DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .i
DANH MỤC CÁC BẢNG .ii
DANH MỤC CÁC HÌNH.iii
MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .8
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án .8
1.1.1.Nghiên cứu lý luận về khu vực nông thôn và thành thị. 8
1.1.2.Nghiên cứu lý luận về kinh tế nông thôn. 10
1.1.3.Những nghiên cứu về phương thức phát triển kinh tế nông thôn. 12
1.1.4. Nghiên cứu các trường hợp cụ thể về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan. 13
1.1.5. Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn của Việt Nam . 16
1.2.Một số kết luận được rút ra liên quan đến luận án và khoảng trống cần phải tiếp tục
nghiên cứu trong luận án.19
1.2.1.Các vấn đề đã thống nhất: . 19
1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình trên còn bỏ ngỏ cần
tiếp tục nghiên cứu: . 21
1.3 Câu hỏi nghiên cứu và khung phân tích phát triển kinh tế nông thôn .22
1.3.1.Các câu hỏi nghiên cứu . 22
1.3.2.Khung phân tích của luận án . 23
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN .25
2.1. Các lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn .25
2.1.1 Lý thuyết hai khu vực ( lý thuyết nhị nguyên). 25
2.1.2. Thuyết tăng trưởng nội sinh (hay thuyết tăng trưởng mới) . 26
2.1.3. Lý thuyết sinh kế bền vững . 27
2.1.4. Lý thuyết về mô hình nông thôn mới . 28
2.2. Phát triển kinh tế nông thôn.32
2.2.1. Các khái niệm về khu vực nông thôn, kinh tế nông thôn và phát triển kinh tế nông
thôn. 32
2.2.2. Đặc điểm phát triển kinh tế nông thôn . 37
2.2.3. Nội dung phát triển kinh tế nông thôn. 40
2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế nông thôn.48
2.3.1. Nhân tố tác động bên ngoài . 48
2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng bên trong quốc gia . 54
2.4. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế nông thôn .56
2.4.1. Nhóm tiêu chí đánh giá sản xuất nông nghiệp trong khu vực nông thôn. 57
174 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế nông thôn ba lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước trong khối OECD. Đặc biệt trong giai
đoạn 2004-2007, tăng trưởng khu vực nông thôn Ba Lan ghi nhận được với mức
tăng 5% cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trươc đó 2000-2003 là 2,17% và cao hơn
mức trung bình của cả giai đoạn từ 2000-2014 là 3,3%. (OECD, 2018) [124].
Thứ hai, tỷ lệ đóng góp GDP khu vực nông thôn Ba Lan thay đổi theo từng
giai đoạn, mức đóng góp chiếm tỷ trọng cao so với các khu vực đô thị và khu vực
trung gian
So với khu vực trung gian và khu vực đô thị, thì giá trị đóng góp của khu vực
nông thôn vào GDP quốc gia đã có sự thay đổi đáng kể trong cả giai đoạn từ 2000-
2018. Trong những năm đầu thập niên, tỷ lệ này là 26,3% vào năm 2000, giảm
xuống 25,5% năm 2009 (năm mà Ba Lan cũng gặp khó khăn với khủng hoảng tài
chính toàn cầu) và có mức tăng cao hơn vào những năm gần đây với xấp xỉ
30%[88].
Thứ ba, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn cao và có sự khác
biệt giữa các khu vực
Tăng trưởng GDP khu vực nông thôn cao, tạo ra thu nhập bình quân đầu
người khu vực nông thôn Ba Lan tăng đáng kể từ mức 10.556 USD năm 2000 lên
17.035 USD 2018[88]. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP giữa các khu vực khác nhau
73
dẫn đến thu nhập bình quân đầu người khác nhau. Năm 2000 bình quân đầu người
khu vực Warszawa là 39.584 USD gấp 4.6 lần so với khu vực Krakowski. Năm
2018 khu vực này đã đạt USD 63.537 so với 12.686 của vùng Przemyski[88]. Tỷ lệ
thu nhập bình quân đầu người một sô khu vực nông thôn Ba Lan đã tiệm cận với
mức bình quân chung của quốc gia như vùng Leszczyńsk với tỷ lệ 98,06% năm
2018, khu vực Kaliski với 95,08%.
