Luận văn Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI

VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH

MẠNH

5

1.1. Khái niệm pháp lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh 5

1.1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của

pháp luật Việt Nam

6

1.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của

pháp luật một số nước trên thế giới

13

1.2. Nguồn của pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh

17

1.2.1. Pháp luật tố tụng cạnh tranh của Việt Nam 17

1.2.2. Pháp luật tố tụng cạnh tranh một số nước trên thế giới 19

1.3. Tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh

22

1.3.1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh

không lành mạnh

22

1.3.2. Các nguyên tắc tố tụng cạnh tranh 22

1.3.3. Thành phần tham gia tố tụng cạnh tranh 24

pdf102 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh" [28]. Như vậy, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009 xác định thẩm quyền giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ chỉ do Cơ quan quản lý cạnh tranh giải quyết, nhưng Luật Cạnh tranh lại xác định bên cạnh Cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan khác theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính cũng có thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Việc quy định không thống nhất giữa hai đạo luật sẽ tạo ra sự không đồng bộ khi áp dụng pháp luật, nếu áp dụng theo Luật Sở hữu trí tuệ sẽ loại bỏ luật áp dụng và thẩm quyền của cơ quan giải quyết vi phạm quyền sở hữu trí tuệ khác khi xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên, việc giải quyết này nếu được áp dụng theo Luật Cạnh tranh năm 2004 sẽ tạo ra sự kết hợp trong việc áp dụng pháp luật cạnh tranh và pháp luật xử lý vi phạm hành chính về sở hữu trí tuệ, giữa cơ quan cạnh tranh và cơ quan chuyên môn về giải quyết vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong việc giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ. 2.1.3. Cơ quan quản lý cạnh tranh Cơ quan quản lý cạnh tranh là xương sống, đảm bảo cho việc thi hành pháp luật cạnh tranh. Tùy thuộc vào điều kiện chính trị - xã hội, mỗi quốc gia xây dựng một mô hình thiết chế thực thi pháp luật cạnh tranh phù hợp, hiệu quả. Mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của Hungary, Văn phòng cạnh tranh kinh tế - cơ quan trực thuộc Quốc hội. Văn phòng cạnh tranh có các 53 chức năng và nhiệm vụ sau: Giám sát cạnh tranh kinh tế; Giám sát các văn bản hành chính có liên quan đến quyền tự do cạnh tranh kinh tế; bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Văn phòng cạnh tranh kinh tế có Cơ quan điều tra và Hội đồng cạnh tranh là bộ phận tài phán. Cơ quan điều tra với 07 phòng chuyên trách theo các lĩnh vực kinh tế, ngoài chức năng điều tra, rà soát thị trường còn có nhiệm vụ kiểm tra việc thi hành các quyết định của Hội đồng cạnh tranh. Như vậy, chức năng của Văn phòng cạnh tranh kinh tế có phần mở rộng hơn Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam. Đặc biệt, trong cơ cấu của mình, Văn phòng cạnh tranh kinh tế đã có sự phân chia rạch ròi giữa chức năng điều tra và chức năng xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Mô hình cơ quan cạnh tranh của Đài Loan, Ủy ban Thương mại lành mạnh - cơ quan trực thuộc Chính phủ. Trên cơ sở Luật thương mại lành mạnh của Đài Loan năm 1991, sửa đổi năm 1999, năm 2000 và năm 2002, ngày 27/01/1992, Ủy ban Thương mại lành mạnh - cơ quan ngang Bộ, được thành lập để thực thi Luật với nhiệm vụ: Xác định và rà soát các vấn đề liên quan đến Luật Thương mại lành mạnh; Điều tra các hoạt động của doanh nghiệp và các điều kiện kinh tế; Điều tra và xử lý các vụ việc vi phạm luật; Giám sát các vấn đề khác liên quan đến cạnh tranh. Ủy ban Thương mại lành mạnh gồm 09 Ủy viên chuyên trách trong đó có 01 Ủy viên giữ chức vụ Chủ tịch. Các Ủy viên giữ chức vụ theo nhiệm kỳ 03 năm, hoạt động theo chế độ tập thể nhằm đưa ra những phán quyết cá biệt, cuối cùng của Ủy ban. Ủy ban có bộ máy giúp việc gồm: Vụ 1, Vụ 2, Vụ 3, Vụ Kế hoạch, Vụ Pháp chế và Văn phòng. Vụ 1, Vụ 2, Vụ 3 chịu trách nhiệm điều tra các vụ việc cạnh tranh trong các mảng đã được phân công. Vụ Kế hoạch chuẩn bị và xây dựng các chính sách thương mại lành mạnh; in các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại lành mạnh; tiến hành nghiên cứu, phát triển và kiểm soát những vấn đề liên quan đến thương mại lành mạnh. Vụ Pháp chế 54 chịu trách nhiệm chuẩn bị và xây dựng những quy tắc và quy định, những sửa đổi về thương mại lành mạnh; giải thích luật và các quy định liên quan đến thương mại lành mạnh; nghiên cứu hệ thống pháp luật liên quan đến thương mại lành mạnh; thực hiện các chế tài; giải quyết việc dẫn độ tội pham để truy tố. Ủy ban Thương mại lành mạnh có chức năng xây dựng, hoàn thiện Luật và quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong cơ cấu tổ chức hoạt động của mình được phân định theo chiều dọc và chiều ngang. Xét về mặt pháp lý, Ủy ban Thương mại lành mạnh được phân chia thành 03 cơ quan với chức năng rất rõ ràng: Lập pháp (Vụ Pháp chế), hành pháp và tư pháp gồm cơ quan điều tra (Vụ 1, 2, 3) và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh gồm 09 thành viên theo nhiệm kỳ và hoạt động theo chế độ tập thể. Xét về mặt kinh tế, Ủy ban Thương mại lành mạnh đã có sự phân chia tạo nên tính chuyên nghiệp và chuyên sâu đối với từng điều tra viên với từng hành vi trong từng lĩnh vực kinh tế nhất định, các Vụ được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong từng lĩnh vực kinh tế nhất định. Mô hình Cơ quan thực thi Luật cạnh tranh của Hàn Quốc, Ủy ban Thương mại lành mạnh (KFTC) - Cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. KFTC với các chức năng: Thúc đẩy cạnh tranh; Nâng cao quyền của người tiêu dùng; Xây dựng môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Hạn chế tập trung quyền lợi kinh tế. Không chỉ giữ vai trò thực thi Luật Cạnh tranh, Ủy ban Thương mại lành mạnh mang chức năng, nhiệm vụ hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật cạnh tranh. Để đảm nhận và thực hiện vai trò này một cách khoa học và hiệu quả, Ủy ban cạnh tranh lành mạnh được phân chia thành hai bộ phận rõ 55 rệt, Ban Thư ký nghiên cứu, điều tra và soạn thảo, thực thi Quyết định và Ủy ban có thẩm quyền quyết định. Ủy ban được phân chia thành các Cục và Vụ theo các lĩnh vực kinh tế: Vụ kế hoạch và quản trị, Cục chống độc quyền, Cục Bảo vệ người tiêu dùng, Luật sư trưởng, Cục cạnh tranh, Cục Hợp đồng thầu phụ, Cục chính sách cạnh tranh và Cục điều tra, nhằm tạo tính chuyên sâu đảm bảo sự chính xác trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh; quá trình điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh cụ thể. Ban Thư ký đứng đầu là Tổng thư ký, gồm các Cục và các Phòng khu vực phân theo địa giới hành chính (Busan, Gwangju, Daejeon, Daegu). Ban Thư ký trực tiếp soạn thảo và xây dựng các chính sách cạnh tranh, điều tra các vấn đề về chống độc quyền trình lên Ủy ban, đồng thời thực thi các vấn đề này theo Quyết định của Ủy ban. Ủy ban có thẩm quyền quyết định của KFTC gồm 09 thành viên: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, 03 Ủy viên thường trực và 04 Ủy viên không thường trực (gồm các Luật gia và nhà kinh tế) do Tổng thống bổ nhiệm có nhiệm kỳ 03 năm. KFTC chịu trách nhiệm nghiên cứu, quyết định các về vấn đề cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. 