Luận văn Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU.1

NỘI DUNG.3

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu.6

1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài.6

1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.6

1.3. Các mục tiêu nghiên cứu.6

1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu.7

1.5. Phạm vi nghiên cứu. 7

1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu.7

1.7. Kết cấu của báo cáo.7

Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát và lãi suất, mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.8

2.1. Một số khái niệm, định nghĩa cơ bản.8

2.1.1. Lạm phát . 8

2.1.2. Lãi suất.11

2.2. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát.16

2.2.1. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất.16

2.2.2.Lý thuyết về kiềm chế lạm phát. 18

2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. 20

2.4. Những nghiên cứu có liên quan. 22

2.5. Mô hình nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài. 23

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.25

3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu.25

3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.27

3.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình . 27

3.2.2. Ảnh hưởng của nhân tố môi trường. 27

3.2.2.1. Môi trường kinh tế thế giới. 27

3.2.2.2. Môi trường kinh tế trong nước. 28

3.3. Kết quả trắc nghiệm của mô hình nghiên cứu. 30

3.3.1. Kết quả trắc nghiệm của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.30

3.3.2. Kết quả trắc nghiệm về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. .35

3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên gia. .46

3.5. Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp. 49

Chương 4: Kết luận, thảo luận và các đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .53

4.1. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.53

4.2. Các thảo luận về các vấn đề đặt ra qua nghiên cứu.55

4.3. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất trong việc quản lý kinh tế của Nhà nước và việc hoàn thiện các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam.59

4.3. Các đề xuất kiến nghị.61

4.4. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu.64

KẾT LUẬN.65

 