Nhìn nhận những tăng trưởng khu vực nông thôn Ba Lan qua hai giai đoạn
cơ bản năm 2000 ( Năm trước khi Ba Lan trở thành thành viên và năm 2014, năm
Ba Lan hoàn thiện chương trình phát triển kinh tế nông thôn giai đoạn 2007-2013)
cho thấy thu nhập bình quân đầu người nhiều khu vực đã có những tăng trưởng
mạnh. Cụ thể khu vực Rzeszowsk đã có mức tăng trưởng GDP đạt 4,41%, khu vực
Płocki có mức tăng đạt 5,17%... thậm chí một số khu vực nông thôn Ba Lan đã có
mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức bình quân chung của quốc gia như
khu vực Płocki với 163,32%; khu vực Piotrkowski 104,73%[88].
Bảng 3.4: Khu vực nông thôn Ba Lan năm 2018
Diện
tích
(km2)
Dân số (
người)
% tổng
dân số
GVA (
triệu
euro)
Việc làm
Khu vực nông thôn 163.062 13. 294 .294 35,01 92. 841 5. 501. 900
Khu vực trung gian 134. 193 15. 007. 364 39,52 125. 043 6 .070. 400
Khu vực đô thị 15. 424 9. 665. 551 25,45 146. 559 4 .329. 600
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Theo số liệu bảng 3.4 cho thấy, khu vực nông thôn chiếm 35,01% dân số
đóng góp vào tăng trưởng tính theo giá trị gia tăng GVA ( Gross Value Added) năm
2018 chiếm 25,47% tương ứng với 92,84 tỷ euro so với khu vực trung gian là 34,31
% ( 125,043 triệu euro) và khu vực thành phố là 40,21% ( 146,559 triệu euro).
74
Tỷ lệ tăng trưởng GDP khu vực nông thôn giai đoạn từ 2000-2018 là 3,3%
thấp nhất so với khu vực trung gian (3,6%) khu vực thành phố 3,5%. Tuy nhiên,
khu vực này lại ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng bình quân nhanh nhất trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính khu vực EU (giai đoạn 2011- 2014). Điều này cũng cho thấy,
các chương trình phát triển kinh tế nông thôn của Ba Lan đã tạo ra sự chuyển hướng
tích cực, tạo ra những tiềm năng tăng trưởng trong tương lại.
Thứ tư, tăng trưởng khu vực nông thôn tạo ra tỷ lệ thất nghiệp giảm ở khu
vực nông thôn
So sánh về tỷ trọng việc làm được tạo ra cũng cho thấy khu vực nông thôn
đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động cả khu vực
trung gian và khu vực thành phố. Số liệu mới nhất năm 2018 ở bảng 3.5 thì khu vực
này đã thu hút được 5.501.900 việc làm so với 4.329.600 việc làm ở khu vực đô thị.
Thứ năm, năng suất lao động khu vực nông thôn tăng và dần bắt kịp với mức
bình quân chung của quốc gia
Chỉ số này được tính toán theo GDP/ lao động đối với từng khu vực. Tại khu
vực nông thôn, trong thời gian qua, năng suất lao động ở Ba Lan đã sự thay đổi
đáng kể. Mức năng suất được ghi nhận sự hội tụ ngang với mức bình quân chung
quốc gia từ mức 81% năm 2000 lên 87% năm 2014 [124].
Mức độ cải thiện về năng suất lao động ở Ba Lan trong thời gian qua không
chỉ được ghi nhận ở những khu vực nông thôn phát triển, mà được mở rộng ở hầu
hết các khu vực nông thôn khác. Đây cũng được coi là điểm sáng, những thành
công mà Ba Lan đạt được trong việc thực thi các chính sách và chương trình phát
triển kinh tế nông thôn.
Cũng như nhiều quốc gia khac, Ba Lan cũng đang phải đối mặt với “ nghịch
lý nông thôn- rural paradox) tức năng suất lao động tăng thì tỷ lệ việc làm giảm hay
thị trường lao động không được mở rộng. Đây cũng là một thách thức mà Ba Lan
phải giải quyết trong chính sách phát triển kinh tế nông thôn bền vững những năm
tới.
