Luận văn Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình tư vấn, phản biện chính sách khoa học và công nghệ (nghiên cứu hệ thống liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam)

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

PHẦN MỞ ĐẦU.1

1. Lý do nghiên cứu:.1

2. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu:.1

3. Mục tiêu nghiên cứu.3

4. Phạm vi nghiên cứu:.3

5. Mẫu khảo sát: .3

6. Câu hỏi nghiên cứu: .4

7. Giả thuyết nghiên cứu:.4

8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết:.4

9. Nội dung nghiên cứu: .4

10. Kết cấu luận văn: .4

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI

DÂN SỰ TRONG QUÁ TRÌNH TƢ VẤN, PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.6

1.1. Xã hội dân sự.6

1.1.1. Khái niệm xã hội dân sự .6

1.1.2. Khái niệm tổ chức xã hội dân sự.9

1.1.3. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự.11

1.1.4. Tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.13

1.1.5. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc hoàn thiện chínhsách. . .14

1.2. Tƣ vấn, phản biện.16

1.2.1. Khái niệm tư vấn, phản biện.16

1.2.2. Tính chất, mục đích của hoạt động tư vấn, phản biện.16

1.2.3. Vai trò của tư vấn, phản biện trong việc hoạch định chính sách .171.3. Chính sách khoa học và công nghệ .18

1.3.1. Khái niệm chính sách.18

1.3.2. Khái niệm khoa học và công nghệ .18

1.3.3. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển xã hội .21

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH TƢ VẤN,

PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC TỔ

CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRỰC THUỘC LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA

HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM .24

2.1. Vài nét về Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam .24

2.2. Tổng quan về các tổ chức xã hội dân sự trực thuộc Liên hiệp các Hội

Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam .25

2.2.1. Bản chất và sự phát triển .25

2.2.2. Lĩnh vực hoạt động .27

2.2.3. Cơ sở vật chất .28

2.2.4. Nhân lực của các tổ chức XHDS.29

2.3. Hoạt động tƣ vấn, phản biện chính sách khoa học và công nghệ của các

tổ chức xã hội dân sự trực thuộc Liên hiệp Hội Việt Nam .32

2.3.1. Nhận thức .32

2.3.2. Lý do tham gia hoạt động tư vấn, phản biện chính sách khoa học và

công nghệ.33

2.3.3. Những lĩnh vực tham gia tư vấn, phản biện.34

2.3.4. Loại hình chính sách tham gia tư vấn, phản biện.35

2.3.5. Phương thức thực hiện .36

2.3.6. Khả năng phối hợp với các cơ quan nhà nước.37

2.3.7. Khả năng phối hợp với các tổ chức ngoài nhà nước.40

2.3.8. Khả năng phối hợp, tiếp cận thông tin và truyền tải thông điệp đến các

cơ quan có thẩm quyền .44

2.3.9. Năng lực huy động nguồn lực tài chính .47

2.3.10. Công tác truyền thông.54CHƢƠNG 3. ĐÁNH GIA VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ

TRỰC THUỘC LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TƢ

VẤN, PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .58

3.1. Khung đánh giá và những kết quả đánh giá từ cơ quan lập chính sách .58

3.1.1. Quy trình xây dựng chính sách .58

3.1.2. Khung đánh giá vai trò các tổ chức XHDS theo quy trình xây dựng

chính sách.59

3.1.3. Đánh giá kết quả đóng góp của các tổ chức XHDS trực thuộc LHHVN

trong TV,PB chính sách KH&CN .61

3.2. Những khó khăn cần tháo gỡ.69

3.2.1. Môi trường thể chế, pháp lý .69

3.2.2. Năng lực hạn chế .71

3.2.3. Công tác truyền thông.73

3.3. Các giải pháp huy động sự đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự trong

quá trình tƣ vấn, phản biện chính sách khoa học và công nghệ .74

3.3.1. Giải pháp về phía nhà nước.74

3.3.2. Giải pháp về phía Liên hiệp Hội Việt Nam .79

3.3.3. Giải pháp về phía các tổ chức xã hội dân sự .80

3.3.4. Giải pháp truyền thông .82

KẾT LUẬN .83

pdf34 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 605 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình tư vấn, phản biện chính sách khoa học và công nghệ (nghiên cứu hệ thống liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m gia vào quá trình TV,PB chính sách KH&CN của các tổ chức XHDS tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các tổ chức thuộc Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam. - Phạm vi thời gian: nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 về hoạt động TV,PB của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam đến nay. 5. Mẫu khảo sát: Các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN. 4 6. Câu hỏi nghiên cứu: Các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam (chủ yếu là các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN) hiện nay tham gia vào quá trình tư vấn, phản biện chính sách KH&CN như thế nào? Vai trò thực chất của các tổ chức này? 7. Giả thuyết nghiên cứu: Các tổ chức XHDS ở Việt Nam hiện nay tham gia vào quá trình TV,PB chính sách KH&CN còn thụ động và hạn chế cả về số lượng và chất lượng, đồng thời còn gặp những khó khăn, bất cập từ hệ thống chính sách. 8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết: - Nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu nêu tại Danh mục tài liệu tham khảo của luận văn này. - Điều tra bằng Phiếu khảo sát vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong quá trình tư vấn, phản biện chính sách khoa học và công nghệ; phát ra 100 phiếu, thu về 100 phiếu. 