan của con người thông qua việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất.
Thực chất của việc áp dụng biện pháp kỹ thuật tiến bộ là đầu tư bổ sung trên một đơn vị diện tích. Thông thường các yếu tố đầu tư bổ sung có chất lượng cao hơn, hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hơn các yếu tố đầu tư đã sử dụng trước đó. Sự tác động này có thể trực tiếp thông qua việc nâng cao số lượng và chất lượng các yếu tố đầu tư bổ sung, hoặc có thể tác động gián tiếp thông qua bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý hơn hay là áp dụng phương pháp phù hợp hơn.
Kết quả của việc áp dụng các tiến bộ của kỹ thuật có thể biểu hiện bằng sản phẩm hữu hình và sản phẩm vô hình gồm:
– Số lượng, chất lượng và giá trị sản phẩm tăng lên
– Chi phí trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống
– Cải thiện điều kiện lao động cho nhân dân
– Cải thiện đời sống cho người lao động
– Cải tạo mô trường, môi sinh
Các biện pháp kỹ thuật trong nông nghiệp bao gồm các yếu tố rất đa dạng và phức tạp. Ngay trong từng yếu tố, tính phong phú và phức tạp cũng lớn, việc lựa chọn những kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp cần phải được cân nhắc kỹ.
4. Sản xuất theo kiểu độc canh
Độc canh là hiện tượng nông dân chỉ trồng một loại hoặc ít nhất một loại cây trên một khu đất nhằm thu càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Sản xuất độc canh thường gây ra những rủi ro sau:
– Dịch bệnh dễ phá hoại và kháng thuốc đối với sâu bệnh
– Giảm sút năng suất cây trồng
– Rủi ro về kinh tế lớn
– Giảm độ màu mỡ, phì nhiêu của đất đai, gây tác động xấu đến môi trường
5. Sản xuất theo kiểu luân canh
Luân canh là hình thức trồng luân phiên các loại cây trồng khác nhau trên cùng một diện tích canh tác. Lợi ích của việc luân canh là:
– Duy trì độ phì nhiêu của đất đai
– Khắc phục được tình trạng kháng thuốc của sâu bệnh
– Đa dạng hóa sản phẩm của nông hộ góp phần tăng thu nhập
Tuy nhiên, khi lựa chọn luân canh phải nghiên cứu kỹ cây trồng về:
Mức độ tiêu thụ dinh dưỡng: có nghĩa là sau một loại cây trồng cần dinh dưỡng cao thì trồng một loại cây trồng cần ít dinh dưỡng xếp theo mức độ dinh dưỡng từ thấp đến cao theo thứ tự cây họ đậu, cây lấy củ, cây rau, cây ăn quả, cây ngũ cốc… cây có mức độ tiêu thụ dinh dưỡng thấp nhất được đưa vào trồng, đưa cây họ đậu vào luân canh cho đất là biện pháp thích hợp nhất.
Tính chất chịu được bệnh hại: xếp theo tính chất chịu được bệnh hại của cây từ thấp đến cao là cây lấy củ, cây ngũ cốc, cây họ đậu, cây rau, cây ăn trái.
Hiệu quả kinh tế: hiệu quả kinh tế được đo lường bằng sự so sánh kết quả kinh doanh với chi phí để đạt được kết quả đó.
6. Số liệu
6.1. Số liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu gốc được nhà nghiên cứu thu thập cho một mục đích cụ thể về một vấn đề nghiên cứu nào đó. Dữ liệu sơ cấp của đề tài được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp nông hộ ở xã Phú Tâm (60 hộ) thông qua bảng câu hỏi và phỏng vấn cán bộ nông nghiệp xã Phú Tâm và cán bộ nông nghiệp huyện Mỹ Tú một số vấn đề liên quan đến đề tài.
6.2. Số liệu thứ cấp
Số liệu sơ cấp là các nguồn thông tin có liên quan đến vùng và vấn đề nghiên cứu. Thông tin này gồm: các báo cáo, thống kê, bản đồ, các kết quả nghiên cứu trước đây…
7. Lịch thời vụ
Lịch thời vụ là loại lịch chỉ rõ các hoạt động chính, các khó khăn và thuận lợi trong suốt chu kì hàng năm dưới dạng biểu đồ. Nó giúp xác định những tháng khó khăn nhất hoặc những tháng có những thay đổi quan trọng có thể tác động đến cuộc sống của người dân địa phương.
8. Nguồn lực nông hộ
Các tài nguyên trong nông hộ rất đa dạng bao gồm đất đai, lao động, kỹ thuật, tài chính, con người… chúng có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sản xuất của nông hộ. Nếu biết tận dụng mối liên hệ này sẽ giúp nông hộ tận dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sẵn có, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất.
II. CÁC MÔ HÌNH KHOA HỌC KỸ THUẬT SẢN XUẤT LÚA ĐANG ĐƯỢC NÔNG HỘ ỨNG DỤNG
1. Mô hình giống mới
Năm 1999, nông dân đã bắt đầu sản xuất lúa 2 vụ, nhưng các giống lúa sử dụng đại trà đang bị thoái hóa, lẫn tạp làm năng suất thấp (dưới 4 tấn/ha), phẩm chất gạo kém nên việc đổi mới cơ cấu giống lúa đã được thực hiện nhằm đưa năng suất và chất lượng gạo cao hơn, có giá trị hàng hóa và xuất khẩu cao.