2.1.4. Vấn đề tranh tụng Đặc thù của tố tụng là những người tham gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng cùng nhau lập lại bức tranh toàn cảnh về vụ việc một cách trung thực, khách quan, toàn diện. Vì vậy, việc xác định sự thật khách quan của vụ việc về bản chất là một quá trình nhận thức và tư duy của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng thông qua việc xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết khác nhau của vụ việc căn cứ các quy định của pháp luật tố tụng. Để có thể tìm ra chân lý, xác định sự thật khách quan của vụ việc thì các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng phải được phát huy tính chủ động, tích cực trong việc cung cấp, thu thập, 56 nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết liên quan một cách chính xác, khách quan, đầy đủ; đưa ra các lý lẽ, các quan điểm khác nhau, viện dẫn các quy định pháp lý để giải quyết vụ việc. Tất cả các hành vi như cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và đối chất giữa các bên trong quá trình tố tụng đều có thể hiểu là quá trình tranh tụng. Tố tụng tranh tụng được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi Thủ tục hỏi đáp liên tục. Cùng với lịch sử pháp lý, tố tụng tranh tụng liên tục được kế thừa, phát triển, từng bước được khẳng định và đến nay được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay chưa có khái niệm rõ ràng về tranh tụng, về lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, tranh tụng là vấn đề luôn được hướng đến. Nghị quyết số 08/NQ/TƯ ngày 02/01/2005 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh định hướng trong hoạt động của cơ quan tư pháp: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định [6]. Tranh tụng trong tố tụng thể hiện tính dân chủ, nhân đạo, bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Thông qua quá trình tranh tụng, cơ quan tài phán hiểu rõ yêu cầu của đương sự, có được các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách quan của sự việc. Trên cơ sở tranh tụng, các đương sự được bình đẳng thực hiện đầy đủ các quyền trong tố tụng, bảo vệ quyền và lợi 57 ích hợp pháp của mình. Theo đó, tranh tụng trong tố tụng là một trong những bảo đảm để đảm bảo một nền công lý trong sạch, trung thực và công bằng. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Luật Cạnh tranh năm 2004 không đề cập đến vấn đề tranh tụng trực tiếp qua phiên điều trần như đối với hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, quyền tranh tụng của các bên được thể hiện một cách khá rõ nét. Bên bị điều tra không mang đúng nghĩa như trong luật hình sự, trong biên bản điều tra tại phần điều tra chính thức, nội dung khiếu nại, yêu cầu của bên bị điều tra được coi như một nội dung bắt buộc. Điều đó xuất phát từ bản chất pháp luật tố tụng cạnh tranh là sự kết hợp giữa tố tụng dân sự và tố tụng hành chính; quan hệ trong vụ việc cạnh tranh là quan hệ dân sự nhưng được điều chỉnh bởi một thiết chế hành chính. Thông qua việc lắng nghe ý kiến của bên bị điều tra, điều tra viên sẽ có thêm thông tin về vụ việc, đôi khi là thông tin phản biện lại các thông tin mà bên khiếu nại đã cung cấp, nhằm hoàn thiện cách đánh giá đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Vụ việc được xem xét một cách toàn diện, không chỉ xoay quanh tư duy của điều tra viên mà bằng những chứng cứ. Cũng qua đó, điều tra viên nâng cao trình độ chuyên môn về lĩnh vực mà mình tham gia. 2.1.5. Chứng cứ Chứng cứ là yếu tố cần, cốt yếu và căn cứ để giải quyết và xử lý vụ việc cạnh tranh. Chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn: Do các bên cung cấp; do điều tra viên thu thập trong quá trình điều tra vụ việc,... Chứng cứ có hai đặc tính: Có thật và là căn cứ để xác định có hay không hành vi vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Chứng cứ có thể là: Vật chứng, lời khai, tài liệu, kết luận giám định, tồn tại dưới dạng vật chất. 58 Khái niệm chứng cứ là khái niệm được đề cập đến trong hai Bộ luật tố tụng lớn: Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự; là khái niệm luôn được quan tâm và đến thời điểm này còn nhiều tranh luận. Theo dòng lịch sử, khái niệm chứng cứ được đề cập đến cùng với tố tụng mang những sắc