Nhóm khách quốc tế đến Bình Thuận với mục đích dulịch thương mại: Khách
du lịch với mục đích thương mại là nhóm khách cao cấp, có khả năng chi trả rất
cao, đòi hỏi chất lượng dịch vụ rất cao,đặc biệt coi trọng vấn đề vệ sinh và an
toàn thực phẩm. Họ thường đi riêng lẻ, thời gian lưu lại không lâu, đối với họ thời
gian là “vàng” nên trước khi đến họ đã tìm hiểu nghiên cứu rất kỹ các cơ hội và
khả năng hợp tác đầu tư, họ thường ở các khách sạn thương mại cao cấp từ 4-5
sao. Để phục vụ nhóm du khách này cần dành những gì tốt nhất mà chúng ta có
thể có. Đón tiếp khách du lịch thương mại có ý nghĩa và hiệu quả về nhiều mặt.
Số lượng khách ít nên không gây áp lực đến tài nguyên, cảnh quan môi trường,
cơ sở vật chất kỹ thuật ít bị xuống cấp, có điều kiện để nâng cao chất lượng sản
phẩm và các dịch vụ du lịch, đội ngũ nhân viên có điều kiệnnâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tuy số lượng thấp nhưng khả năng chi trả rất cao nên
nguồn thu không nhỏ.
116 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5445 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển du lịch bền vững tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ø Bắc Bình tỉnh Bình Thuận
có diện tích đất cát hoang hoá khoảng 35000 ha và phân bố trên chiều dài 50 km
bờ biển. Riêng các đồi cát di động ở đây có diện tích khoảng 5.000 ha. Khí hậu
khô hạn và gió mạnh, “bão cát” thường xảy ra, nghiêm trọng nhất là khu vực cát
di động ở xã Chí Công, Liên Hương, Bình Thạnh (Tuy Phong) và xã Hoà Thắng
(Bắc Bình) đe doạ huỷ diệt những tiềm năng to lớn của nền sản xuất khu vực.
Các cồn cát di động ở ven biển luôn chứa đựng nhiều “tiềm năng” dẫn đến hiểm
hoạ sa mạc hoá. Thêm vào đó, hậu quả của việc chặt phá rừng, khai thác đất đai
không hợp lý, sự thoái hoá đất cùng với các hiện tượng muối mặn, muối phèn,
muối kiềm bốc lên mặt, các quá trình cát bay, cát chảy, các quá trình xói mòn,
rửa trôi do nước, do gió diễn tiến mạnh đã làm xuất hiện những dấu hiệu gần
giống như những dấu hiệu của hoang mạc (đất xói mòn trơ sỏi đá, đất hốc đá lộ
đầu… ).
Tình trạng xả trực tiếp dầu, mỡ, rác, nước thải chưa xử lý ra môi trường biển
và bãi biển trong các khu vực đã được quy hoạch phát triển du lịch từ các phương
tiện đánh bắt, các cơ sở chế biến hải sản, chăn nuôi, việc phơi cá, sò khô dọc bãi
biển bốc mùi tanh hôi và thu hút ruồi nhặng ô nhiễm môi trường còn diễn ra khá
phổ biến.
Các cơ sở tín ngưỡng và tôn giáo như Đền, Chùa, Tháp, Đình… cùng những
căn cứ cách mạng gắn liền với chiến khu như: Chiến khu Lê Hồng Phong, Khu
Tam giác sắt… là những nơi có khả năng thu hút được các đoàn du khách ghé lại
thăm viếng, ảnh hưởng lớn đến các tuyến du lịch kết hợp với hành hương của các
tầng lớp du khách từ xa đến, nhưng việc khai thác các di tích lịch sử văn hoá của
tỉnh phục vụ du lịch trong thời gian qua nhìn chung còn hạn chế, phần nhiều các
di tích chưa có sự đầu tư tôn tạo và quản lý, đã xuất hiện tình trạng xuống cấp ở
một số điểm tham quan hoặc chưa khai thác hết giá trị của các tài nguyên du lịch.
Việc bảo tồn, nâng cấp các di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật phục vụ cho hoạt
động du lịch còn nhiều bất cập. Biện pháp quản lý cụ thể, sự phối hợp quản lý
giữa các ngành, các cấp, các địa phương chưa cao, do vậy, việc khai thác kinh
doanh còn tuỳ tiện, gây tác hại xấu đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường.