Thứ sáu, cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan bao gồm hai hợp phần cơ bản là
sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
75
Cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan bao gồm hai hợp phần hoạt động song song
là nông nghiệp (hoạt động sơ cấp- Primary activities) và phi nông nghiệp ( hoạt
động thứ cấp – Secondary activities). Các hoạt động sản xuất nông nghiệp được
nhìn nhận là các hoạt động của các trang trại trong khu vực nông thôn. So với các
quốc gia thành viên khác, thì hoạt động nông nghiệp của Ba Lan hiện vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong nền kinh tế nông thôn, đây cũng là khu vực thâm dụng lao động với
1.866.450 lao động nông nghiệp, tương ứng với 11%, cao hơn mức bình quân
chung của EU là 5% năm 2015[124].
Các hoạt động phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn được biểu hiện và
thống kê qua các loại hình chủ yếu là: Hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng,
dịch vụ và du lịch nông thôn của các doanh nghiệp và các trang trại chuyển đổi.
Bức tranh đa đạng hóa kinh tế nông thôn của Ba Lan trong thời gian qua được
khẳng định khi mà số lượng các doanh nghiệp, các trang trại xin chuyển đổi mục
đích sang thực hiện các hoạt động kinh doanh, du lịch có sự tăng trưởng mạnh.
Tuy nhiên, một điểm yếu còn tồn tại, đang được coi là những thách thức mà
Ba Lan phải giải quyết chính là sự kết nối giữa các hoạt động sản xuất nông nghiệp
và phi nông nghiệp. Thực tiễn chứng minh cho thấy, nhiều khu vực nông thôn Ba
Lan vẫn còn duy trì các hoạt động nông nghiệp là chủ yếu, các doanh nghiệp phi
nông nghiệp cũng chưa có sự kết dính với sản xuất nông nghiệp địa phương. Điều
này cũng phản ánh hai phân đoạn thị trường lao động nông thôn riêng biệt là lao
động nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Để đưa ra được những nhận xét, đánh giá những thành công và hạn chế và
rút ra bài học trong phát kinh tế Ba Lan, NCS tập trung phân tích sâu các hợp phần
trong cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan ( Bao gồm: Hoạt động sản xuất nông nghiệp
và phi nông nghiệp) theo từng giai đoạn và theo từng khu vực.
3.2.2. Các biện pháp phát triển kinh tế khu vực nông thôn Ba Lan
3.2.2.1.Thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng
cả về kinh tế, chính trị và xã hội khu vực nông thôn. Phân tích về dịch chuyển trong
các hoạt động sản xuất nông nghiệp, đóng góp đối với nền kinh tế quốc dân, khả
76
năng cạnh tranh và tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn, xu hướng dịch
chuyển và các trang trại sản xuất nông nghiệp Ba Lan trong những thập niên đầu thế
kỷ XX mang một số đặc trưng chủ yếu sau:
Tỷ lệ đóng góp sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng GDP quốc
gia
Cùng với quá trình hội nhập và chuyển dịch cơ cấu, sản xuất nông nghiệp
của Ba Lan đã có sự tăng trưởng và phát triển mạnh nhất trong khối các nước gia
nhập EU. Ba Lan hiện đang trở thành trung tâm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
và chế biến lương thực thực phẩm của cả khu vực EU.
Nhìn nhận về đóng góp giá trị của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân cho thấy tỷ lệ sản xuất nông nghiệp trong GDP của Ba Lan giảm dần từ
mức 4,5% năm 2004 xuống 3,3% năm 2010, 2,6% năm 2014 xuống 2,3% năm 2015
và 2,4% năm 2016[88]
Giá trị sản lượng nông nghiệp trong những năm gần đây đạt giá trị cao, đưa
Ba Lan trở thành những nước xuất khẩu lớn trong khu vực
Theo số liệu bảng 3.5 cho thấy giá trị sản lượng nông nghiệp năm 2018 đạt
23.206 triệu euro. Trong đó, sản lượng cây trồng đạt 10.377,4 triệu euro, giá trị sản
lượng vật nuôi đạt 12.829 triệu euro. So với năm 2016, tổng sản lượng nông nghiệp
của Ba Lan đã tăng lên 1.031 triệu euro tương ứng với mức tăng 4,65%.