Mô hình được thực hiện do Trung tâm giống cây trồng và Viện lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long kết hợp Trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ thực hiện năm 1999 với nội dung của mô hình là cung cấp và nhân một số giống nguyên chủng hiện đã được thử nghiệm trên quy mô nhỏ có kết quả tốt tại xã Phú Tâm như giống IR64, DS20, CMF1. Đồng thời đưa thêm một số giống mới được sản xuất ở nhiều nơi có năng suất và chất lượng cao như: OM1633, OM1723, OM 1490.
Những năm sau đó, nhiều giống lúa mới đã được cung cấp và sử dụng rộng rãi như giống: OM2517, OM2693, OM3242, OM2507, OM2717, OM2718, MTL341, MTL325, đặc biệt là giống lúa cao sản, đặc sản ST3, ST5. Các giống lúa này đã đạt năng suất từ 7 – 9 tấn/ha, hạt dài, gạo đẹp, thời gian sinh trưởng của một số giống như OM2517, OM4495 chỉ còn khoảng 95 ngày.
2. Mô hình IPM
Những đối tượng dịch hại gây ra không chỉ riêng đối với cây lúa. Để giải quyết một đối tượng gây hại giải pháp trước mắt thường là xịt lại nhiều lần các loại thuốc nông dược.
Quan điểm kiểm soát dịch hại đã được thay đổi cùng với việc phát minh ra những loại nông dược tổng hợp tiên tiến. Những loại thuốc này không mắc tiền và dễ sử dụng, cho kết quả ngay. Suốt kỷ nguyên nông dược này quan điểm về việc xử lý dịch hại có nghĩa là trừ tận gốc, phát hiện để diệt hết các dịch hại.
Quan điểm loại trừ triệt để nay đã được thay thế bằng quan điểm kiểm soát hợp lý, mục đích là làm giảm mật số dịch hại đến mức độ nếu xử lý tiếp tục sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế. Mật số dịch hại thấp có thể chấp nhận được. Từ quan điểm này đã được nghiên cứu, hình thành kỹ thuật IPM (Integrated Pest Management) hay còn gọi là biện pháp tổng hợp phòng trừ dịch hại.
Biện pháp tổng hợp phòng trừ dịch hại là một chiến lược kế hoạch sử dụng nhiều dạng chiến thuật hoặc biện pháp kiểm soát – kỹ thuật canh tác, sức đề kháng của cây, biện pháp hóa học hoặc sinh học – một cách hài hòa. Những công tác xử lý được căn cứ trên công tác kiểm tra dịch bệnh thường xuyên.
Biện pháp tổng hợp phòng trừ dịch hại dựa vào những chiến lược sinh thái có tính kỷ luật cao để cân nhắc hiệu quả của từng chiến thuật, như là một phần của hệ canh tác nông nghiệp, trong việc làm giảm ít nhất thiệt hại năng suất và sự xáo trộn trong sản xuất.
Không có chiến lược phòng trừ dịch hại nào làm gia tăng tiềm năng năng suất. Những chiến lược như thế chỉ có thể khẳng định rằng năng suất sinh học tối đa có thể đạt được trong một mùa và ở trên một cánh đồng đặc biệt sẽ không bị giảm năng suất đáng kể do dịch hại.
Các khái niệm thường sử dụng trong biện pháp này là:
– Mức độ thiệt hại kinh tế: mật số dịch hại lớn đủ để có thể gây mất mùa. Ở mật số này mức tổn thất cao hơn chi phí xử lý.
– Ngưỡng kinh tế: mật số dịch hại đến mức các biện pháp xử lý nên được áp dụng để ngăn không cho số lượng dịch hại đạt đến mức thiệt hại kinh tế.
3. Sạ hàng
Mô hình sạ lúa theo hàng do phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mỹ Tú tổ chức trình diễn trong vụ Đông Xuân năm 2000 – 2001, máy sạ hàng bằng động cơ KubotaL2001 cho thấy kết quả một số mặt tốt hơn so với sạ hàng bằng công cụ kéo tay:
– Tiết kiệm được trên 50% hạt giống
– Tăng năng suất (300 – 500 kg/ha)
– Ruộng bằng phẳng hơn
– Không có dấu chân người như sạ tay
– Năng suất làm việc của máy này có thể sạ từ 4 – 5 ha trong một ngày, cao hơn sạ tay 10 lần
4. Mô hình 3 giảm 3 tăng
Ba giảm: Ba giảm bao gồm giảm giống, giảm phân, giảm thuốc bảo vệ thực vật.
* Giảm giống:
Mục tiêu của chương trình đưa ra là phải sử dụng hạt giống tốt khỏe, giống không bị lẫn tạp với hạt cỏ lép lững, hạt bị nhiễm nấm bệnh, lúa cỏ… có sức nẩy mầm tốt (trên 85%). Phương pháp sạ được khuyến khích là sạ hàng hoặc sạ lang với mật độ sạ từ 70 – 120 kg/ha. Lợi ích của cách làm này là ít hao giống, ít tốn phân, ít bị sâu bệnh… tiết kiệm được chi phí.
