MỞ ĐẦU. 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM VÀ PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM .9
1.1. Khái quát về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa (sản phẩm)
.9
1.1.1. Khái niệm sản phẩm .9
1.1.2. Khái niệm sản phẩm có khuyết tật.10
1.1.3. Vấn đề về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa đưa vào lưu
thông.13
1.2. Nội dung trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm . 19
1.2.1. Trách nhiệm bảo đảm an toàn.19
1.2.2. Trách nhiệm cung cấp thông tin.21
1.2.3. Trách nhiệm bảo đảm quyền lựa chọn cho người tiêu dùng.22
1.2.4. Trách nhiệm lắng nghe ý kiến của người tiêu dùng .24
1.2.5. Trách nhiệm bảo hành.25
1.2.6. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại.25
1.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật trách nhiệm sản phẩm. 26
1.3.1. Yếu tố văn hóa kinh doanh của thương nhân.26
1.3.2. Yếu tố ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.26
1.3.3. Yếu tố tự bảo vệ của người tiêu dùng.28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI TỈNH
QUẢNG NINH . 29
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm . 29
2.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm.29
2.1.1.1. Quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm sản phẩm. 29
2.1.1.2. Quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa về trách nhiệm sản
phẩm. 30
88 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật trách nhiệm sản phẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thực thi tại Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o người, động vật, thực vật, tài
sản, môi trường là 02 năm kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với
điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn
sử dụng, và 05 năm kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa không ghi hạn
sử dụng3. Các thiệt hại được yêu cầu bồi thường có thể là: (i) Thiệt hại về giá trị
hàng hóa, tài sản bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại, (ii) thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
con người, (iii) thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác hàng hóa, tài
sản và (iv) chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại4.
Có thể thấy rằng, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa ra đời đã tiếp cận gần
hơn đối với chế định trách nhiệm sản phẩm. Tuy nhiên, hạn chế của luật này ở khía
cạnh bảo vệ người tiêu dùng là cách tiếp cận từ góc độ quản lý chất lượng. Cụ thể là
2
Điều 54 Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
3
Điều 56 Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
4
Điều 60 Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
31
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa tiếp cận vấn đề từ góc độ chất lượng “mức độ
của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố
áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”5. Như vậy, không đảm bảo chất lượng
đồng nghĩa với không đáp ứng được tiêu chuẩn, quy chuẩn tương ứng. Cách tiếp
cận này chưa thực sự giúp bảo vệ người tiêu dùng một cách hiệu quả. Quy định về
thời hiệu cũng thiếu nhất quán so với Bộ luật Dân sự, do vậy khi đưa vào thực thi sẽ
gây ra những khó khăn.
2.1.1.3. Quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về trách nhiệm
sản phẩm
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời năm 2010 được đánh giá là có
nhiều bước tiến vượt bậc trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Được xây
dựng trên cơ sở Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng năm 1992, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng được trông đợi là sẽ tạo ra những thay đổi đáng kể, nhằm đảm bảo
tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng, cũng như ràng buộc nhà sản xuất chịu trách
nhiệm nhiều hơn với các sản phẩm mà họ đưa ra thị trường.
Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 có quy định: “Tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không biết hoặc không có
lỗi trong việc phát sinh khuyết tật”. Như vậy, có thể khẳng định rằng, pháp luật Việt
Nam có những điểm tiến bộ đáng kể khi quy định tương tự chế định trách nhiệm sản
phẩm nghiêm ngặt như bản Chỉ thị của Liên minh châu Âu6. So với nhiều nước trên
thế giới, việc thừa nhận nguyên tắc này được xem là một điểm tiến bộ trong pháp
luật Việt Nam. Để thực hiện nguyên tắc này, người tiêu dùng sẽ phải có nghĩa vụ
chứng minh để phù hợp quy định của pháp luật. Các Điều 25, 26, 42 Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về nghĩa vụ chứng minh của các bên.