Lĩnh vực thực phẩm là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất trong
kinh tế Ba Lan trong giai đoạn vừa qua. Tỷ trọng lĩnh vực này trong nền công
nghiệp trong nước chiếm 24% năm 2011, cao hơn mức trung bình của EU 9%.
Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm chiếm từ 6-7% GDP của Ba Lan. Trong
giai đoạn 2007-2016, giá trị xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm của
Ba Lan đã tăng từ 38.277 triệu PLN lên 105.781 triệu PLN.
77
Bảng 3.5: giá trị sản lượng nông nghiệp Ba Lan
Đơn vị : Triệu euro
Giá trị sản lượng 2016 2017 2018
A. Tổng sản lượng cây trồng 10.698,9 11.240,7 10.377,4
Ngũ cốc 3583 3914 3413
Cây công nghiệp 1662 1718 1524
Cây cỏ 863.9 837.6 841.0
Rau và
sản phẩm làm vườn
2232.7 2562.4 2629.7
Khoai tây 869.6 856.9 769.9
Hoa quả 1464.1 1309.8 1158.8
B. Tổng sản lượng vật nuôi 11 476 13 083 12 829
Tổng sản lượng nông nghiệp 22 175 24 324 23 206
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Mô hình trang trại trong sản xuất nông nghiệp được phát triển theo hướng
tích tụ ruộng đất
Giai đoạn 1989-2003: Trong giai đoạn này, hình thức sở hữu đất đai nông
nghiệp Ba Lan có sự thay đổi mạnh với sự gia tăng hình thức sở hữu tư nhân và
giảm thiểu sở hữu nhà nước ( Cổ phần hóa các trang trại thuộc sở hữu nhà nước).
Theo số liệu cơ cấu sở hữu đất nông nghiệp năm 2002[104] cho thấy: 77,7% diện
tích đất nông nghiệp thuộc về sở hữu tư nhân, khu vực sở hữu còn lại thuộc Cơ
quan Quản lý tài sản nông nghiệp (APA - Cơ quan này được thành lập theo Luật
Đất đai năm 1991) với 4.723.100 ha, trong đó 3,7 triệu ha thuộc đất các trang trại
nhà nước, 600.000 ha thuộc quỹ đất quốc gia và các quỹ đất khác[130].
Những nhân tố chính tác động đến sự dịch chuyển các hình thức sở hữu đất
đai nông nghiệp Ba Lan trong giai đoạn này là:
Thứ nhất, ngay trong những năm đầu thực hiện chương trình chuyển đổi nền
kinh tế, Chính phủ Ba Lan đã sửa đổi và ban hành Luật Đất đai năm 1991. Trong đó
78
quy định cụ thể về các hình thức mua bán đất nông nghiệp như: Người dân có thể
mua bán đất nông nghiệp và phi nông nghiệp sẽ không bị giới hạn và được coi là
hợp pháp. Điều này cũng có nghĩa người dân Ba Lan có thể mua đất nông nghiệp,
trang trại theo khả năng tài chính của mỗi người;
Thứ hai, hạn chế người nước ngoài mua bán đất nông nghiệp. Trong trường
hợp người nước ngoài muốn mua đất nông nghiệp, họ phải nhận được sự chấp thuận
của Bộ Nội địa với sự thống nhất của Bộ Nông nghiệp Ba Lan. Các giới hạn sự mua
bán đối với người nước ngoài chỉ thực sự được dỡ bỏ trong thời gian chuyển tiếp là
12 năm kể từ khi Ba Lan trở thành thành viên chính thức của EU[102].