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7728 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát và các biện pháp khắc phục của nước ta để thoát khỏi tình trạng lạm phát. Đồng thời mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất đang có những biểu hiện cụ thể trong nền kinh tế. Hai biến số kinh tế này đều chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chúng chi phối nhiều đến các hoạt động , các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế khác nhau. Điều này đòi hỏi các nhà kinh tế cần hiểu rõ và vận dụng mối quan hệ này để thực hiện mục tiêu ổn định vĩ mô nền kinh tế. 3.2.2. Môi trường kinh tế Thế giới. Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệt đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng : Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước mới nổi ở khu vực Châu Á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/ thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% . Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất đầu vào của doanh nghiệp. Đây chính là hiện tượng lạm phát do chi phí đẩy. Thứ hai : Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng : xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực-thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Thứ ba : Cuộc đại khủng hoảng tài chính cuối năm 2008 diễn ra rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới đã đưa đến một hiện tượng là một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu. Trước việc giá dầu và lương thực-thực phẩm liên tục tăng đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể : Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5% - 3,75% - 4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%- 5,5%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12- 7,47%/năm. Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực- thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, ma biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó tính riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứư vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở laị đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. 3.2.3. Ảnh hưởng từ nội tại nền kinh tế Việt Nam. Thứ Nhất: Chi phí sản xuất tăng cao. Từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/2008 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%; giá điện tăng 7,6%, giá than tăng 30%, giá xi măng tăng 15%, giá phân bón tăng 58%. Thứ hai: Giá lương thực- thực phẩm tăng cao : biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực bị sụt giảm. Điều này làm giá thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong quý I/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi đó nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ gia tăng của lạm phát. Thứ ba : Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục được mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong vòng mấy năm gần đây, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính , tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ “ nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là ảnh hưởng chủ yếu khiến lái suất của NHNN liên tục hạ. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay, chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới..càng làm cho tín dụng của ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 2008. Điều này đã gián tiếp ảnh hưởng gây sức ép rất lơn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. Thứ tư : Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20.3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ trên khoảng 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu. Đứng trước bối cảnh này, NHNN đã phai cung ứng một lượng tiền lớn VND để mua ngoạ tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, lãi suất tăng và lạm phát gia tăng. 3.3.Kết quả trắc nghiệm của mô hình nghiên cứu 3.3.1.Kết quả trắc nghiệm của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất. Bước sang giai đoạn 2001-2009, chính sách lãi suất đã từng bước được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất USD đã được tự do hoá (6/2001), sau đó đến lãi suất đồng Việt Nam được tự do hoá (6/2002). Mặc dù chính sách lãi suất được coi là tự do hoá nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Lãi suất cơ bản được áp dụng từ tháng 8 năm 2000 và được xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của  15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy nhiên, nhiều khi lãi suất này có thể được quyết định bởi 4 NHTM nhà nước  vì thị phần tín dụng của 4 ngân hàng này chiếm trên 70% thị trường trong nước. Để dễ tính toán và so sánh chúng tôi chọn mức lãi suất tương đối trung bình, tức là lấy mức lãi suất tiền gửi ba tháng. Năm 2001, lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm phát thấp (lãi suất thực dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát). Năm 2002 tình hình lãi suất thực dương có giảm xuống, chỉ lớn bằng 0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm phát đã nhích lên ở mức hợp lý (4,0%). Năm 2007, lãi suất thực dương là âm nên tỷ lệ lạm phát tăng cao. Điều chú ý là năm 2004, khi tình hình kinh tế có biến động không tốt, lạm phát có dấu hiệu tăng lên nhưng lãi suất lại không tăng lên tương ứng do đó lãi suất thực bị âm và tỷ lệ giữa lãi suất thực âm này so với tỷ lệ lạm phát là 34,7% thể hiện giá của đồng tiền giảm xuống đáng kể. Đây chính là một trong những căn nguyên để cho lạm phát tăng mạnh. Vì người có tiền sẽ thiệt thòi khi gửi ngân hàng do đồng tiền của họ mất giá, do đó họ cố gắng giữ tiền trong lưu thông nên vòng xoáy lạm phát lãi suất thực âm diễn ra. Hơn nữa năm 2007, lạm phát tăng cao nên lãi suất thực dương xuống thấp. Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động, đầu năm lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu lãi suất thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người đi vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-17%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và cho vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế đã có một số NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có nhiều biến động mạnh. Hình 3.1. Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá mức thì có thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với lãi suất quá cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi nhuận lớn cho các ngân hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là quá lớn 6-7%, trước đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có mấy hoạt động có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh nghiệp. Tuy vậy, tại sao các NHTM cổ phần vẫn thiếu vốn cho vay và NHNN vẫn phải cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng? Chúng tôi cho rằng điều này NHNN phải nghiên cứu thật kỹ, kiểm tra thật chặt chẽ vì khả năng vay vốn đầu cơ nhiều hơn là cho sản xuất kinh doanh, hoặc những dự án đã trót triển khai thì bắt buộc phải vay, lãi suất cao bao nhiêu cũng chịu nhưng không lường và không tính đến khả năng không trả được nợ. Bài học hơn 25 ngàn tỷ đồng nợ xấu không thu được phải xử lý của các NHTMNN trước đây vẫn còn trước mắt. Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ phần thiếu vốn cho vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và vòng tiếp theo là lạm phát tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các NHTM cổ phần cứ cho vay ra với lãi suất cao mà không có điểm dừng, hậu quả lạm phát cao và mất ổn định hệ thống ngân hàng trong thời gian tới vì đến tháng 4/2008 dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở mức 60,2% so với cùng kỳ năm 2007 . Phần trên chúng tôi đã đề cập sâu đến mối tương quan trực tiếp giữa lạm phát với lãi suất thông qua kết quả trắc nghiệm trực tiếp trên thị trường tài chính- tín dụng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Phần tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra rằng giữa lãi suất và lạm phát còn một mối tương quan gián tiếp khác. Đó chính là sự tác động của lãi suất đến lạm phát thông qua cơ chế lan truyền tiền tệ. Quan sát biểu đồ dưới chúng ta sẽ thấy rõ được mối tương quan này. r 0 Y1 Y2 Y r 1 r 2 LM2 (M2/P2) LM1(M1/P1) IS P Y1 Y2 Y AD2 AD1 P2 P1 Hình 3. 2. Sự dịch chuyển đường LM Ở mức lãi suất r 1, thì đường LM 1 cắt IS tại điểm cân bằng thứ nhất. Tại đó xác định được mức thu nhập Y1 và tương ứng với đường tổng cầu AD1 với mức giá chung của thị trường là P1. Giả đinh rằng đây được coi là kỳ gốc do đó tỷ lệ lạm phát = 0. Khi chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua việc cắt giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì đường LM 1 sẽ dịch chuyển đến vị trí mới là đường LM 2 cắt đương IS tại điểm cân bằng thứ 2 với mức lãi suất r 2 và thu nhập Y 2. Tương ứng với sự dịch chuyển của đường LM, đường tổng cầu từ AD1 sẽ dịch chuyển đến AD 2 kéo theo mức giá cân bằng mới là P2. Vì P2 > P1 nên có thể kết luận đây là sự tăng lên của mức giá chung và nền kinh tế đã rơi vào tình trạng lạm phát. Như vậy đi cùng với sự cắt giảm lãi suất trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ vô hình chung đã gây nên sức ép tăng giá và gây ra lạm phát. Ngược lại chính phủ hoàn toàn có thể đưa ra biện pháp kiềm chế lạm phát thông qua cách tương tự. Bằng cách sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cho vay, sẽ làm được LM 2 dịch chuyển về vị trí LM 1. kéo theo là sự dịch chuyển AD2 về AD 1 qua đó làm giảm mức giá cân bằng của nền kinh tế và giảm lạm phát. 3.3.2. Kết quả trắc nghiệm về các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam: 3.3.2.1. Thực trạng và nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. * Tình hình lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được cho dưới bảng số liệu sau : 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tháng trước = 100% Tháng 1 100,4 100,3 101,1 100,9 101,1 101,1 101,2 101,1 102.4 Tháng 2 101,6 100,4 102,2 102,2 103,0 102,5 102,1 102,2 103.6 Tháng 3 98,9 99,3 99,2 99,4 100,8 100,1 99,5 99,8 103.0 Tháng 4 99,3 99,5 100,0 100,0 100,5 100,6 100,2 100,5 102.2 Tháng 5 99,4 99,8 100,3 99,9 100,9 100,5 100,6 100,8 103.9 Tháng 6 99,5 100,0 100,1 99,7 100,8 100,4 100,4 100,9 102.1 Tháng 7 99,4 99,8 99,9 99,7 100,5 100,4 100,4 100,9 101.1 Tháng 8 100,1 100,0 100,1 99,9 100,6 100,4 100,4 100,6 101.6 Tháng 9 99,8 100,5 100,2 100,1 100,3 100,8 100,3 100,5 100.2 Tháng 10 100,1 100,0 100,3 99,8 100,0 100,4 100,2 100,7 99.8 Tháng 11 100,9 100,2 100,3 100,6 100,2 100,4 100,6 101,2 99.2 Tháng 12 100,1 101,0 100,3 100,8 100,6 100,8 100,5 102,9 99.3 Bình quân tháng 100,0 100,1 100,3 100,2 100,8 100,7 100,5 101,0 101,5 Tháng 12 năm báo cáo so với tháng 12 năm trước 99,4 100,8 104,0 103,0 109,5 108,4 106,6 112,6 119,9 Năm trước =100 98,4 103,9 103,1 107,8 108,3 107,5 108,3 123,0 Năm 2000 =100 100,0 104,3 107,6 115,9 125,5 134,9 146,3 179,6 Bảng 1. Chỉ số CPI trong những năm gần đây (nguồn : TCTK) *Nguyên nhân gây ra lạm phát Sự tăng lên liên tục của tổng cung và tổng cầu trong dài hạn tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời đã