Con người văn hóa được xem nhưmột nội dung tựsựhiện diện trong 
VXNT Kim Lân, làm cho các sáng tác của ông mang thêm một phong vị độc đáo 
ngay cảtrên bình diện nội dung tưtưởng. “Văn hóa” ở đây có thểhiểu đó là 
những phong tục tập quán, những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng” của 
những con người bình dị ởlàng quê Bắc Bộ. Đó còn là văn hóa ứng xửgiao tiếp 
trong quan hệgiữa con người với đồng bào, đồng loại, với người thân, với quê 
hương đất nước. Những nếp văn hóa nhưvậy ngấm sâu vào sốphận, cốt cách, 
tâm trạng của nhân vật Kim Lân, trởthành một góc tiếp cận con người và hiện 
thực, một hình tượng nghệthuật vềcon người văn hóa. Và nhà văn trong niềm 
nhiệt hứng đã kểcho chúng ta vềnhững con người nhưthế. Con người văn hóa 
ấy không còn là quan niệm mà đã trởthành một nội dung tựsự. 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 137 trang
137 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4569 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc hỏi, được đào luyện, tích trữ kinh 
nghiệm từ hàng chục năm trời, có những kinh nghiệm rút ra từ những thất bại cay 
đắng. Các nhân vật này giỏi từ việc chọn giống cho đến việc chăm nuôi, rồi đến 
việc luyện ngôn ngữ nhà nghề gọi là “vần” (đối với gà), “vực” (đối với chó 
săn)… Điều này thể hiện trong cách chọn giống, cách thưởng thức, cách đánh giá 
nhận xét chi li, kỹ lưỡng các chi tiết hay - dở, đẹp - xấu, độc hay thường. “Tiếng 
đàn chim của ông Đồ Sơn khắp mặt làng chơi ai cũng biết. Họ tấm tắc khen 
không hết lời. Nào “đàn quả đẹp”; “đông đen” và “tròn trặn”, nào vòng hay và 
ở “thẳng băng”. Nào vòng đánh hay và “cao ơ”(...) Tiếng rằng đàn quả kể cũng 
đã coi như được đấy, nhưng xem ra còn có nhiều “tội”, còn có thể đánh “tùy”, 
đánh “nhàn”, đánh “tiên hành”, đánh “động” được. Cho nên ông Đồ vẫn để ý 
loại bớt những con nhũng đàn và yếu ấy đi. Ông đoán con nào khỏe tất phải 
“tiên hành” và “động”, con nào yếu tất phải “nhàn” và “tùy”…” [52]. Hàng 
loạt từ ngữ nhà nghề lại một lần nữa được Kim Lân tung ra như một người chơi 
am hiểu từ trong cốt lõi. Chỉ cần nhìn vào một truyện thôi đã thấy mật độ các từ 
nhà nghề dầy lên như thế nào: liên tam trúng, vần thượng, trung chính, thượng 
tiểu tùy, đài tùy, trung khứ, đại biên, cào, bị, sơ, tràng, rơi lạc phao… (Đôi chim 
thành). Còn ở truyện “Con mã mái”, mật độ các từ nhà nghề còn dầy đặc hơn 
thế nữa: bầu dọc, khâu dao, thái, buông… Có một điều lạ là dù dùng nhiều biệt 
ngữ như vậy mà khi đọc vào truyện người ta không thấy cản trở, không thấy rờm 
 58
mà trái lại càng thấy thú vị. Có thể nói ở đây, tác giả đã làm được cái việc: trang 
bị những tri thức tối thiểu cho người đọc về những thú chơi đặc sắc ở làng quê 
Việt Nam - những tri thức mà người bình thường phổ thông đa số không dễ gì có 
được. 
Điểm giống nhau thứ hai của các nhân vật này là một khi họ đã mê mẩn vào 
thú chơi thì không coi chuyện gì là quan trọng hơn nữa. Từ bữa ăn, bữa uống 
cũng chẳng coi ra gì, đến cái khó nhọc lặn lội ngoài đồng cũng không quản ngại. 