Thứ ba, về hình thức sở hữu tư nhân đất trang trại ở Ba Lan cũng mang một
điểm khá đặc thù, chính là thừa kế đất nông nghiệp. Theo nghiên cứu của Lukasz
Jarock [122] về xu hướng dịch chuyển đất thuộc sở hữu tư nhân trong suốt từ những
năm 2000 trở lại đây, các trang trại sản xuất nông nghiệp tư nhân được chuyển dịch
từ đời ông bà cho thế hệ cháu chiếm 84,84%. Nghiên cứu của Marks-Bielska (2013)
cũng cho thấy 80,34% số người được hỏi cho rằng họ sẽ chuyển đất trang trại đang
quản lý cho các thế hệ con và cháu. Số người sẵn sàng bán chỉ chiếm 7,95%, một số
khác mong muốn được mua và mở rộng diện tích đất trang trại của mình[122].
Giai đoạn 2004 đến nay: Quá trình tích tụ, mua bán, sáp nhập các trang trại ở
Ba Lan trở lên sôi động hơn khi Ba Lan chính thức trở thành thành viên EU năm
2004. Điều này có nghĩa là sự dịch chuyển các hình thức sở hữu diễn ra mạnh hơn,
quá trình mua bán, sáp nhập các trang trại nhỏ mạnh mẽ hơn so với giai đoạn trước
đó. Theo số liệu cho thấy năm 2005, sau một năm Ba Lan trở thành thành viên EU,
trong tổng số 2.733.363 trang trại, khu vực tư nhân chiếm 99,9%, tương ứng
2.732.270 trang trại, khu vực nhà nước chỉ chiếm một tỉ trọng rất nhỏ với 1.094
trang trại. Năm 2018, Ba Lan có hơn 1,4 triệu trang trại chiếm 14.7 ha đất nông
nghiệp[65].
Năm 2016, tức sau 12 năm Ba Lan buộc phải dỡ bỏ các quy định hạn chế
người nước ngoài mua đất. Tuy nhiên, nhằm tránh hiện tượng đầu cơ về đất đai, hay
thôn tính của người nước ngoài, chính phủ Ba Lan tiếp tục có những điều chỉnh về
Luật Mua bán đất nông nghiệp, trong đó đưa ra các quy định ràng buộc người mua
79
các trang trại đất đai nông nghiệp phải có trình độ học vấn, cũng như năng lực quản
lý trang trại nhất định mới được được phép mua. Bên cạnh đó, một số các quy định
về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp cũng
được điều chỉnh theo hướng người muốn chuyển đổi phải có đơn xin phép và được
các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Phân tích về những điều chỉnh của luật này, chúng tôi nhận thấy mặc dù các
quy định trên được xem là một trong những rào cản kỹ thuật trong tự do hóa thương
mại đất nông nghiệp, song tác động của Luật sẽ giảm hiện tượng đầu cơ, thôn tính
đất đai, trục lợi buôn bán đất nông nghiệp, trang trại của các thương nhân. Yêu cầu
người mua đất có một trình độ học vấn nhất định cũng sẽ góp phần đảm bảo các
trang trại được mua bán sẽ sử dụng đúng mục đích cho sản xuất nông nghiệp hơn là
việc thu lời từ hoạt động mua bán.
Tích tụ ruộng đất được biểu hiện bởi xu hướng dịch chuyển về quy mô trang
trại cũng như quá trình chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp
Như vậy, với việc thực thi các đạo luật về chuyển đổi, mua bán đất nông
nghiệp, hạn chế người nước ngoài mua đất, quy mô và cơ cấu trang trại nông nghiệp
tại Ba Lan đã có sự thay đổi, cụ thể:
Thứ nhất, số lượng các trang trại có diện tích nhỏ giảm xuống, thay vào đó
các trang trại có diện tích lớn tăng lên. Số lượng các trang trại diện tích 1-2 ha đã
giảm từ 644 nghìn năm 2000 xuống 637 nghìn trang trại năm 2005, 300 nghìn trang
trại năm 2010, 271 nghìn trang trại năm 2016 với mức giảm tương ứng là 1,08%, và
36,57%. Xu hướng này cũng tương tự đối với các trang trại có diện tích từ 2-3 ha
với mức giảm từ 213 nghìn trang trại xuống 201nghìn trang trại năm 2016. Trong
khi đó số lượng các trang trại có diện tích từ 20- 50 ha đã tăng từ 97 nghìn trang
trại năm 2010 lên 102 nghìn trang trại năm 2016 và số trang trại lớn hơn 50 ha cũng
tăng từ 27-34 nghìn trang trại năm 2016.