9. Nội dung nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào một số nội dung sau: - Vai trò của các tổ chức XHDS trong quá trình TV,PB chính sách KH&CN. - Thực trạng tham gia vào quá trình TV,PB chính sách KH&CN của các tổ chức XHDS tại Việt Nam (nghiên cứu các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam). Những khó khăn, hạn chế từ bản thân các tổ chức này và những bất cập từ hệ thống chính sách. - Các giải pháp huy động sự đóng góp của các tổ chức XHDS thuộc LHHVN trong quá trình TV,PB chính sách KH&CN. 10. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn có kết cấu như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận của việc phân tích, đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình tư vấn, phản biện chính sách KH&CN 5 Chương 2. Thực trạng tham gia vào quá trình tư vấn, phản biện chính sách KH&CN của các tổ chức KH&CN tại Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Chương 3. Phân tích, đánh giá vai trò và đề xuất giải pháp thúc đẩy các tổ chức xã hội dân sự thuộc LBHVN trong quá trình tư vấn, phản biện chính sách KH&CN 6 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG QUÁ TRÌNH TƢ VẤN, PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 1.1. Xã hội dân sự 1.1.1. Khái niệm xã hội dân sự Xã hội dân sự là thuật ngữ được xem xét và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trong lịch sử tư tưởng, chính trị, pháp lý thế giới, và hiện nay nó được tiếp cận dưới những góc độ và bình diện rất khác nhau (kể cả trên thế giới và ở Việt Nam). Xét nội hàm cơ bản của thuật ngữ, XHDS ở phương Tây có nguồn gốc từ đời sống xã hội ở Hy Lạp cổ đại: các polis Hy Lạp cổ và các đô thị La Mã cổ với những “công dân tự do” xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử. Thuật ngữ XHDS, theo tiếng Hy Lạp là koinonia politiké (tiếng Pháp: société civile, tiếng Anh: civil society và trong tiếng Nga: grazhdanskoe obchtsestvo, có khi nó được dịch thành xã hội công dân để nhấn mạnh đến vị trí của các công dân trong xã hội). Khái niệm XHDS xuất hiện khá sớm ở châu Âu. Các định nghĩa phổ biến về XHDS hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc tập hợp thành các nhóm, hội, câu lạc bộ,... nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình. Khái niệm XHDS xuất hiện sớm nhất ở nước Anh (1594), nó được hiểu là những con người sống trong cộng đồng. Sau đó, khái niệm này được tiếp cận dưới hai góc độ khác nhau. Trong lý thuyết của các nhà triết học Scottish (thế kỷ XVIII), XHDS có nghĩa là xã hội văn minh với một Nhà nước không độc đoán. Hegel mô tả XHDS như là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba yếu tố: gia đình, xã hội dân sự và Nhà nước. Ông thừa nhận rằng, một XHDS tự tổ chức cần phải do Nhà nước cân nhắc và đặt trật tự cho nó, nếu không xã hội đó sẽ trở thành tư lợi và không đóng góp gì cho lợi ích chung.1 1 Lê Thị Hồng Dự, Phát triển các tổ chức xã hội dân sự xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An, website: nghia-dan-tinh-nghe-an.htm, cập nhật ngày 18/4/2013 7 K.Marx đã bàn nhiều về XHDS trong các tác phẩm đầu tay về Hệ tư tưởng Đức và vấn đề Do Thái. Cũng như Hegel, ông coi XHDS là một hiện tượng lịch sử, là kết quả của sự phát triển lịch sử mà không phải là “vật ban tặng” của tự nhiên và coi XHDS có tính chất tạm thời. Sự khác nhau cơ bản giữa Marx và Hegel là điểm xuất phát khi phân tích về bản chất của XHDS và nhà nước, về những quan hệ giữa XHDS với nhà nước. Trong khi Hegel lấy “tinh thần phổ biến” và “ý niệm tuyệt đối” làm điểm xuất phát thì Marx lấy đời sống hiện thực, trước hết là phương thức sản xuất của xã hội, làm điểm xuất phát. Ông cho rằng chỉ khi nào sức mạnh con người được tổ chức thành sức mạnh xã hội và chính trị, khi đó sự giải phóng con người mới hoàn thành. Ở Việt Nam, cùng với các khái niệm như dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, v.v., khái niệm Xã hội dân sự được du nhập từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong xu thế giao lưu với văn hoá phương tây. Song vì nhiều nguyên nhân khác nhau, khái niệm này chỉ được nghiên cứu và vận dụng một cách phổ biến từ sau đổi mới. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VI) năm 1986 khẳng định: “Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”. Chủ trương này của Đảng đã được triển khai trong thực tế, trước hết là về phương diện nghiên cứu lý luận. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều chuyên khảo, bài viết đã đề cập đến vấn đề XHDS. Và thực tế những năm gần đây ở Việt Nam, các tổ chức chính trị- xã hội và đoàn thể xã hội, hội nghề nghiệp, v.v. đã được thành lập, có hình thức và chức năng tương ứng phần nào như các tổ chức thuộc XHDS ở phương Tây. Nguyễn Như Phát trong bài Xã hội dân sự và xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, cho rằng, “khái niệm xã hội dân sự được xem xét trên hai bình diện, bình diện về một khu vực, một môi trường xã hội được thiết kế và vận hành không có yếu tố nhà nước đó là khu vực dân sự (nhằm để phân biệt với khu vực quân 8 sự, tức là khu vực có sự can thiệp của nhà nước)ở bình diện thứ hai, khái niệm dân sự (civil) được hiểu là khái niệm văn minh”2. Theo logic đó thì không phải tất cả những tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nước đều là văn minh, cho nên đều không được nhìn nhận như một thành tố của XHDS. Theo Nguyễn Như Phát, “XHDS được coi là một trong hai yếu tố của quản trị hiện đại”, một yếu tố thuộc về bộ ba cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), một yếu tố thuộc về các tổ chức do dân thiết lập mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Tác giả Phạm Thái Việt cho rằng “một xã hội được gọi là XHDS khi tất cả công dân có khả năng thể hiện công khai thái độ của mình đối với các hoạt động nào đó của các chính quyền, có thể phản đối các quyết định nào đó của các cơ quan nhà nước”.3 Trong phạm vi đề tài này, tác giả sử dụng khái niệm: “XHDS là diễn đàn nằm ngoài khu vực gia đình, nhà nước và thị trường, tại đó mọi người tự nguyện liên kết (bắt tay) với nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”. Theo mô hình quan hệ mà Liên minh Thế giới vì Sự tham gia của Công dân (CVICUS) đưa ra trong dự án Đánh giá ban đầu về XHDS tại Việt Nam (2005)4 thì XHDS là một bộ phận của xã hội đang tồn tại, là một không gian độc lập không thuộc nhà nước, không thuộc gia đình, nhưng không hoàn toàn phân biệt rạch ròi mà giữa chúng có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Các chủ thể xã hội khác đang nói tới ở đây là Nhà nước, Thị trường và Gia đình. Nhà nước là chủ thể có vai trò quan trọng, dẫn dắt và đảm bảo cho sự ổn định của phát triển kinh tế và để hạn chế những xung đột, mâu thuẫn cần có sự tham gia của khu vực dân sự. Cần phải xem XHDS là đối tác bình đẳng mang tính hỗ trợ Nhà nước mà không phải là “cánh tay nối dài” của nhà nước. Thị trường là một chủ thể quan trọng khác của xã hội bên cạnh Nhà nước, được hiện hữu bởi các tổ chức là doanh nghiệp thuộc mọi loại hình khác nhau. Song hành với thị trường cũng cần 2 Nguyễn Như Phát, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,. Xã hội dân sự và xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, tr.152. 3 Phạm Thái Việt (2008), Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác động của toàn cầu hoá, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 176 4 Irene Norlund, Đặng Ngọc Dinh và các cộng sự (2005-2006), Đánh giá nhanh Xã hội dân sự ở Việt Nam, dự án nghiên cứu được hỗ trợ bởi UNDP Việt Nam.. 9 có một không gian với nhiệm vụ giúp cân bằng các ưu và nhược điểm của thị trường để đảm bảo có những tác động hài hòa đối với xã hội. Gia đình là một yếu tố thuộc phạm trù truyền thống và văn hóa của xã hội. Cùng với họ hàng - làng xã, gia đình là một nhân tố hình thành nên các mạng lưới xã hội và vốn xã hội. Do đó, gia đình có thể xem như là một nguồn gốc sâu xa của sự hình thành các tổ chức XHDS. Nhà nƣớc Gia đình Thị trƣờng