Nếu giữ theo tập quán cũ như phần lớn nông dân sử dụng lúa thương phẩm làm giống với mật độ sạ duy trì ở mức khá cao (200 – 250 kg/ha), tỷ lệ lẫn tạp cao dẫn tới năng suất và chất lượng giảm thì rõ ràng sẽ tốn nhiều giống dễ đổ ngã, tốn nhiều phân, dễ bị sâu bệnh tấn công… tốn nhiều chi phí.
* Giảm phân:
Theo đánh giá của các nhà khoa học có sự biến động rất lớn về nguồn đạm được bổ sung trong đất ruộng nông dân, mức bón đạm theo qui trình nông dân cũng thay đổi rất lớn tùy từng ruộng. Sự thay đổi mức đạm bón vào và N được cung cấp cũng thay đổi rất lớn từ vụ này sang vụ khác, rõ ràng là nông dân chỉ chú trọng vào phân đạm (bón đạm rất cao 100 – 135 kg/ha) vì nó là yếu tố dễ thấy trong khi đó thường xem nhẹ vai trò của lân và kali cùng các nguyên tố vi lượng khác mà quên rằng hàng năm cây lúa lấy đi từ đất một lượng rất lớn các chất dinh dưỡng trong đất. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy thoái đất trầm trọng hiện nay và ngày càng nghiêm trọng hơn khi đất trồng lúa sản xuất 3 vụ/năm rất phổ biến.
Một thực tế nữa là khả năng hấp thu đạm vào ruộng nông dân chỉ đạt 30 – 40% so với tổng số đạm bón vào đất. Điều này đồng nghĩa với việc hàng năm lượng phân đạm bị mất đi do bốc hơi, thẩm thấu… nên lãng phí rất lớn.
Cũng như các cây trồng khác, cây lúa cần 16 chất trong không khí, nước, đất, nhưng bắt buộc phải trả lại cho đất: Đạm (N), lân (P), kali (K). Nông dân thấy bón Ure là lúa xanh nên không chịu bón NPK, dẫn đến ba tác hại:
- Đất bị huy động hết P và K nên mùa này bón 120 kg/ha thì mùa sau phải bón bù 140 kg/ha lúa mới xanh
- Bón nhiều Ure thì tán lá xanh tốt nhưng thân mảnh khảnh, chống bệnh yếu, còn dễ bị đổ ngã, ngã thì dưỡng chất đi lên bị trở ngại, hạt gạo dễ bị bạc bụng
- Tán lá to thì có những chồi ăn hại không trổ bông nhưng cũng tham gia ăn phân
Thêm vào đó, nếu bón N với liều lượng cao trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ cao là yếu tố góp phần đáng kể tới sự xuất hiện bệnh vàng lá lúa.
Vấn đề mấu chốt ở đây chính là điều chỉnh lượng phân cho phù hợp theo khả năng cung cấp dinh dưỡng từ đất là yếu tố then chốt để đạt năng suất cao và ổn định. Trên quan điểm đó 3 giảm 3 tăng khuyến cáo rằng:
– Bón cân đối phân lân và phân kali theo từng mùa vụ và loại đất
– Sử dụng bảng so màu lá lúa để xác định trọng lượng phân đạm cần bón cho lúa vào 2 thời điểm 20 – 25 ngày sau khi sạ và 40 – 45 ngày sau khi sạ
* Giảm thuốc:
Thông thường ngay từ đầu quy trình kỹ thuật sản xuất người nông dân đã sạ với mật độ cao, bón phân nhiều nên cây lúa yếu (sức đề kháng kém), sâu bệnh cũng nhiều theo về mật số và mức độ cũng như tính chất gây hại nghiêm trọng của nó.
Hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất lúa là biện pháp kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong “3 giảm 3 tăng”, mà nội dung cốt yếu chính là không phun thuốc trừ sâu trong giai đoạn 40 ngày sau khi sạ vì trong thời gian này cây lúa có khả năng bù đắp những thiệt hại này do sâu bệnh gây ra. Lợi ích của việc giảm thuốc trừ sâu là vừa bảo vệ thiên địch (côn trùng, thiên địch có ích) để khống chế sự bộc phát của nhiều dịch hại khác vừa giảm ô nhiễm môi trường và giảm chi phí đầu tư, bên cạnh đó còn tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt và an toàn cho người tiêu dùng.
Ba tăng: ba tăng gồm tăng năng suất, tăng chất lượng gạo và tăng lợi nhuận.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp và bà con nông dân, nếu áp dụng tốt chương trình “3 giảm 3 tăng” trong canh tác lúa, trước tiên sẽ giảm từ 30 – 50% lượng giống gieo sạ, kế tiếp tiết giảm 1/3 phân đạm và hạn chế số lần phun thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng nhất là giảm phu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- PT hiệu quả SX của việc ứng dụng KHKT vào SX lúa của nông hộ xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.doc