thái khác nhau. Trong thời kỳ lịch sử cổ đại (phản ánh đậm nét ở Luật tố tụng La Mã) - thời kỳ của tố tụng buộc tội, khái niệm chứng cứ không được ghi nhận trong luật mà chỉ tồn tại trong niềm tin vào thần linh và quan điểm tôn giáo, chứng cứ là niềm tin của quan tòa vào tính đúng đắn hoặc hợp lý của một người nào đó tham gia cuộc tranh luận. Thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XVI, dưới ảnh hưởng của Tòa án Thiên chúa giáo, tố tụng thẩm vấn được hình thành và phát triển, chứng cứ được hiểu là phương tiện để chứng minh cho sự tố cáo nhằm duy trì sự tố cáo do cơ quan tố cáo đệ trình. XEU hiện đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại sau đó du nhập vào La Mã, tố tụng tranh tụng với tên gọi thủ tục hỏi đáp liên tục coi trọng tranh luận bằng lời nói công khai, trực tiếp tại tòa, theo đó, chứng cứ được hiểu là phương thức một bên chứng minh trước tòa là mình đúng, sức mạnh của chứng cứ trong trường hợp này phụ thuộc chủ yếu vào tính thuyết phục của lời nói trước tòa và đôi khi không hẳn phụ thuộc vào sự thật tồn tại. Ngày nay, trong hệ thống luật Anh - Mỹ, nơi tố tụng tranh tụng là hình thức tố tụng xét xử đặc thù, chứng cứ được hiểu là tất cả những gì được sử dụng trong việc chứng minh sự thật hoặc bác bỏ một vấn đề. Chứng cứ miệng được coi trọng hơn chứng cứ viết và được kiểm chứng qua kiểm tra, đối chất. Theo Luật Chứng cứ của Úc, chứng cứ được hiểu là những gì được dùng để chứng minh sự tồn tại của một tình tiết thực tế nào đó trong các vụ án; các sự kiện, tài liệu được sử dụng làm chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo trình tự, thủ tục và những nguyên tắc nhất định theo quy định của Luật Chứng cứ. Luật Chứng cứ Liên bang Mỹ đề cập đến khái niệm chứng cứ liên quan: "Chứng cứ liên quan là chứng cứ hàm chứa trong nó sự tồn tại của 59 bất cứ một sự kiện nào là nguyên nhân nhân quả dẫn đến việc xác định rõ hơn hoặc ít rõ hơn một hành động đã xảy ra so với trường hợp không có chứng cứ". Luật Tố tụng Pháp, nơi tố tụng xét hỏi là hình thức tố tụng đặc thù, khái niệm chứng cứ không được quy định thành một điều luật cụ thể mà căn cứ vào mỗi giai đoạn tố tụng, chứng cứ được quy định gồm 05 loại: Sự thừa nhận; việc làm chứng (được thu thập bởi cuộc điều tra hoặc lấy lời khai); chứng cứ viết (các tài liệu giấy tờ tạo nên một cấu thành tội phạm cụ thể, các biên bản do cảnh sát thiết lập thông qua giai đoạn điều tra ban đầu, các thư từ cá nhân, chứng cứ về hợp đồng); kết luận giám định (việc sử dụng các kiến thức kỹ thuật của chuyên gia để kết luận một vấn đề trong quá trình chứng minh); suy đoán và các dấu vết. Bộ luật Tố tụng Liên bang Nga, chứng cứ là lời khai, vật chứng, biên bản các hoạt động điều tra và xét xử, những tài liệu khác mà Tòa án, kiểm sát viên, dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu căn cứ vào đó theo thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định để xác định có hay không có những tình tiết phải chứng minh trong quá trình tố tụng đối với vụ án, cũng như các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, dù thể hiện dưới hình thức nào, xây dựng một đạo luật riêng về chứng cứ (Mỹ, Úc); hoặc đưa khái niệm chứng cứ vào Bộ luật Hình sự (Nga, Trung Quốc); hay chỉ quy định những quy phạm xác minh chứng cứ, chứng cứ được xác định là mọi sự thật chứng minh tính chân lý của vụ án, vụ việc. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm chứng cứ được trình bày dưới dạng thức khái niệm và nguồn của chứng cứ. Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 48 quy định: Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ Luật hình sự quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [24]. 60 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 81 quy định: Chứng cứ tro

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_to_tung_canh_tranh_doi_voi_cac_hanh_vi.pdf
Tài liệu liên quan