XHDS Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ của Xã hội dân sự với các chủ thể xã hội khác (Nguồn. XHDS - Những vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt Nam. Viện nghiên cứu Quản lí kinh tế Trung ương, Tháng 11/2008) 1.1.2. Khái niệm tổ chức xã hội dân sự Cách hiểu đơn giản nhất là “tổ chức là một nhóm người làm việc chung với nhau”. Hiểu rộng hơn thì “tổ chức là nhiều người tập hợp thành một nhóm, ban, hội, đoàn nhằm mục đích điều hành hay quản lý một công việc nào đó”.5 Theo Liên minh Thế giới vì sự tham gia của Công dân (CIVICUS), XHDS là diễn đàn nằm ngoài gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. Theo đó, muốn cải thiện tính hiệu quả của Nhà nước cần phải dựa vào sức mạnh tương đối của thị trường và các tổ chức XHDS, các tổ chức XHDS có thể vừa là cộng sự vừa là đối thủ cạnh tranh trong việc cung 5 Đinh Thảo Linh, Định nghĩa một tổ chức xã hội dân sự , đăng ngày 22/02/2012, website https://groups.google.com/forum/#!msg/sam-saturday-morning/Mks3SOpCA3Y/JEECj1-UWzwJ 10 ứng các dịch vụ công cộng; các tổ chức này có thể gây áp lực có ích đối với chính quyền để cải thiện việc cung cấp và chất lượng các dịch vụ công cộng.6 Do bối cảnh lịch sử và các mối quan hệ nhà nước – xã hội khác nhau, có những cách tiếp cận và quan điểm lý luận khác nhau về các tổ chức xã hội. Theo TS. Irenne Norluand 7 , có ba cách tiếp cận đối với các tổ chức xã hội là: Thuyết tân tự do cho rằng các tổ chức xã hội tồn tại một cách độc lập, thuộc “khu vực thứ ba”, “khu vực tự nguyện”, ở đó các công dân tự tổ chức thành nhóm và giải quyết các vấn đề phát sinh thông qua đối thoại “dân sự” và biện pháp phi bạo lực. Vai trò của các tổ chức này là kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Theo mô hình Xã hội tốt lành (Good Society), các tổ chức XHDS là một bộ phận cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, thị trường và gia đình mà nằm ở khu vực giao nhau của ba bộ phận này; ranh giới của nó cũng không rạch ròi, luôn có sự tương tác giữa nhà nước, thị trường và các tổ chức XHDS nhằm đem lại sự đồng thuận tốt lành cho mọi người. Mô hình Hậu hiện đại (Postmodern) xem các tổ chức xã hội thuộc khu vực thứ ba và đề cao vai trò chia sẻ, thông cảm và liên kết, hợp tác giữa các bên tham gia đối thoại, thảo luận. Từ góc độ phạm vi, theo Linz và Stepan, các tổ chức XHDS thuộc lĩnh vực trung gian nằm giữa khu vực tư nhân và nhà nước, hay còn gọi là khu vực thứ ba. Từ góc độ chức năng, Anirudh Krishna xác định các tổ chức XHDS thực hiện các chức năng ở ba cấp độ khác nhau là: 1) thể hiện những lợi ích và nhu cầu của công dân; 2) bảo vệ quyền của công dân; 3) cung cấp hàng hóa và dịch vụ trực tiếp không dựa vào các cơ quan nhà nước. 8 Từ góc độ mạng lưới, Andrew WellsDang đưa ra khái niệm mạng lưới XHDS để nhấn mạnh rằng, nó là sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức XHDS – các nhóm 6 TS. Thang Văn Phúc, PGS.TS. Nguyễn Minh Phương (2010), Vai trò của các tổ chức xã hội: Đối với phát triển và quản lý xã hội., Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7 Viện những vấn đề phát triển (VIDS) (2005), Báo cáo nghiên cứu Dự án Đánh giá nhanh các chỉ số xã hội dân sự ở Việt Nam. 8 Lê Thị Thanh Hương (chủ biên) (2009), Xã hội dân sự ở Malaixia và Thái Lan, Nxb Khoa học xã hội. 11 phi chính thức và các cá nhân hoạt động xã hội với nhau, mà không chỉ là sự cấu thành của các tổ chức phi chính phủ đơn lẻ. 9 Tóm lại, từ góc độ tích cực, tổ chức XHDS có thể hiểu là sự tập hợp tự nguyện của bất kể từ một số cá nhân hoặc một số nhóm, liên kết với nhau để tạo ra những ảnh hưởng với mục đích thúc đẩy sự thay đổi tích cực, làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, trong một số hãn hữu trường hợp, các tổ chức XHDS có thể bị lợi dụng theo hướng hoạt động tiêu cực, như phá hoại, gây rối trật tự xã hội. Do giới hạn về nội dung, luận văn này không quan tâm nghiên cứu các khía cạnh tiêu cực này của XHDS. 1.1.3. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự Có rất nhiều cách phân biệt các loại hình tổ chức XHDS, tuy nhiên, tác giả chọn cách phân biệt loại hình tổ chức của tác giả Phạm Bích San10 và tài liệu nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB năm 2009 về tổ chức XHDS. Tác giả Phạm Bích San cho rằng các loại tổ chức XHDS (hoặc gọi chung là các tổ chức xã hội) ở Việt Nam gồm ba dạng: Các tổ chức được nhà nước tài trợ hoàn toàn như Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân, Cựu chiến binh; Các tổ chức được nhà nước tài trợ một phần như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Hội Nhà báo; và Các tổ chức xã hội dân sự như các tổ chức phi chính phủ (ngoài công lập), các quỹ tự trang trải, các tổ chức cộng đồng. Theo tài liệu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB năm 201111, tổ chức XHDS được chia thành 9 loại như sau: - Các tổ chức phi chính phủ (NGO): là các tổ chức chuyên môn, trung gian và phi lợi nhuận cung cấp hoặc hỗ trợ việc cung cấp các dịch vụ liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, nhân quyền, phúc lợi công cộng hoặc cứu trợ khẩn cấp. - Hiệp hội nghề nghiệp: Đây là tổ chức đại diện cho quyền lợi của các thành viên là những người hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định hoặc làm 9 Andrew Wells-Dang (2011), Informal Pathbreakers: Civil Society Networks in China and Vietnam, University of Birmingham Research Archive, pg.24. 10 Phạm Bích San (2011) Hội nghị thường niên các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, Sự hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ và nhà nước ở Việt Nam: những triển vọng tái cơ cấu. 11 Ngân hàng phát triển Châu Á ADB, (2011), Báo cáo tóm tắt về xã hội dân sự Việt Nam 12 những nghề đặc biệt nào đó. Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tạo ra những chuẩn mực liên quan đến ngành nghề của các thành viên, ví dụ như Hiệp Hội kiến trúc sư, kế toán công - Các quỹ: Là tổ chức từ thiện được thành lập bởi các cá nhân hay đơn vị nào đó với tư cách là một thực thể pháp lý (một tập đoàn hoặc một quỹ ủy thác) ủng hộ những sự nghiệp phù hợp với mục tiêu của quỹ. Ví dụ: Quỹ Ford (Mỹ), Quỹ Qga Khan (Thụy Sỹ) - Các viện nghiên cứu độc lập: Là những tổ chức ngoài công lập (tự trang trải tài chính) chủ yếu thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phân tích liên quan đến các vấn đề chính sách công và truyển bá những kết quả nghiên cứu và khuyến nghị của mình với hy vọng có thể gây ảnh hưởng lên các nhà hoạch định quyết sách và những người xác lập chủ trương. - Các tổ chức cộng đồng (CBO): Các tổ chức này thường giải quyết ngay những mối quan tâm của các thành viên. Đặc tính cơ bản của CBO là chúng có thể huy động các cộng đồng thông qua việc thể hiện các nhu cầu, tổ chức và thực hiện những quá trình có sự tham gia, tiếp cận các dịch vụ phát triển từ bên ngoài, chia sẻ lợi ích giữa các thành viên. - Các tổ chức tín ngưỡng: Những nhóm có cơ sở tôn giáo được thành lập quanh một khu vực thờ cúng hoặc giáo đoàn, một cơ sở tôn giáo hoặc một cơ sở có hoặc không đăng ký có tôn chỉ tôn giáo. - Các tổ chức nhân dân: Là những tổ chức gồm những tình nguyện bình dân, nhằm thúc đẩy sự phồn thịnh về kinh tế và xã hội của các thành viên. - Các phong trào xã hội và công đoàn: Là những nhóm phi chính thức có quy mô lớn, gồm nhiều cá nhân hoặc tổ chức nhằm thay đổi xã hội, thông qua những hành động tập thể có thể chức và lâu dài. Như chúng ta thấy, trong nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB, tổ chức XHDS được chia thành các dạng, các nhóm theo tính chất hoạt động, còn trong nghiên cứu của tác giả Phạm Bích San, tổ chức XHDS được chia theo các nhóm là đối tượng được nhận hoặc không được nhận tài trợ của nhà nước. 13 1.1.4. Tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946 