Ốm đau càng không coi ra gì. Cái ấm nước đang trào cũng coi là không có ý 
nghĩa gì bằng việc cần phải ngay lập tức lấy thóc cho chim ăn. Đôi chim quý đã 
về là Trưởng Thuận vui, ông hết ốm, hết lử khử, hết cáu bẳn ngay (Đôi chim 
thành). Còn Cả Chuẩn (Con mã mái) thì mê đến nỗi đánh liều cậy nhờ kẻ 
chuyên đào tường khoét ngạch đi ăn cắp con Mái Củi Tạ về. Với ông Đồ Sơn lại 
say mê chơi chim một cách quá quắt, khi có ai nói về chim thì “Ông nói thao 
thao không biết chán, không biết mỏi mệt. Hình như với ông chỉ có những “cái 
đực rợi”, “cái mái xanh”, “cái mốc ba đai”, nghĩa là chỉ có những con chim bồ 
câu óng ả, mượt mà là đáng kể thôi. Còn ngoại giả ông thây kệ tuốt. Về sự làm 
ăn buôn bán ông dửng dưng, chẳng thiết bàn bạc tới” [52]. Các nhân vật này vui 
cái vui cùng vui với con vật nuôi, buồn cái buồn của vật nuôi khi thấy chúng ốm 
đau hoặc không như ý. Thậm chí sẵn sàng sẵng giọng, cáu bẳn với vợ con khi 
thấy các con vật nuôi bị sa bẩy hoặc đau ốm. Ngược lại, nếu trong lòng cảm thấy 
vui vẻ, hài lòng về những con vật nuôi, bỗng ra ngay cái giọng ngọt ngào, thậm 
chí tán tỉnh, lẳng lơ. “Đấy bà này nghe xem. Có phải con gà mái kêu”. “Vừa 
đau, vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai 
cũng thế! Ai cũng thế! Không?” [65]. Ví dụ trên cho thấy tâm lý của người nghệ 
sĩ đồng quê trong lời ăn tiếng nói. Cái tâm tính của những người thôn quê bộc 
trực, giản dị, chất phác như thế. Có thể nói, cách miêu tả tâm lý theo cung cách 
như vậy sau này lại được phát huy thêm ở những người như ông Cả Luốn gốc 
me, bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê. Nhờ vậy mà các nhân vật nông dân 
của Kim Lân thường đưa lại cho người đọc cảm giác gần gũi, chân thực mà hóm 
 59
hỉnh, thú vị. Nhà văn có cái biệt tài hiểu thật chính xác và tinh tế tâm lý của 
người nông dân Việt Nam dưới góc độ “con người văn hóa”. 
Cũng như các nhân vật thượng võ, các nhân vật tài hoa nghệ sĩ làng quê này 
đặc biệt tôn thờ danh dự của làng nơi mình sinh ra, lớn lên, gắn bó. Niềm vui 
chiến thắng được cả làng, cả phủ vui mừng. Nỗi thất bại thì cả làng, cả phủ xôn 
xao, bàn tán, tỏ ra không hài lòng, thậm chí bất bình. Các tay chơi “Ai cũng tỏ ra 
bất mãn về quần chim của ông Trưởng bị đánh hỏng ở hội Đại Đình hôm vừa 
qua” [65]. Con Mã Mái trước khi đi dự hội, bao nhiêu dân làng đến nhà xem 
“khách mỗi lúc một đông thêm. Gian nhà vừa lụp xụp, vừa chật chội bộn lên 
những tiếng người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ” [65]. Rồi các tay chơi 
lập thành cả một đoàn cùng bố con Cả Chuẩn kéo nhau đi dự hội. Tinh thần cộng 
đồng là một đặc điểm của con người văn hóa, nó tiêu biểu cho văn hóa làng, xã 
Việt Nam nói riêng và dân tộc nói chung. 
 Ngoài ra, khi đề cập đến các nhân vật được coi là nghệ sĩ làng quê, nhà 
văn Kim Lân còn cho người đọc thấy được mối ưu tư và tình yêu của họ đối với 
nền văn hóa dân tộc. Một ông kép hát tuồng nay đã về già. Đời sống vật chất thì 
túng thiếu, lại nghiện thuốc phiện. Cái môn nghệ thuật tuồng thì “cũng đến ngày 
không được ai chuộng nữa” [66]. Ông nằm bẹp gốc nhà ôm niềm hoài cổ và nghĩ 
cách xoay tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Khi được làng mời ra dựng lại môn nghệ 
thuật này, thì ông đã đem hết chút tài mọn cuối cùng bằng một niềm hăm hở, 
sung sướng được sống lại nghề cho lớp trẻ. Nghề tổ được dựng lại - sức sống 
nghệ thuật bắt đầu được nhen nhóm trở lại, chẳng những ông sung sướng, mà cả 
dân làng, các hàng chức sắc của làng cũng mừng theo. Tất cả vì cái uy tín của 
làng, danh dự của làng. Nhưng than ôi, niềm sung sướng mới đến của ông mau 
chóng bị đốn gãy. Không có một đứa trẻ nào theo học cả. Thế là cái ý định phục 
dựng lại bộ môn tuồng cổ hoàn toàn thất bại. Là một nhân vật sống chết với 
nghề, thân bại danh liệt cũng vì nghề, trong ông không khỏi uất nghẹn, một nỗi 
đau của một kẻ đã bị thời thế vượt qua, loại ra ngoài lề thế sự. Đó cũng là nỗi đau 
 60
của con người văn hóa - những “kiếp tài tử đa cùng” mà nhà văn đã bày tỏ sự 
cảm thông sâu sắc. 