Với ba điều luật này phát sinh nhiều điểm bất hợp lý nếu như trong thực tế áp dụng
vào các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm sản phẩm. Theo đó, khoản 2 Điều 25 có
5
Khoản 5 điều 3 luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007
6
Chỉ thị 85/374/EEC
32
quy định: “Người tiêu dùng, tổ chức xã hội có nghĩa vụ cung cấp thông tin, bằng
chứng có liên quan đến hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ”. Ngoài ra, khoản 1 Điều 26 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 có quy định: “Khi nhận được yêu cầu của người tiêu dùng, cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu
các bên giải trình, cung cấp thông tin, bằng chứng hoặc tự mình xác minh, thu thập
thông tin, bằng chứng để xử lý theo quy định của pháp luật”. Với những quy định
này, cơ quan quản lý sẽ yêu cầu bên thiệt hại cung cấp chứng cứ liên quan đến hành
vi vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Việc này đồng nghĩa
với việc nghĩa vụ chứng minh của người tiêu dùng liên quan đến cả việc chứng
minh lỗi của nhà sản xuất. Khoản 1 Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 có quy định: “Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ”. Với cách quy định này, người tiêu dùng chỉ phải chứng
minh thiệt hại, khuyết tật và mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật. Việc
chứng minh không có lỗi lại thuộc nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Ngoài ra, với khái niệm rủi ro phát triển, Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 có quy định điều khoản miễn trừ trách nhiệm và nội dung điều
luật phản ánh được tinh thần của khái niệm này. Theo quy định tại Điều 24 của Luật
này, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá và dịch vụ được miễn trừ trách nhiệm
bồi thường khi chứng minh được “khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện
được với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa cung cấp cho người tiêu dùng”. Có thể thấy được rằng, quy định này gần giống
với bản Chỉ thị số 85/374/EEC khi dựa vào trình độ khoa học kỹ thuật để đưa ra yếu
tố loại trừ trách nhiệm. Những quy định trên của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 dẫn đến những khó khăn và phức tạp trong việc áp dụng trong thực
tiễn liên quan đến sản phẩm khuyết tật.
Thứ nhất, theo quy định, cơ quan nhận chứng cứ từ người tiêu dùng có bao
gồm việc chứng minh vi phạm của tổ chức hay không? Nếu bao gồm cả việc chứng
33
minh vi phạm thì Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 không
còn ý nghĩa khi đưa ra quy định người tiêu dùng không cần chứng minh lỗi của nhà
sản xuất. Bởi lẽ, ngay từ giai đoạn đầu tiên lúc khởi kiện, người tiêu dùng đã gặp
khó khăn và trở ngại khi chứng minh vi phạm, đặc biệt là lỗi của nhà sản xuất.
Trong thực tiễn gần đây đã có rất nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng với quy trình
tố tụng như trên đã gây trở ngại rất lớn cho người tiêu dùng. Ví dụ như vụ việc nhãn
hàng C2, ngày 31/5/2016, 1184 thùng C2 tương đương với 10 tấn sản phẩm vừa bị
thu hồi bởi quyết định của Thanh tra Bộ Y tế do hàm lượng chì trong nước giải khát
này vượt quá mức cho phép. Theo các chuyên gia y tế, nếu lượng chì ngấm
1mg/ngày trong vòng 1 tháng thì bệnh bắt đầu trông thấy là “lợi” đen, thay đổi vị
giác và nguy hiểm đến tính mạng. Nếu như người tiêu dùng thông thường thì không
thể nào đủ tiềm lực để cung cấp chứng cứ về việc vi phạm của tổ chức được. Nói
cách khác, người tiêu dùng phải chứng minh việc hàm lượng chì quá mức cho phép
trong sản phẩm C2 của nhà sản xuất URC tại Hà Nội và việc này tốn rất nhiều thời
gian và tiền bạc của họ. Cho nên chưa có một tiền lệ hay một nguyên tắc nào để một
cá nhân khởi kiện trong trường hợp này và quyền lợi người tiêu dùng vẫn bị vi
phạm hằng ngày mà chưa có một cơ chế bảo vệ hữu hiệu.
Thứ hai, so sánh với pháp luật châu Âu, bản Chỉ thị số 85/374/EEC có quy
định dựa theo nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt kèm với quy định không quan
tâm đến việc nhà sản xuất có lỗi hay không. Trái lại, với pháp luật Việt Nam dường
như có sự pha trộn giữa nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt và trách nhiệm dựa
vào lỗi. Nói cách khác, theo quy định tại Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010, không quan trọng nhà sản xuất hay kinh doanh có lỗi hay không
nhưng trong Điều 42 của Luật này thì yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh phải chứng
minh mình không có lỗi. Với cách quy định như vậy rất khó khăn trong việc xem
xét chứng cứ của các bên trong vụ việc liên quan đến sản phẩm khuyết tật.
Thứ ba, khi phân tích kỹ về mặt nội dung rủi ro phát triển, điều luật này khác
với bản Chị thị số 85/374/EEC. Theo đó, việc chứng minh trình độ khoa học kỹ
thuật trong pháp luật Việt Nam phụ thuộc ý chí chủ quan của nhà sản xuất. Nếu như
bản Chỉ thị 85/374/EEC sử dụng cụm từ “được phát hiện” nhằm nhấn mạnh kiến
34
thức để nhận biết khuyết tật và không chỉ ra chủ thể nào phát hiện, thì pháp luật
Việt Nam lại hướng đến việc cá nhân, tổ chức kinh doanh sản phẩm phát hiện
khuyết tật. Nói cách khác, bản Chỉ thị này đưa ra tình trạng khách quan của khoa
học kỹ thuật khi phát hiện ra khuyết tật còn Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 hướng đến việc chứng minh mang tính chủ quan của bị đơn. Điều này
dẫn đến tình trạng nhà sản xuất sẽ dựa vào kiến thức chủ quan của mình để chứng
minh không có lỗi đối với sản phẩm có khuyết tật và quyền lợi người tiêu dùng sẽ
không được đảm bảo một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, hiệu lực thực tế của luật còn phụ thuộc khá nhiều vào các văn bản
dưới luật. Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27-10-2011 về “Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ người tiêu dùng” đã được ban
hành. Đối với hàng hóa có khuyết tật, Nghị định cũng quy định rõ khi phát hiện
hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá có trách
nhiệm kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp hàng hóa
có khuyết tật trên thị trường. Đồng thời, cá nhân, tổ chức này phải thông báo công
khai về việc thu hồi hàng hóa và tiến hành thu hồi theo nội dung đã thông báo công
khai. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không
biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp được miễn
trách nhiệm khi chứng minh được khuyết tật của hàng hoá không thể phát hiện được
với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá
cung cấp cho người tiêu dùng. Qua đó có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam
đã tiếp cận được nhiều nội dung tiến bộ, cụ thể và sát với thực tiễn hơn so với các
văn bản luật đã ban hành trước đó.
Như vậy, Bộ luật Dân sự, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng cùng với một số luật khác đã xác định trách nhiệm của
nhà cung cấp trong việc cung cấp cho người mua sản phẩm không có khiếm khuyết,
các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với người bán, người cung ứng sản phẩm
khiếm khuyết. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định chính
35
sách bảo vệ người tiêu dùng của nhà nước. Tuy nhiên, những quy định này chưa thể
tạo thành chế định trách nhiệm sản phẩm do không được xây dựng dựa trên các nền
tảng của chế định trách nhiệm sản phẩm và do tiếp cận chủ yếu từ góc độ quản lý
ngành, lĩnh vực. Các quy định hiện hành mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban đầu
đến chế định trách nhiệm sản phẩm, mà chưa thể là một công cụ pháp lý bảo vệ
người tiêu dùng. Khi áp dụng chế độ trách nhiệm sản phẩm dựa vào yếu tố lỗi của
nhà sản xuất thì quy định này gây rất nhiều khó khăn cho người tiêu dùng khi khởi
kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, khi có thiệt hại do sản phẩm khiếm
khuyết gây ra thì người tiêu dùng Việt Nam vẫn khó thực hiện quyền được khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách hiệu quả. Ngoài ra, sự tồn tại của nhiều
quy định về trách nhiệm sản phẩm như hiện nay cũng gây ra sự tản mạn, chồng
chéo và thậm chí là mâu thuẫn trong hệ thống các quy định pháp luật, khiến cho
mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng chưa thực sự hữu hiệu.