Hoạt động lễ hội diễn ra khá rầm rộ trong những năm gần đây, nhưng chủ yếu có
tính tự phát và được tiến hành theo cổ lệ một cách phục cổ. Nội dung lễ hội hầu
hết chưa đề ra được kịch bản cụ thể trên quan điểm phát huy cái tinh hoa, hạn
chế cái lạc hậu và có thể đưa các nội dung mới vào đó. Xét trên quan điểm bền
vững.
2.2. Vị trí của du lịch Bình Thuận trong chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995- 2010 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định tổ chức không gian du lịch lãnh thổ (Việt
Nam có 3 vùng và 7 trung tâm du lịch lớn), các tuyến điểm du lịch quốc gia, các
trung tâm du lịch và các khu vực ưu tiên đầu tư phát triển du lịch, trong đó có
Bình Thuận. Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ là vùng du lịch có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, các trung tâm du lịch của vùng là Nha Trang – Ninh Chữ –
Đà Lạt, Bà Rịa – Vũng Tàu và phụ cận, thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận, tam
giác tăng trưởng du lịch là Thành phố Hồ Chí Minh – Đà Lạt – Nha Trang. Bình
Thuận nằm trong tam giác tăng trưởng du lịch của vùng du lịch Nam Trung Bộ và
Nam Bộ, đồng thời nằm trong vùng giao điểm ảnh hưởng hoạt động của 3 trung
tâm du lịch của vùng. Đầu năm 2004, nhóm 7 nhà đầu tư lớn của Mỹ được chấp
thuận xây dựng khu giải trí kiểu Disney Land ở Bình Thuận là một xác nhận về
ưu điểm lớn này.
Bình Thuận nằm kề địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi có nhu cầu du
lịch nghỉ dưỡng cuối tuần rất lớn, đặc biệt sau khi các khu công nghiệp tập trung
đi vào hoạt động. Nằm trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của du lịch Thành
phố Hồ Chí Minh và phụ cận với vị trí là điểm du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần. Đây
là ưu thế mà JICA (Tổ chức tư vấn Hợp tác quốc tế của chính phủ Nhật (Japan
International Corporation Agency) đánh giá rất cao khi so sánh tiềm năng du lịch
của Bình Thuận trong tổng thể 11 tỉnh ven biển miền Trung. Bản thân tiềm năng
du lịch Bình Thuận và cơ sở vật chất kỹ thuật đang phát triển nhanh của ngành
Du lịch Bình Thuận tạo nên sức hút khá mạnh khách du lịch đến Bình Thuận.
Với các yếu tố phân tích trên, khả năng thu hút du khách đến Bình Thuận là
một thực tế và là một cơ hội phát triển, sẽ góp phần tích cực vào hoạt động phát
triển du lịch Việt Nam và khu vực. [17][50]
Đánh giá của JICA về du lịch Bình Thuận
Trong khuôn khổ hợp tác hai chính phủ Việt Nam – Nhật Bản, Tổ chức tư vấn
Hợp tác quốc tế của chính phủ Nhật (Japan International Corporation Agency –
JICA) đã hợp tác với Tổng cục Du lịch Việt Nam thực hiện một nghiên cứu công
phu về du lịch miền Trung Việt Nam (từ Quảng Bình đến Bình Thuận) và tháng 9
năm 2001 đã soạn thảo tập “Comprehensive study on tourism development in the
central region of Vietnam”, trong tập tài liệu này, liên quan đến các lợi thế so
sánh giữa Bình Thuận và các tỉnh miền Trung, có một số thông tin đáng chú ý:
- Bình Thuận gần thành phố Hồ Chí Minh nên được hưởng các thuận lợi
về cơ sở hạ tầng giao thông, thuận lợi cho việc đón khách. Chỉ số đánh
giá về giao thông của Bình Thuận là cao nhất toàn khu vực miền Trung
(trên cả Đà Lạt và Nha Trang).