Thứ ba là mẫu nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo”: Nói đến mẫu nhân vật này, 
người đọc sẽ nghĩ ngay đến những con người bé nhỏ, thường ngày lam lũ, vô 
danh tiểu tốt ở làng quê nông thôn Việt Nam nói chung trong cả hai giai đoạn 
trước và sau Cách mạng tháng Tám. 
Có thể nói, nhìn người nông dân ở góc độ con người văn hóa, nhà văn Kim 
Lân không chỉ dừng lại với những con người thượng võ, tài hoa, bặt thiệp mang 
thứ “phong lưu đồng ruộng”. Hay nói khác đi, ông không chỉ làm sống lại những 
phong tục, những thú chơi, những sinh hoạt văn hóa truyền thống của con người 
ở làng quê Bắc bộ Việt Nam, mà sâu xa hơn, Kim Lân muốn tạo dựng trong 
VXNT của mình, cái cốt cách tâm hồn của con người Việt Nam - cái cốt cách mà 
ông cho là rất cao quý, đặc biệt là cốt cách tâm hồn của người lao động Việt 
Nam, người phụ nữ Việt Nam - những con người nghèo mà chính Kim Lân chứ 
không ai khác đã định danh cho họ là “Những con người mà như là những đầu 
thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh của cuộc sống” [65]. 
 Có lẽ chính vì thế mà trên hành trình khám phá và thể hiện những người 
nông dân Việt Nam ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ, Kim Lân đã tập trung xoáy 
vào chủ đề sức sống mãnh liệt của con người ngay trong những lúc cùng quẫn, 
tuyệt vọng nhất. Đây chính là một biểu hiện cụ thể nhất của con người văn hóa. 
Rất nhiều truyện của Kim Lân nói chung không chỉ khám phá và thể hiện mà còn 
khẳng định bản chất lành mạnh, khỏe khoắn trong nhân cách của người lao động, 
như khẳng định một chân lý. Ông viết “Những người đói, họ không nghĩ đến cái 
chết, mà họ nghĩ đến cái sống. Và người đói ngày ấy cũng có đạo lý. Cái đạo lý 
ấy của những con người đau khổ phải chăng là niềm mong đợi, khát khao một 
cuộc đổi đời mà “lá cờ đỏ” của Việt Minh đang vẫy gọi họ” [98]. Điều này có lẽ 
tập trung tiêu biểu nhất ở nhân vật Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ - mẹ Tràng trong 
truyện ngắn “Vợ nhặt”. Anh Tràng lấy vợ trong hoàn cảnh giữa nạn đói đã mang 
đến cho con người một niềm tin mãnh liệt về sự sống đang tắt lụi dần giữa cảnh 
 61
đói khát, chết chóc, thê lương, ảm đạm. Cụ thể là Tràng đem lại cho “người vợ 
nhặt” - con người đói rách có cơ hết sống ấy một chỗ dựa tin cậy, tồn tại, khiến 
chị ta vốn chao chát, chỏng lỏn đã sớm hoàn lại tính tình hiền hậu, đúng mực. Và 
với bản thân Tràng cũng thế - anh tự thấy mình “nên người” hơn, anh cảm thấy 
phải có “trách nhiệm” và “bổn phận” đối với gia đình hơn. Tất cả càng làm cho 
người đọc thấm thía hơn về vẻ đẹp trong tâm hồn những con người nghèo, cần 
lao cơ cực, cái chết luôn cận kề sự sống nhưng họ vẫn luôn yêu thương, cưu 
mang, đùm bọc nhau, vẫn luôn ước ao thèm khát hạnh phúc - dù đó chỉ là hạnh 
phúc nhỏ nhặt, tầm thường. Song đáng nói hơn nữa, ở nhân vật bà cụ Tứ - mẹ 
anh Tràng - một người mẹ già nua, nghèo khó có tấm lòng nhân hậu và rất yêu 
thương con. Bà đã thương con mà chấp nhận người đàn bà xa lạ về nhà làm dâu 
mình. Thương con, bà lại càng thương hơn đứa con dâu tội nghiệp của mình. Có 
lẽ, có một sự đồng cảm cũng là đàn bà con gái với nhau nên bà cảm thấy xót 
thương cho “người vợ nhặt”. Tình thương của bà thật lớn lao và cảm động. Đó là 