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà
sản xuất
Trong thời đại ngày nay, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng chế định trách
nhiệm sản phẩm là một giải pháp khá tối ưu, nhưng hiện nay pháp luật Việt Nam
hiện hành chưa quy định về trách nhiệm sản phẩm. Nguồn gốc trách nhiệm sản
phẩm bắt nguồn từ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không dựa trên
yếu tố lỗi. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra sau
khi phát sinh các điều kiện cần và đủ sau:
- Có tồn tại hàng hóa khuyết tật:
Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không đảm bảo an toàn cho người tiêu
dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu
dùng, kể cả trường hợp hàng hóa có được sản xuất đúng theo tiêu chuẩn hoặc quy
chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện ra được khuyết tật tại thời điểm
hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm: Hàng hóa sản xuất hàng
loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát
sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ
36
gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy
đủ cho người tiêu dùng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người
tiêu dùng là những hậu quả bất lợi về mặt vật chất mà tổ chức, cá nhân phải gánh
chịu do cung cấp hàng hóa có khuyết tật gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng, không
phụ thuộc vào tổ chức, cá nhân đó có lỗi hay không trong việc tạo ra hàng hóa
khuyết tật. Điều này phản ánh tính bảo vệ người tiêu dùng một cách toàn vẹn và
chặt chẽ cũng như đề cao tinh thần trách nhiệm trong sản xuất của doanh nghiệp.
- Có thiệt hại xảy ra đối với người tiêu dùng: Bao gồm thiệt hại cả về tài sản
và tinh thần cho người tiêu dùng.
Thiệt hại về tài sản được biểu hiện cụ thể là những mất mát về tài sản, giảm
sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sữa chữa, thay thế, những lợi ích
gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe bao gồm các chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng
bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại về tinh thần theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam đó là
những thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm hoặc những suy sụp tình
cảm, tâm lý của người tiêu dùng do ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm, hàng hóa.
Trong trường hợp hàng hóa, sản phẩm gây thiệt hại cho người tiêu dùng được
xác định là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo điều 604 Bộ luật
Dân sự, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại áp dụng cả lỗi cố ý và vô ý. Cụ thể, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại phát sinh do lỗi cố ý khi một người nhận thức rõ ràng về hành
vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn
hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Như trường hợp
người bán biết hàng hóa đã hết hạn sử dụng nhưng vẫn bán cho người tiêu dùng,
hoặc trường hợp dùng hàng hết hạn để làm từ thiện. Trong trường hợp gây thiệt hại
do lỗi vô ý là khi một người không thấy trước được hành vi của mình là có khả năng
gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước hành vi của mình có khả năng
gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
37
- Trường hợp xảy ra có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hàng hóa
khuyết tật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả từ việc người tiêu dùng sử dụng hàng hóa có khuyết
tật hay ngược lại khuyết tật của hàng hóa là nguyên nhân xảy ra thiệt hại. Trách
nhiệm sản phẩm được hiểu là người sản xuất phải chịu trách nhiệm nếu như sản
phẩm bị kém chất lượng và việc sử dụng sản phẩm kém chất lượng này trong điều
kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho người sử dụng. Trong quá trình sử
dụng, sản phẩm đã gây ra những tổn thất, thiệt hại cho người tiêu dùng, thiệt hại này
được chứng minh do chính quá trình sử dụng sản phẩm gây ra.
Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà
sản xuất.
- Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa:
Đây chính là người chế biến nguyên liệu thô và là người xuất bán sản phẩm,
chủ thể này có thể có mối liên hệ trực tiếp với người tiêu dùng hoặc không có mối
liên hệ trực tiếp. Điều kiện cần để xác định một chủ thể có thuộc diện phải chịu
trách nhiệm chỉ phụ thuộc vào việc người đó trực tiếp có mối liên hệ trực tiếp đối
với sản phẩm mà người tiêu dùng đã sử dụng hay không. Mối liên hệ trực tiếp đối
với sản phẩm có thể là một trong các hình thức sau: là người sản xuất ra sản phẩm,
người sản xuất ra sản phẩm bao gồm cả người sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh
hoặc là người sản xuất ra một phần, một bộ phận trong sản phẩm hoàn chỉnh đó.
- Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa:
Do chuỗi cung ứng hàng hóa gồm nhiều chủ thể, việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng không hề dễ dàng.
Có thể hình dung chu trình tiêu dùng được phân làm ba công đoạn: Trước khi giao
dịch; trong giao dịch và trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Vai trò của tổ
chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa trong từng công đoạn của chu trình tiêu dùng là
khác nhau và hoàn toàn có thể là đối tượng có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi có
tranh chấp phát sinh. Các chủ thể này liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do
38
hàng hóa khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng, và chỉ được loại trừ trách nhiệm
hình sự trong một số trường hợp nhất định
- Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu,
chỉ dẫn thương mại:
Việc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức,
cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng là chủ thể có liên quan tới việc chịu
trách nhiệm sản phẩm trong trường hợp người tiêu dùng phải chịu thiệt hại trong
quá trình sử dụng sản phẩm. Đây là chủ thể trung gian, nhưng cũng là chủ thể trong
chuỗi cung ứng sản phẩm đến tay người tiêu dùng, trong quá trình tiếp nhận sản
phẩm đã không hoặc cố ý không kiểm tra chất lượng sản phẩm, mà vẫn sử dụng sản
phẩm lỗi để bán ra thị trường, bởi vậy trong việc xác định trách hiệm sản phẩm
không thể bỏ qua chủ thể trung gian này.
- Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa khuyết tật cho người tiêu dùng:
Đây chính là mắt xích quan trọng, cần có những chế tài riêng để quản lý nhóm
cá nhân, tổ chức này. Bởi đây là đối tượng trực tiếp giao hàng cho người tiêu dùng,
mọi thắc mắc về sản phẩm của người tiêu dùng do chủ thể này tiếp nhận, xử lý và
làm hài lòng người tiêu dùng. Trong khi ngày càng nhiều sản phẩm cạnh tranh
nhau, việc đưa ra chế tài cụ thể cho các chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, có ý thức hơn trong việc lựa chọn sản phẩm để cung cấp cho người tiêu dùng.
Nếu quy định chặt chẽ thì khâu chuyển tải tới người tiêu dùng sẽ giảm thiểu những
lỗi trách nhiệm về sản phẩm rất nhiều.
Việc ghi nhận các chủ thể trên có thể coi là một hướng dẫn quan trọng, mở
rộng đáng kể phạm vi một bên chủ thể cung ứng hàng hóa có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác định
trách nhiệm sản phẩm, từ đó có cái nhìn sâu sát, xác định đúng trách nhiệm cho ai,
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thời kỳ số hóa, công nghiệp hóa ngày càng
nhanh và mạnh.
- Được quy định cụ thể trong văn bản luật:
39
Trước hết nói đến từ chỗ ghi nhận trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất
lượng sản phẩm hàng hóa như một loại trách nhiệm dân sự cụ thể đã phát triển
thành một chế định pháp luật được tách ra khỏi Bộ Luật dân sự để điều chỉnh trong
văn bản pháp luật chuyên ngành đó chính là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010. Có thể nhận thấy ở giai đoạn trước năm 2010, mặc dù đã có những yếu
tố nội dung nền tảng nhưng pháp luật Việt Nam vẫn chưa thực sự định hình chính
thức chế định trách nhiệm sản phẩm (chưa quy định rõ khái niệm trách nhiệm sản
phẩm, sản phẩm khuyết tật, nguyên tắc áp dụng trách nhiệm sản phẩm, thu hồi sản
phẩm có khuyết tật...). Điều này đã dẫn đến thực tế các vi phạm về trách nhiệm sản
phẩm không có đủ cơ sở để xử lý, áp đặt trách nhiệm cho các doanh nghiệp.