- Số lượng phòng khách sạn hiện tại đã tạo nền móng cho thu hút khách
du lịch (Bình Thuận xếp thứ 4 trong 11 tỉnh, sau Khánh Hoà, Đà Nẵng,
Thừa Thiên – Huế).
- Tài nguyên du lịch Bình Thuận tuy không nổi bật như Huế, Quảng
Nam, Nha Trang nhưng có đủ nhóm:
+ Cả tài nguyên thiên nhiên và văn hoá – lịch sử.
+ Có bãi biển đẹp, đảo san hô, rừng, thác, hồ lớn…
- Bình Thuận có nguồn nhân lực cho du lịch do gần thành phố Hồ Chí
Minh và có các cơ sở thực hành ở khu Mũi Né.
Trong phần đánh giá các dự án phát triển du lịch 11 tỉnh miền Trung, JICA
khuyến cáo đầu tư vào khu vực Khe Gà (Bình Thuận) giai đoạn 2002 – 2010 lên
đến 332 triệu USD, chỉ xếp sau Hội An (Quảng Nam) là 664 triệu USD, trên cả
Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế) là 295 triệu USD. Đánh giá này cho thấy vị trí của
Bình Thuận trong quy hoạch phát triển du lịch miền Trung. [45]
2.3. Vị trí của du lịch Bình Thuận trong định hướng phát triển kinh tế –
xã hội địa phương
Bình Thuận ở vị trí có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế –
xã hội, trên trục giao lưu kinh tế của vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, cửa
ngõ phía Đông của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi được xem là “điểm
nóng” có tốc độ tăng trưởng mạnh của cả nước, một thị trường hết sức sôi động.
Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao,
bình quân giai đoạn 1991 – 2000 tăng 10,86%, trong đó thời kỳ 1991 – 1995 tăng
12,04% và 1996 – 2000 tăng 10,2%. GDP bình quân đầu người từ 118 USD năm
1990 lên 180 USD năm 1995 và 230 USD năm 1999.
Cơ cấu GDP giữa các khu vực và giữa các ngành trong từng khu vực cũng đã
có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng nông lâm thuỷ sản giảm từ
64,6% năm 1992 xuống 44,67% năm 1998. Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng
từ 13,39% lên 21,86%. Tỷ trọng dịch vụ tăng từ 24,01% lên 33,47% trong cùng
thời kỳ. Trong khu vực dịch vụ, du lịch ngày càng trở thành ngành kinh tế quan
trọng, khẳng định được vị trí của mình trong cơ cấu kinh tế của tỉnh mặc dù hoạt
động du lịch mới thực sự khởi sắc từ năm 1995 trở lại đây.
Năm 1991 tổng doanh thu du lịch là 7045 triệu đồng, đến năm 2003 lên tới
298.000 triệu đồng (trong 12 năm tăng 42 lần). Đóng góp của du lịch trong GDP
của tỉnh năm 1993 là 0,27%, đến năm 2003 lên 7,6% (trong 10 năm tăng 28 lần).
Tăng nhanh tỷ trọng GDP du lịch trong cơ cấu GDP của tỉnh có nghĩa là:
- Góp phần làm chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế địa phương.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Giải quyết công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động.
Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bình Thuận đến năm 2010 đã
xác định “Nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng công nghiệp… tăng tỷ trọng dịch vụ nhất
là thương mại, vận tải biển và du lịch. Sớm hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp
– dịch vụ – nông ngư lâm nghiệp có hiệu quả, phù hợp với thị trường trong và
ngoài nước.”