kéo theo sự tăng lên không ngừng trong mức giá. Mặt khác, do năng lực sản xuất (tổng cung) tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng cầu nên đã đẩy mức giá tăng cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng kinh tế . Có thể thể hiện xu hướng này bằng đồ thị dưới đây : P P 2 P 3 P 1 Năm 1996 Năm 2007 GDP AS 1 AS 2 E 1 E 3 E 2 AS 3 AD 2 AD 1 Hình 3.3 . Đồ thị mô tả sự dịch chuyển tổng cung và tổng cầu trong dài hạn Trong dài hạn, đường tổng cung dịch chuyển sang phải khi năng lực sản xuất tăng lên nhờ các yếu tố nguồn lực đầu vào tăng. Ở Việt Nam, các nguồn lực này tăng rất nhanh, đặc biệt là nguồn vốn (năm 1996 mới chỉ đạt 76,450 nghìn tỷ đồng, đến năm 2006, đã tăng lên đến 398,900 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 5 lần) và lao động (năm 1996, số lao động thường xuyên có việc làm là 33,978 triệu người, đến năm 2006, đạt 42,542 triệu người), những năm gần đây, mỗi năm tăng thêm 1,5 triệu việc làm. Đường tổng cầu cũng dịch chuyển sang phải qua các năm vì: tiêu dùng hộ gia đình (C) tăng (năm 1996 là 202,509 nghìn tỷ đồng; năm 2006, đạt 679,706 nghìn tỷ đồng; năm 2007, đạt 726,1 nghìn tỉ đồng, tăng hơn 3 lần); đầu tư (I) tăng nhanh (như đã đề cập ở trên), chi tiêu chính phủ (G) tăng với tốc độ rất cao (từ 22,722 nghìn tỷ đồng năm 1996 lên 319,110 nghìn tỷ đồng năm 2006 và 368.340 nghìn tỉ đồng vào năm 2007, tăng hơn 13 lần) (Tác giả tính toán dựa vào số liệu thống kê), xuất khẩu ròng (NX) mức độ thâm hụt trong một số năm gần đây có tăng nhưng chưa tác động đáng kể đến việc làm giảm tổng cầu của cả nền kinh tế. Như vậy, xét theo quy luật của nền kinh tế thị trường thì lạm phát của những năm gần đây tăng cao có nguyên nhân tất yếu là do tích luỹ mức giá từ quá trình tăng trưởng liên tục trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, do năng lực sản xuất của nước ta tăng chậm hơn tốc độ tăng của tổng cầu (hay nói cách khác là cung thay đổi không kịp so với cầu) đã đẩy mức giá tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điều này được thể hiện trên biểu đồ đã nêu: Nếu năng lực sản xuất của nước ta tăng nhanh hơn mức tăng thực tế trong những năm qua thì đường tổng cung AS1 (tổng cung thực tế của năm 1996) chuyển dịch mạnh hơn sang bên phải tới vị trí AS3 (giả sử đó là năm 2007) thay vì vị trí AS2 (thực tế của năm 2007). Tại điểm cân bằng E3 (giao điểm AD2 cắt AS3) với mức giá P3 < P2 mức giá thực tế của nước ta năm 2007. Điều đặt ra là, nhân tố nào quyết định năng lực sản xuất của nền kinh tế? Các mô hình định lượng đều đã đưa ra kết luận, trong dài hạn, năng lực sản xuất do các yếu tố nguồn lực đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ quy định, trong đó công nghệ đóng vai trò quyết định nhất. Vận dụng lý thuyết trên rất phù hợp cho việc lý giải nền kinh tế nước ta trong thời gian qua: do công nghệ sản xuất của Việt Nam xuất phát từ trình độ thấp và rất chậm được cải thiện, hầu hết công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay ở mức trung bình và lạc hậu so với khu vực và thế giới (chỉ có khoảng 20% đạt trình độ tiên tiến) nên năng lực sản xuất của chúng ta còn rất hạn chế, đặc biệt là các ngành sản xuất cung cấp sản phẩm trung gian cho nền kinh tế. Điều này đã dẫn đến tổng cung thiếu hụt đáng kể so với tổng cầu và đã đẩy mức giá lên cao hơn hơn đáng kể so với tốc độ tăng của nền kinh tế. Như vậy, lạm phát của nước ta trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là hệ quả tích luỹ của quá tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua. Một nguyên nhân quan trọng nữa góp phần tăng tỷ lệ lạm phát, đó là dòng vốn FDI, FII ồ ạt chảy vào Việt Nam trong thời gian qua (trong 7 tháng đầu năm 2007 tương ứng là khoảng 7,5 tỷ USD, và 6,2 tỷ USD), khiến cho Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông một lượng tương ứng, khiến cho cung tiền tăng, mặt khác đối với nền kinh tế mà nền kiểm soát điều hành còn yếu, thì lượng vốn ồ ạt sẽ tăng áp lực tăng cung tiền đối với Ngân hàng nhà nước, nơi có khả năng thanh khoản lớn nhất, vì thế đây cũng chính là nguyên nhân gia tăng lạm phát. 3.2.2.2. Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này. Bảy giải pháp chủ yếu : Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Đồ thị dưới đã minh hoạ cho trường hợp này. i 0 Y IS E1 LM1 LM2 E2 Y2 Y1 Hình 3.4. CSTT thu hẹp Thông qua việc tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc của NHTM và tăng lãi suất cho vay sẽ làm cho đầu tư giảm qua đó làm giảm tổng cầu ( từ Y2 ->Y1 ) và làm giảm tỷ lệ lạm phát. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển. Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách : Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. Như vậy bằng cách giảm đi chi tiêu của mình (giảm G ), chính phủ đã tác động trực tiếp đến tổng cầu. Làm tổng cầu giảm kéo theo lạm phát giảm. Đồ thị dưới minh hoạ cho trường hợp này. 0 Y2 Y1 Y IS1 IS2 E1 LM E2 i1 i2 i Hình 3.5. CSTT thắt chặt Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá thu hẹp làm cho đường IS dịch chuyển từ IS 1 đến IS 2. Điểm cân bằng mới của nền kinh tế là E2 thay cho E1 với sự sụt giảm của thu nhập Y từ Y 1 ->Y2. Sự sụt giảm của tổng cầu này làm cho mức giá cân bằng của nền kinh tế giảm xuống. Qua đó có tác động kiềm chế lạm phát. Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm : Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6/2009, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân... Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdt_nckh_3204.doc
Tài liệu liên quan