và các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992, 2013 đều thừa nhận công dân Việt Nam có quyền hội họp, lập hội theo quy định của pháp luật. Theo Sắc lệnh số 52-SL ngày 22/4/1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định việc thành lập hội: “Hội là một đoàn thể có tính cách vĩnh cửu gồm hai hoặc nhiều người giao ước hiệp lực mà hành động để đạt mục đích chung, mục đích ấy không phải để chia lợi tức”. Thực tế, các tổ chức xã hội mang tính XHDS ở Việt Nam hoạt động trên cơ sở tự nguyện của người dân đã tồn tại qua nhiều đời nay. Đặc biệt khi có thiên tai, lũ lụt, chiến tranh xảy ra thì các hoạt động của các tổ chức xã hội này lại càng thể hiện rõ tinh thần tự nguyện cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau của người dân để thoát khỏi hoạn nạn. Các tổ chức xã hội nói chung và XHDS ở nước ta đã phát triển rất phong phú và đa dạng với nhiều loại hình và tên gọi khác nhau. Trong lộ trình của EU về cam kết với XHDS tại Việt Nam năm 201412, phái đoàn EU và các nước thành viên EU tại Việt Nam đã đánh giá thực trạng phát triển XHDS tại Việt Nam như sau: Tại Việt Nam, các tổ chức XHDS nói chung được chia thành 5 nhóm: (i) các đoàn thể (6 tổ chức chính trị: Công đoàn; Nông dân; Phụ nữ; Thanh niên; Cựu chiến binh; và Mặt trân Tổ quốc Việt Nam); (ii) các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp (Liên hiệp Hội KH&KT; Hội Nhà văn;...); (iii) tổ chức phi chính phủ Việt Nam (trong đó cóa các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc Liên hiệp Hội KH&KT Việt Nam); (iv) các tổ chức dựa vào cộng đồng (các nhóm thiện nguyện, từ thiện,...); và (v) các tổ chức phi chính phủ quốc tế (Oxfam, Action Aid,...). Hàng trăm tổ chức ở cấp quốc gia và hàng ngàn tổ chức ở cấp tỉnh thuộc các nhóm này. Các tổ chức XHDS được thành lập theo các quy định khác nhau, và thường theo các quy định hoặc của quốc tế, hoặc của Việt Nam. Cơ cấu XHDS ở Việt Nam đang thay đổi do sự xuất hiện của các tổ chức, mạng lưới và các nhóm mới đã định hình các cuộc thảo luận về thực trạng của 12 cập nhập ngày 10/11/2014 14 XHDS. Mối quan hệ giữa XHDS, Nhà nước và Đảng cũng đã trải qua những thay đổi đáng kể trong ba thập kỷ qua. Đổi mới và chính sách của Chính phủ về “xã hội hóa” đã tạo nên một môi trường tốt hơn cho các nhóm công dân. Ngoài ra, tầng lớp trung lưu đô thị và sự phát triển trong việc sử dụng internet đã tạo điều kiện gia tăng tiếp cận thông tin và mức độ nhận thức chung, do đó đã tác động tới vai trò chỉ đạo trực tiếp trước đó của Nhà nước đối với các tổ chức XHDS, và các tổ chức này được coi như một phần của hệ thống nhà nước. Với sự xuất hiện của các tổ chức XHDS, nhà nước đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý quy định việc phê duyệt và quản lý của nhà nước với các tổ chức XHDS. Tranh luận về vai trò của các tổ chức XHDS ở Việt Nam đã dần trở nên cởi mở hơn. Nhà nước ngày càng công nhận sự đóng góp tích cực của các tổ chức XHDS đối với sự phát triển quốc gia. Cung cấp dịch vụ xã hội được coi là hình thức tham gia mạnh mẽ nhất của các tổ chức XHDS tại Việt Nam. Hỗ trợ cung cấp dịch vụ công với việc tập trung vào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng vẫn được coi là nhiệm vụ cốt lõi của nhiều tổ chức XHDS. Nhìn chung, sự tham gia của các tổ chức XHDS trong quá trình hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật còn hạn chế, cho dù một số tổ chức XHDS đã thiết lập quan hệ với các đối tác chính phủ và đang từng bước tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định chính sách. Nhận thấy, trong bối cảnh từ sau Đổi mới 1986, Việt Nam đã lấy trọng tâm phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng hơn. Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng kinh tế được ghi nhận và được thế giới đánh giá cao, thì những biến chuyển về xã hội, thể chế, cải cách nhà nước cũng đã có thành tựu, đó là một tất yếu khách quan. Thực tế chứng minh chính những thay đổi trong quản lý nhà nước, hoạch định chính sách để Việt Nam từ một nước nghèo có mức thu nhập thấp nay đã đạt mức thu nhập trung bình13 cùng tỷ lệ tăng trưởng luôn đạt mức cao và ổn định. 1.1.5. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc hoàn thiện chính sách 13 ngày đăng 12/4/2013 15 Trong nhà nước pháp quyền, cần phải đảm bảo tính minh bạch, sự tham gia của công chúng vào các hoạt động của các cơ quan công quyền. Một trong những nguyên tắc trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách là các cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào quá trình soạn thảo, hoạch định chính sách. “Nhân dân” ở đây được hiểu bao gồm và không giới hạn ở các đối tượng: cá nhân công dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội dân sự, các nhóm lợi ích (doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp), các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và các cơ quan nhà nước Việc bảo đảm sự tham gia của “nhân dân” trong quy trình soạn thảo, ban hành chính sách không chỉ làm cho các chính sách, các biện pháp đưa ra hợp lý, nâng cao chất lượng của dự thảo, mà còn tăng tính khả thi của văn bản ban hành. Có thể tóm tắt vai trò của các tổ chức XHDS trong việc hoàn thiện chính sách như sau: Thứ nhất, vai trò giám sát và kiểm soát xã hội. Sự phát triển ngày càng nhanh và phức tạp của xã hội khiến cho nhu cầu kiểm soát, giám sát luôn luôn được đặt ra. Có như vậy xã hội mới được đặt trong một cơ chế hoạt động cân bằng, không thiên lệch. Điều đó đặt ra nhiệm vụ giám sát lẫn nhau giữa các lĩnh vực, giữa khu vực dân sự với Nhà nước. Các tổ chức XHDS chính là các tổ chức tự nguyện của người dân, đại diện cho người dân tham gia và thực hiện quá trình đó. Thông qua các ý kiến của các tổ chức XHDS, tính chủ quan, độc đoán trong quá trình hoạch định chính sách sẽ được cải thiện đáng kể. Các cá nhân đã có cơ hội tham gia với tư cách đại diện cho một nhóm, một tập thể xã hội đối với các vấn đề chính sách; thiên hướng vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của số đông trở nên mạnh mẽ hơn. Thứ hai, vai trò tư vấn và phản biện. Các tổ chức XHDS bằng những kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn của mình có thể tham gia góp ý, biện luận, khẳng định và phê phán một vấn đề, quá trình kinh tế xã hội nào đó nhằm hoàn thiện, đạt hiệu quả cao hơn cho sự việc và quá trình đó. Gần đây, xã hội đã và đang chú ý đến vai trò TV,PB của các tổ chức XHDS và hoạt động này đã có những đóng góp thiết thực vào chiến lược, kế hoạch, chương trình và dự án quốc gia hoặc địa phương. 16 Thứ ba, vai trò tạo sự đồng thuận xã hội. Xã hội phát triển đan xen rất nhiều những thách thức, mâu thuẫn, xung đột cần được điều hòa, cân đối. Trong điều kiện đó, các tổ chức XHDS sẽ tìm kiếm những cách thức để điều hòa những vấn đề này nhằm hướng tới một xã hội ổn định và phát triển. Trước tiên là giải quyết về mặt lợi ích trong các nhóm, có sự ổn định này mới đem lại sự ổn định cho toàn xã hội nói chung. Nhờ tính chuyên môn tương đối mạnh và độc lập, tự chủ trước pháp luật, các tổ chức XHDS có thể đóng vai trò điều hòa mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Các tổ chức XHDS giúp thiết lập và điều hòa các mối quan hệ xã hội, điều tiết mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội, giữa các nhóm lợi ích, làm giảm mâu thuẫn xã hội. Qua đó, các tổ chức XHDS có thể giúp cải thiện chất lượng quản lý của nhà nước, thúc đẩy nhà nước đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của người dân, làm tăng quyền lực của người dân, tạo điều kiện cho phát triển và dân chủ hóa. 1.2. Tƣ vấn, phản biện 1.2.1. Khái niệm tư vấn, phản biện Có nhiều cách định nghĩa về TV,PB; tuy nhiên, trong phạm vi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004801_1_1486_2002892.pdf
Tài liệu liên quan