Hình 2.1. Cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế ở Bình Thuận
Chiều hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bình Thuận đã xác định rõ vai
trò của du lịch và chủ trương đầu tư đẩy mạnh phát triển du lịch sao cho du lịch
thực sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, góp phần vào sự chuyển dịch
về chất cơ cấu kinh tế của tỉnh. [17][49]
2.4. Đánh giá hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan
điểm phát triển bền vững
2.4.1. Khách du lịch
2.4.1.1. Khách du lịch quốc tế
Cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Bình Thuận phân theo mục đích du lịch: Hầu
hết khách đi du lịch quốc tế đến Bình Thuận với mục đích chủ yếu là tham quan
danh lam thắng cảnh và tìm hiểu văn hoá bản địa. Thu hút được nhóm khách này
có nhiều lợi thế. Họ thường đi du lịch có tổ chức nên vấn đề quản lý, điều hành,
phân phối có nhiều thuận lợi; giúp cho việc xây dựng các tour du lịch, xây dựng
kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như chiến lược phát triển của
ngành có hiệu quả. Hầu hết, khách có trình độ văn hoá nhất định, nên trong suốt
chuyến đi họ có ý thức bảo vệ môi trường cảnh quan, và chính họ sẽ là người
Năm 2000 Năm1992
64.60%11.39%
24.01%
42.40%
23.00%
34.60%
tuyên truyền quảng cáo góp phần phát triển du lịch bền vững. Thời gian lưu trú
của họ tương đối dài và khả năng thanh toán tương đối cao, góp phần đáng kể
cho nguồn thu của ngành đồng thời cũng tạo ra nguồn thu lớn cho địa phương.
Xét trên quan điểm bền vững thì sự phát triển của thị trường này là ổn định. Cần
có những chiến lược cụ thể về sản phẩm, về thị trường để thu hút nhóm khách
này, giữ mức tăng trưởng ổn định.
Nhóm khách quốc tế đến Bình Thuận với mục đích du lịch thương mại: Khách
du lịch với mục đích thương mại là nhóm khách cao cấp, có khả năng chi trả rất
cao, đòi hỏi chất lượng dịch vụ rất cao, đặc biệt coi trọng vấn đề vệ sinh và an
toàn thực phẩm. Họ thường đi riêng lẻ, thời gian lưu lại không lâu, đối với họ thời
gian là “vàng” nên trước khi đến họ đã tìm hiểu nghiên cứu rất kỹ các cơ hội và
khả năng hợp tác đầu tư, họ thường ở các khách sạn thương mại cao cấp từ 4-5
sao. Để phục vụ nhóm du khách này cần dành những gì tốt nhất mà chúng ta có
thể có. Đón tiếp khách du lịch thương mại có ý nghĩa và hiệu quả về nhiều mặt.
Số lượng khách ít nên không gây áp lực đến tài nguyên, cảnh quan môi trường,
cơ sở vật chất kỹ thuật ít bị xuống cấp, có điều kiện để nâng cao chất lượng sản
phẩm và các dịch vụ du lịch, đội ngũ nhân viên có điều kiện nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tuy số lượng thấp nhưng khả năng chi trả rất cao nên
nguồn thu không nhỏ.
Với lợi thế lớn như vậy, nhưng trong thời gian qua thị trường khách du lịch
thương mại đến Bình Thuận có số lượng rất ít và không ổn định do nhiều nguyên
nhân như: các thủ tục hành chính và các chế độ ưu đãi đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng của Tỉnh còn yếu kém,
Bình Thuận là tỉnh nhỏ, các cơ hội đầu tư chưa nhiều, thông tin về các cơ hội đầu
tư chưa rộng rãi… không hấp dẫn nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa khoảng
cách Phan Thiết – thành phố Hồ Chí Minh không xa, phương tiện đi lại khá thuận
tiện (chỉ cần 3 tiếng đồng hồ đi ô tô) nên nhiều du khách lưu trú chính tại thành
phố Hồ Chí Minh. Đây là bất lợi đối với du lịch Bình Thuận vì chưa thu hút được
một thị trường du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Khách có mục đích du lịch thăm thân, chủ yếu là Việt Kiều về thăm gia đình,
họ hàng, quê hương. Mặc dù họ có thời gian lưu trú dài nhưng ít sử dụng dịch vụ
lưu trú khách sạn, thường sử dụng các dịch vụ chất lượng trung bình, giá cả vừa
phải, mức chi tiêu không cao. Nhóm khách này gia tăng nhanh và nhiều người có
nguyện vọng quay trở lại du lịch lần thứ hai, thứ ba… Về giá trị tuyệt đối thì
khách thăm thân phát triển tương đối ổn định trong tổng số khách quốc tế đến
Việt Nam.
Khách du lịch có mục đích khác như du lịch công vụ, dự hội nghị, hội thảo, hội
chợ, khách đi theo đoàn ngoại giao, đoàn thể thao... đến Bình Thuận không đáng
kể, không ổn định.