80
Hình 3.1: Quy mô các trang trại sản xuất nông nghiệp Ba Lan
Đơn vị: nghìn
Nguồn: Łukasz Abramczuk et.al (2018) “Agricultural company and
agricultural holding towards climate and agricultural policy changes”[122]
Thứ hai, quá trình tích tụ ruộng có sự biến động khá lớn giữa các khu vực.
Mức độ thay đổi số lượng các trang trại giữa các vùng ở Ba Lan cũng khác nhau, cụ
thể, số trang trại 1-2 ha giảm lớn nhất xuất hiện ở miền Nam Ba Lan như tỉnh Opole
(32%), Śląsk (30%), Subcarpathia (26,9%) và Lubuska Land (26,6%), khu vực ít có
sự thay đổi được ghi nhận ở Wielkopolska (11,3%), Podlasie (13,8%) và Kujavia-
Pomerania (14,7%).[70].
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mạnh quy mô các trang trại nông nghiệp của
Ba Lan trong thời gian qua thấy được rõ hơn khi Ba Lan chính thức trở thành thành
viên EU với việc hỗ trợ các khoản ngân sách tài chính nhằm tái thiết lại trang trại,
đào tạo nghề cho cho các chủ trang trại, hỗ trợ thu nhập cho các nông hộ của Chính
sách nông nghiệp chung (CAP). Trong giai đoạn 2004-2015, Ba Lan là quốc gia
thành viên nhận được các khoản tài chính hỗ trợ phát triển nông nghiệp cao hơn so
với mức đóng góp ngân sách của nước này vào quỹ chung của EU. Cụ thể, tổng số
tiền giải ngân của CAP thông qua các quỹ đầu tư, tái thiết, đào tạo nghề là 122,45 tỉ
Euro trong khi số tiền Ba Lan đóng góp vào quỹ chung của EU là 38,7 tỉ Euro[105].
Thứ ba, quá trình tích tụ đất đai cũng bị ảnh hưởng bởi sự chuyển dịch đất
nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
Sự bùng nổ các khu công nghiệp, khu chế xuất, hay quá trình đa dạng hóa
kinh tế khu vực nông thôn với việc thúc đẩy việc tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
81
phát triển các lĩnh vực phi nông nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thônTheo số
liệu thống kê cho thấy, diện tích đất nông nghiệp của Ba Lan vào những năm 1990
tương ứng 18,7 triệu ha, chiếm 61,2%, diện tích đất rừng với 9,338 triệu ha chiếm
29,9% còn lại là đất đô thị (diện tích lãnh thổ Ba Lan 31,268 triệu ha), trong đó đất
nông nghiệp có khả năng trồng trọt chiếm 77%. Cụ thể, trong giai đoạn 1990-2014,
diện tích đất nông nghiệp Ba Lan đã giảm từ 18,7 triệu ha năm 1990 xuống 14,5
triệu ha năm 2014, tương ứng với mức giảm 22,4%[135].
Tích tụ đất nông nghiệp dẫn đến sự biến động lớn về giá đất nông nghiệp,
đặc biệt sau khi Ba Lan trở thành thành viên EU
Như đã đề cập ở trên, Chính phủ Ba Lan đã thực hiện phân loại đánh giá
chất lượng đất nông nghiệp, trang trại theo quy mô 6 mức và chia làm 4 khu vực.
Việc phân loại như vậy ngoài mục đích quản lý cũng được xem là nhân tố tạo ra các
mức giá đất nông nghiệp khác nhau trên thị trường. Cùng với đó, những điều chỉnh
trong các chính sách tài chính nông thôn, chính sách tự do hóa thương mại, đất đai
đã tạo ra sự bùng nổ trong mua bán, chuyển nhượng đất đai trong nông nghiệp Ba
Lan với mức giá tăng lên 4 lần trong giai đoạn 2004-2013[135].