Một trong những nội dung đáng chú ý của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 là quy định người tiêu dùng không có nghĩa vụ phải chứng minh lỗi
sản phẩm. Cụ thể, Điều 42 của Luật quy định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân
sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nhưng việc quy định người tiêu dùng không
có nghĩa vụ chứng minh lỗi trong vụ án dân sự không có nghĩa là miễn trừ tất cả
nghĩa vụ chứng minh của người tiêu dùng. Để thực hiện việc khởi kiện, người tiêu
dùng vẫn phải chứng minh thiệt hại, cung cấp chứng cứ về thiệt hại cũng như hành
vi gây ra thiệt hại mà không cần phải chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ gây ra thiệt hại đó. Quy định này xuất phát từ vị trí yếu thế
của người tiêu dùng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm chính là khuyết tật sản phẩm
và thiệt hại đã xảy ra. Ở đây, người tiêu dùng không cần chứng minh lỗi này, mà
nghĩa vụ chứng minh mình có lỗi hay không là ở phía các nhà sản xuất, nhà cung
ứng nếu họ muốn miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc xác định căn cứ, dựa
trên đó xác định khuyết tật sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng để xác định trách
nhiệm nghiêm ngặt. Một sản phẩm bị coi là có khuyết tật khi sản phẩm đó không
đảm bảo an toàn ở mức độ mà người ta có thể trông chờ được một cách hợp lí.
- Quy định trách nhiệm bồi thường không phụ thuộc vào yếu tố lỗi:
Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015), một trong
những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái
40
pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ
ba BLDS 2015 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong
trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây thiệt
hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt
hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS 2015 đã được sửa đổi và có sự tiến bộ so
với BLDS 2005. Cụ thể, khoản 1 Điều 584 quy định: “Người nào có hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, trong BLDS 2015, căn cứ
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt
hại”. Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng yêu cầu người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc vô ý”. Với quy
định như vậy, ngoài việc chứng minh người gây thiệt hại có hành vi trái pháp luật,
người bị thiệt hại cần phải chứng minh người gây thiệt hại có lỗi. BLDS 2015 đã
quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại.
Ngoài ra, BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. BLDS 2005 quy định về các đối tượng bị xâm phạm
trong căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hướng liệt kê. Cụ thể,
khoản 1 Điều 604 quy định: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Với quy định như trên, đối với cá nhân, BLDS
2005 có phạm vi điều chỉnh rất rộng. Tuy nhiên, đối với pháp nhân, BLDS 2005
chỉ liệt kê ba đối tượng bị xâm phạm là “danh dự, uy tín, tài sản”. Quy định mới
tại khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 đã khắc phục được nhược điểm trên, theo đó,
41
đối tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
và pháp nhân bao gồm “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác”.
2.2. Thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam
2.2.1. Mức độ tuân thủ quy định về trách nhiệm sản phẩm của doanh
nghiệp hiện nay
Việt Nam đang trên con đường xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường
dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, người tiêu dùng
Việt Nam vẫn chưa thực sự được hưởng những lợi ích từ nền kinh tế thị trường,
quyền lợi vẫn bị xâm phạm, chất lượng cuộc sống cũng chưa được nâng lên một
cách rõ rệt. Có thể dễ dàng nhận thấy so với nhiều quốc gia trong khu vực, hầu hết
các mặt hàng tiêu dùng, hàng điện tử, máy móc, thiết bị... trên thị trường Việt
Nam đều có chất lượng thấp hơn, hiện tượng này xuất hiện cả với hàng hóa sản
xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Các sản phẩm sản xuất trong nước
"Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" (trước đây khẩu hiệu này là
"Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam"), nếu thực hiện đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_trach_nhiem_san_pham_va_nhung_van_de_dat.pdf