Cơ cấu thị trường khách du lịch quốc tế: Trong tổng số khách du lịch quốc tế
đến Bình Thuận thì 55% là khách đến từ châu Âu, 22,5% khách từ các nước châu
Á và 22,5% là khách từ Hoa Kỳ, Ôxtrâylia…
Thị trường khách du lịch châu Á và Việt Kiều… là thị trường đầy tiềm năng,
chiếm tỷ lệ cao nhất. Đa số cho rằng Bình Thuận có phong cảnh đẹp, nhìn chung
chất lượng khách sạn, nhà hàng đạt yêu cầu nhưng hàng hoá mua sắm đồ lưu
niệm, dịch vụ vui chơi giải trí còn nghèo nàn, thủ tục hải quan của Việt Nam
rườm rà phức tạp. Thị trường này đòi hỏi dịch vụ giá rẻ, sản phẩm phải có nét
đặc trưng riêng, tránh sự nhàm chán, lặp lại giữa các nước trong khu vực.
Thị trường khách du lịch châu Âu, Mỹ, Ôtrâylia… có khả năng chi trả rất cao,
đòi hỏi được phục vụ những sản phẩm du lịch hoàn hảo, nhưng cũng rất đắn đo
trong chi tiêu. Phần lớn du khách có nhu cầu khám phá văn hoá phương Đông. Đã
quá quen với các cuộc sống tiện nghi, vật chất và kỹ thuật cao cho nên họ ưa
thích gần gũi thiên nhiên, thích nghiên cứu và khám phá những nét đẹp độc đáo
của văn hoá địa phương qua các loại hình nghệ thuật dân gian, trang phục dân
tộc, kiến trúc và các đặc điểm quần cư. Họ thích tham gia những hoạt động lễ
hội, chiêm ngưỡng những kiến trúc cổ Việt, Chăm… và tìm hiểu những hấp dẫn
tôn giáo khác. Tuy nhiên, nhóm khách này vẫn cần được đáp ứng những tiện nghi
sinh hoạt và lưu trú đúng tiêu chuẩn, đặc biệt là những yêu cầu về môi trường,
phòng ở, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại. Du khách rất quan tâm mua sắm
hàng hoá đồ lưu niệm là đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống, đồ giả cổ, tranh ảnh
mỹ thuật, nghệ thuật… Phục vụ khách du lịch ở thị trường này rất khó, đòi hỏi
phải có chiến lược về sản phẩm, chiến lược về quảng cáo, chiến lược về đào tạo
nhân lực…
Những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế vào
Bình Thuận chưa cao, số lượng khách chưa nhiều, chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số
khách du lịch đến Bình Thuận. Nhưng từ sau năm 1995 số lượng khách du lịch
quốc tế đến Bình Thuận tăng nhanh rất nhanh. Năm 1991 có 2.636 lượt khách du
lịch quốc tế đến Bình Thuận, năm 2003 tăng lên 90.000 lượt. Khoảng 90 – 97%
khách du lịch quốc tế đến Bình Thuận lưu trú tại Phan Thiết.
2.4.1.2. Khách du lịch nội địa
Cơ cấu khách du lịch nội địa đến Bình Thuận phân theo mục đích du lịch:
Nhóm khách du lịch với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất
(khoảng 80%) trong tổng số khách du lịch nội địa đến Bình Thuận, họ đi du lịch
quanh năm nhưng tập trung vào dịp hè và các ngày lễ, các ngày nghỉ cuối tuần.
Nhóm khách du lịch công vụ: đối tượng chính là cán bộ, công nhân viên trong
các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp… thường kết hợp công tác với du lịch.
Loại hình du lịch này cũng diễn ra quanh năm.
Nhóm khách du lịch lễ hội – tín ngưỡng tập trung vào các dịp lễ hội, Tết
Nguyên Đán, đối tượng chính là người lớn tuổi, người buôn bán, kinh doanh.
Nhóm khách du lịch với mục đích chữa bệnh chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là
người lớn tuổi.
Cơ cấu thị trường khách du lịch nội địa: Nguồn khách du lịch nội địa đến Bình
Thuận chủ yếu từ thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đông Nam Bộ. Đây là đặc
điểm cần lưu ý trong quy hoạch tổ chức không gian du lịch.