Làn sóng mua bán đất nông nghiệp của các nhà đầu tư đến từ các nước
thành viên EU15. Mặc dù có nhiều hạn chế quy định người nước ngoài mua bất
động sản, và sự hạn chế này phải được dỡ bỏ vào năm 2016, song theo đồ thị dưới
cho thấy số giấy phép mà chính phủ Ba Lan cấp cho người nước ngoài năm 2004 là
786 giấy phép mua bất động sản và 279 giấy phép mua đất nông nghiệp, năm 2016
con số này giảm xuông là 200 và 51 giấy phép mua đất nông nghiệp. Tính trung
bình giai đoạn 2005-2016, chính phủ Ba Lan đã cấp 220 giấy phép mua bán bất
động sản cho người nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài đến chủ yếu từ Đức,
Hà Lan và Đan Mạch.
82
Hình 3.2. Số lượng giấy phép cấp cho người nước ngoài mua bất động sản ở Ba
Lan
Nguồn: Agnieszka Stacherzak et.al, (2019), State Interventionism in
Agricultural Land Turnover in Poland. [64]
Hoạt động sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn của Ba Lan nhận
được nguồn tài chính lớn từ khu vực
Nâng cao khả năng cạnh tranh sản xuất nông nghiệp trong chương trình phát
triển nông thôn bao gồm tổng thể các chương trình hành động như đào tạo nguồn
nhân lực nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng[92] Ngân sách hỗ trợ của EU dành
cho lĩnh vực này giai đoạn 2004-2006 chiếm 61%; giai đoạn 2007- 2013 46% và
giai đoạn 2014-2020 là 54% . Trong cơ cấu chi tiêu này thì Ba Lan tập trung cho chi
tiêu nông nghiệp lên đến 46% cao hơn mức bình quân của EU là 32%.[92 ]
Tỷ trọng một số sản phẩm nông sản của Ba Lan trong EU 28 ngày càng cao:
Việc áp dụng các chính sách hỗ trợ sản xuất, chính sách xúc tiến xuất khẩu, chính
sách tài chính đến nay, giá trị nông nghiệp Ba Lan đứng thứ 7 trong EU (Pháp
Đức, Italy, Tây Ban Nha, Vương Quốc Anh, và Hà Lan). Một số sản phẩm nông
nghiệp Ba Lan chiếm tỷ trọng lớn nhất trong EU 28 là táo 26,4%, thịt gia cầm
15,1%, bắp cải trắng 31,4% , tiếp đó là các sản phẩm như lúa mạch, yến mạch và
đứng thứ 3 trong EU là củ cải đường, lúa mỳ và khoai tây ( MARD, 2015)
Các chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách cổ phần hóa các trang trại, chính
sách thúc đẩy năng lực cạnh tranh đã tạo ra sự nhảy vọt trong xuất nhập khẩu
83
hàng nông sản. Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng nông sản trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa của Ba Lan ngày càng tăng, trong đó, xuất khẩu tăng từ 8,9% năm
2004 lên 13,4% năm 2017; nhập khẩu từ 6,1% lên 9,6% năm 2016.
Hình 3.3: Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng nông sản Ba Lan
Đơn vị: %
Nguồn: Czytaj również (2018) Polish agri-food exports in 2017[76]
Xét về giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu, năm 2017, tổng giá trị thương mại
các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp của Ba Lan vượt quá 46,2 tỷ EUR, trong đó
xuất khẩu đạt mức 27,3 tỷ EUR, nhập khẩu chiếm 18,9 tỷ EUR. So với năm 2004,
điều này cho thấy thương mại đã tăng hơn 4,5 lần, trong khi đó chỉ riêng xuất khẩu
đã tăng hơn năm lần và mức tăng nhập khẩu là hơn bốn lần.