Khách du lịch nội địa đến Bình Thuận luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số
khách du lịch đến Bình Thuận, giai đoạn 1991-1995 chiếm 85-87%, giai đoạn
1996-2000 là 78-85%.
2.4.1.3. Đánh giá chung về hiện trạng khách du lịch
Những năm đầu mới tách ra từ tỉnh Thuận Hải cũ, du lịch Bình Thuận còn
chậm phát triển. Ngày 20/10/1995, gần 100.000 lượt du khách, các nhà khoa học
trong và ngoài nước đột ngột đổ dồn về Phan Thiết, nơi được xác nhận là sẽ quan
sát được rõ nhất hiện tượng nhật thực toàn phần với tỉ lệ 100%, đã trở thành ngày
đánh dấu thời điểm phát triển du lịch Bình Thuận. Người ta đã phát hiện ra hàng
trăm kilômét bờ biển thơ mộng còn hoang sơ với những rặng dừa xanh, bãi biển
sạch, những đồi cát trùng trùng, điệp điệp nhiều màu sắc… những thắng cảnh vô
cùng đẹp đẽ chưa được khai thác. Ngành “công nghiệp không khói” của Bình
Thuận phất lên từ đó. Sự phát triển du lịch trong những năm qua như một hiện
tượng đột phá kinh tế ở Bình Thuận.
Bảng 2.1. Khách du lịch đến Bình Thuận
Khách du lịch quốc tế Khách du lịch nội địa Năm Tổng
lượt
khách
Lượt
khách
(người)
Ngày
khách
Tốc độ
tăng
trưởng
năm
sau so
với
năm
trước
(%)
Lượt
khách
(người)
Ngày
khách
Tốc độ
tăng
trưởng
năm
sau so
với
năm
trước
(%)
1991 22162 2636 3952 - 19526 29235 -
1992 21301 4414 4748 +67,45 16887 26996 -13,5
1993 25008 4169 7615 - 5,4 20839 20319 +23,4
1994 30176 4689 7502 +12,4 25487 30584 +22,3
1995 53200 5300 8215 +13 47900 59875 +85,32
1996 56500 7900 13430 +49 48600 63180 +1,5
1997 68990 13848 24926 +75,29 55152 79418 +13,5
1998 90231 16532 34386 +19,38 73699 113496 +33,57
1999 119000 26500 60500 +60,29 92500 134125 +25,5
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Bình Thuận
Trên đây là số khách lưu trú tại khách sạn và các cơ sở lưu trú du lịch. Một
lượng khách không nhỏ lưu trú tại các nhà trọ và còn một lượng khá lớn đến tạm
trú ở nhà người thân và các loại hình lưu trú khác không thống kê được. Như vậy,
nếu tính khách lưu trú qua đêm ở Bình Thuận thì số lượng khách trong năm 1999
dao động trong khoảng 250.000 – 270.000 lượt khách. Phần lớn (khoảng 45%)
khách lưu trú tại khách sạn và các khu du lịch, lưu trú tại các nhà trọ khoảng 32%
và lưu trú tại các loại hình khác khoảng 23%.
Tuy số lượng khách đến Bình Thuận còn ở mức khiêm tốn so với các tỉnh phụ
cận, tỷ trọng khách du lịch quốc tế còn thấp, thời gian lưu trú của khách chưa
nhiều, chi tiêu cho mua sắm và vui chơi giải trí chưa cao nhưng đánh giá về chỉ
tiêu số lượng khách du lịch đến Bình Thuận từ năm 1991 trở lại đây có mức tăng
trưởng ổn định, năm sau cao hơn năm trước. Giai đoạn năm 1991 – 1995 lượng
khách du lịch đến Bình Thuận có tốc độ tăng trưởng bình quân là 21%/năm (trong
đó khách quốc tế tăng bình quân 30,5%/năm, khách nội địa tăng bình quân
20%/năm). Từ năm 1996 đến nay khách du lịch đến Bình Thuận tăng trưởng bình
quân trên 30%/năm. Trong một thời gian dài nhịp độ tăng trưởng khách ổn định
và đạt mức tăng trưởng khá cao. Thời gian lưu trú bình quân của khách du lịch
tăng: trong giai đoạn 1991 – 1995 là 1,3 ngày (trong đó khách du lịch quốc tế là
1,5 ngày). Giai đoạn 1996 – 2004 bình quân thời gian lưu trú khách quốc tế là 1,9
ngày và khách nội địa là 1,4 ngày.
Như vậy, với các chỉ tiêu đã đạt được trong hơn mười năm qua, số lượng khách
du lịch đến Bình Thuận luôn luôn phát triển ổn định và bền vững. Tuy nhiên,
công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thông
tin của khách du lịch, chưa đảm bảo tiêu chí phát triển du lịch bền vững.
2.4.2. Doanh thu du lịch
Doanh thu từ du lịch bao gồm tất cả các khoản do khách du lịch chi trả từ lưu
trú, ăn uống, vận chuyển du lịch, bán hàng và các dịch vụ khác. Theo số liệu
thống kê của Sở Thương mại – Du lịch thì doanh thu của ngành du lịch từ 1991
đến nay đã tăng nhanh, tốc độ trung bình trên 50%/năm.
Về cơ cấu doanh thu, hiện nay khách du lịch đến Bình Thuận dành phần lớn
(khoảng 60%) nguồn chi tiêu của mình cho lưu trú và ăn uống, số còn lại dành
cho việc vận chuyển, mua sắm hàng hoá và các dịch vụ khác. Mức chi tiêu mỗi
ngày của một khách thấp, khách du lịch quốc tế khoảng 65 – 70 USD, khách du
lịch nội địa khoảng 8 USD. Đây là một điểm hạn chế của du lịch tỉnh Bình
Thuận.
Bảng 2.2. Doanh thu du lịch tỉnh Bình Thuận
Năm Tổng doanh thu (tỷ đồng) Trong đó lưu trú và ăn uống
1991 7,176 2,015
1993 12,626 5,869
1995 30,667 14,179
1996 32,500 17,300
1997 43,500 37,500
1998 73,400 60,150
2000 123,100 102,000
2001 178,000 125,000
2002 226,000 158,000
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Bình Thuận
Cơ cấu doanh thu của các thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng ở các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1994 khu vực Nhà nước chiếm 100% doanh thu, năm
1998 khu vực nhà nước chỉ chiếm 25%, năm 2002 khu vực nhà nước chỉ chiếm
15%, các thành phần kinh tế khác 85%.
Nhìn chung, hoạt động du lịch của tỉnh có bước phát triển đáng khích lệ, mức
nộp ngân sách của du lịch tăng nhanh, từ 2.800 triệu đồng năm 1996 lên 10.000
triệu đồng năm 1999, lên 30. 000 triệu đồng năm 2003. Mức tăng trưởng doanh
thu du lịch giai đoạn 1991 – 1995 đạt trung bình 31%, giai đoạn 1996 – 2004 đạt
trung bình 30%.
Bảng 2.3. Đóng góp ngân sách nhà nước của ngành du lịch Bình Thuận
Năm Nộp ngân sách (Tỷ đồng)
1996 2,8
1997 4,7
1999 10,0
2000 13,0
2001 18,0
2002 22,5
2003 30,0
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Bình Thuận
Bảng 2.4. Tỷ trọng GDP du lịch trong GDP của tỉnh
Năm GDP du lịch (%)
1993 0,27
1995 1,50
1997 2,40
1999 4,30
2000 5,20
2001 5,90
2002 6,50
2003 7,60
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Bình Thuận
Nhờ doanh thu du lịch tăng nhanh nên đóng góp của Ngành du lịch vào GDP
của Tỉnh ngày càng tăng cả về giá trị tuyệt đối và nhịp độ tăng trưởng. Năm
1993, tỷ trọng đóng góp GDP du lịch vào GDP toàn tỉnh chỉ đạt 0,27%, đến năm
2003 đạt 7,6%. Đây là con số chưa cao nhưng có ý nghĩa lớn, góp phần vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tích cực.
Đánh giá về sự tăng trưởng doanh thu du lịch của tỉnh Bình thuận từ năm 1991
đến nay cho thấy cả giá trị tuyệt đối và nhịp độ tăng trưởng đều tăng liên tục.
Qua đó có thể nhận đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLKTXH005.pdf