Hình 3.4 : Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản Ba Lan giai đoạn
2004-2017
Đơn vị: Tỷ Euro
Nguồn: Czytaj również (2018) Polish agri-food exports in 2017[76]
84
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản cũng có sự thay đổi đáng kể, các
sản phẩm nông sản xuất khẩu của Ba Lan không chỉ xuất nhập khẩu từ thị trường
các nước trong khu vực mà đã mở rộng ra nhóm các quốc gia độc lập, nhóm các
nước EFTA ( Iceland, Thụy Sỹ) nhóm nước NafTA ( Canada, Mexico, Mỹ)
Phân tích và đánh giá về vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế
nông thôn Ba Lan, tác giả luận án cho rằng, Chính phủ Ba Lan tiếp tục đặt ra các ưu
tiên phát triển nông nghiệp bởi một số nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, tiến trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp Ba Lan vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi EU trên các góc độ từ quá trình hợp nhất trang trại, đến
nâng cao năng lực cho lao động sản xuất nông thôn, ứng dụng khoa học kỹ thuật
Chính vì vậy, xuyên suốt trong tiến trình phát triển kinh tế nông thôn, thì nông
nghiệp vẫn được coi là một trong những mục tiêu quan trọng.
Thứ hai, nông nghiệp Ba Lan vẫn bị coi là lĩnh vực thâm dụng lao động khi
mà tỷ lệ lao động trong sản xuất nông nghiệp chiếm 11% song đóng góp vào GDP
chỉ chiếm 2,4%. Vì vậy, phát triển nông nghiệp với việc ứng dụng các thành quả
khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cầu kinh
tế nông thôn cũng là một nhân tố quan trọng mà chính phủ Ba Lan cần phải cân
nhắc trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
Thứ ba, quá trình chuyển đổi, tích tụ đất đai đã đạt được một số thành công
nhất định, song tỷ lệ các trang trại nhỏ vẫn cao hơn mức bình quân khu vực. Điều
này gây ra những hạn chế đối với Ba Lan khi áp dụng khoa học công nghệ vào
trong sản xuất, gia tăng chi phí sản xuất, giảm lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, mục tiêu
đặt ra nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh
sản xuất nông nghiệp Ba Lan với các quốc gia khác trong khu vực.
Thứ tư, thu nhập phần lớn người dân khu vực nông thôn dựa vào hoạt động
sản xuất nông nghiệp là chính, dẫn đến tỷ lệ nghèo đói trong nông thôn Ba Lan cao.
Thứ năm, thiếu hụt trong đầu tư về hạ tầng sản xuất và manh mún của các
trang trại dẫn tới hiệu quả sản xuất hiện còn thấp so với các nước EU 15.
85
Với thực trạng như vậy, NCS cho rằng thúc đẩy khả năng cạnh tranh sản
xuất nông nghiệp tiếp tục được xem là một trong những trọng tâm mà Ba Lan cần
phải giải quyết trong phát triển kinh tế nông thôn.
3.2.2.2. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp khu vực nông thôn
Việc thực thi chuyển đổi từ nền kế hoạch tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường đã mở ra các cơ hội cho hoạt động sản xuất phi nông nghiệp ở khu vực
nông thôn Ba Lan. Tuy nhiên, các hoạt động phi nông nghiệp ở Ba Lan vẫn còn
thấp, dẫn đến mức độ đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn chưa thực sự cao.
Những đặc trưng chính trong phát triển các hoạt động phi nông nghiệp thể hiện:
Tỷ lệ lao động nông thôn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp còn
thấp
Trong những năm đầu thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, Ba Lan phải đối mặt
với những khó khăn về nguồn lực tài chính, dẫn đến cơ sở hạ tầng, dịch vụ giao
thông khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế, các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong khu vực nông thôn chưa được phát triển mạnh. Số lượng cư dân nông thôn
tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp trong giai đoạn 1989 còn rất thấp với
tỷ lệ 6%[79].
Phân tích sự tham gia lao động khu vực nông thôn vào các hình thức phi
nông nghiệp ở khu vực nông thôn năm 2001, cho thấy 69% dân cư nông thôn tham
gia vào các hoạt động dịch vụ, 25,2% tham gia trong lĩnh vực công nghiệp, số
lượng tham gia vào nông nghiệp chỉ chiếm đến 5,7%[119]. Các hoạt động phi nông
nghiệp trong khu vực nông thôn Ba Lan bao gồm: Hoạt động của các doanh nghiệp,
các trang trại chuyển đổi mục đích sang các lĩnh vực như sản xuất chế tạo, xây
dựng, dịch vụ và du lịch nông thôn.
Hoạt động phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phat_trien_kinh_te_nong_thon_ba_lan_trong_nhung_tha.pdf