một thứ tình thương rất gần với bản năng, một lòng thương xót tự nhiên giữa mẹ 
và con, giữa con người với con người. Tình thương này đặc biệt tiêu biểu cho 
tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam có từ ngàn đời. Nhưng điều quan trọng là ở 
bà cụ Tứ, chính là niềm tin và khát vọng sống lớn lao trong tâm hồn bà. Chính bà 
đã thắp lên ngọn lửa hy vọng vào cuộc sống cho vợ chồng Tràng. Bữa cơm đầu 
tiên, bà đón tiếp nàng dâu mới chỉ với vài bát cháo loãng cùng lùm rau chuối thái 
(cả nhà cùng ăn) và một nồi “chè khoán” nấu loãng cám mà bà cho là “ngon đáo 
để”, “xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!” [65]. Bà nói toàn là chuyện vui, 
chuyện sung sướng sau này. Trên cái khuôn mặt bủng beo của bà, luôn hiện lên 
một niềm vui “rạng rỡ” và từ niềm vui đó bà đã phác họa ra cảnh nuôi gà để có 
thể “may ra ông giời cho khá”. Tình thương của bà cụ Tứ thật lớn lao và cảm 
động. Chính tình thương này đã góp phần xua đuổi cái bóng đen của đói khát và 
cái chết ra khỏi cuộc sống của con người. Và đó không chỉ là tình thương vô bờ 
bến của tình mẹ đối với con, mà còn chính là niềm tin, sức sống to lớn của con 
người Việt Nam - đặc biệt là người phụ nữ: dù hoàn cảnh sống có bi đát, có 
 62
nghèo đói, túng thiếu, cái chết có cận kề với sự sống đi chăng nữa, nhưng họ vẫn 
cưu mang, đùm bọc, yêu thương nhau, vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống và 
hướng đến ánh sáng Cách mạng với một tương lai tươi sáng. Đó cũng chính là vẻ 
đẹp thuộc về tâm hồn Việt, văn hóa Việt. 
Nhân vật Đoàn trong truyện ngắn “Ông lão hàng xóm” cũng thế. Đoàn bị 
quy oan theo quốc dân Đảng, đang bị những nhân vật đội nhân danh cách mạng 
truy bức, làm nhục. Không chỉ có Đoàn, mà cả đồng đội của anh - những chiến sĩ 
trung kiên của Cách mạng như Mùi cũng bị quy oan và đã bị bắt. Những lời hát 
của ông lão hàng xóm như một ngụ ý về thói đời oan nghiệt, về nỗi oan khúc của 
kiếp người, về lòng đồng cảm đầy ân tình, cảm động nhưng không dám công 
khai trong tình cảnh khắc nghiệt lúc bấy giờ. Điều đáng nói là nhân vật Đoàn 
trong lúc bị đày ải, bị ép cung, bị dồn tứ phía, kể cả bà con và người thân, nhưng 
anh đã hai lần tâm niệm, như tự thề nguyền với lương tâm và dũng khí của mình: 
phải sống. Tác giả để cho Đoàn tâm niệm: “Và Đoàn chết đi, liệu đã thoát chưa? 
Hay là rồi đây người ta sẽ cho rằng Đoàn trốn đấu tranh? Bị đồng bọn cắt đứt 
đầu mối? Không, Đoàn phải sống! Cho dầu hoàn cảnh có đắng cay, tủi nhục đến 
chừng nào đi nữa, Đoàn cũng phải sống. Tình thương yêu và bổn phận làm cha, 
làm chồng day dứt trong lòng, Đoàn không thể trốn mà đi được” [65]. Hai lần, 
hai tiếng “phải sống” vang lên như một sự quyết đấu, giành lại chỗ đứng của 
thân phận giữa thời buổi đảo điên đó. 
 Đó còn là lòng ham sống khỏe khoắn, mãnh liệt của dì Bản, ông Mộc gù 
(Người chú dượng), chị Nhâm (Chị Nhâm), ông Tư (Cha con ông gác máy bay 
trên núi Côi Kê…). Họ đều là những con người bất hạnh, chịu nhiều đau khổ 
trong cuộc đời, nhưng họ vẫn luôn tiềm ẩn trong người một khát vọng sống, một 
niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai, vào cuộc sống mới có thể làm thay đổi 
cuộc đời của họ. Chúng ta hãy lắng nghe lời trăn trối thật cảm động của một 
người cha trước khi tắt thở, vẫn khẩn thiết kêu gọi các con tìm đất sống: “Cố lên! 
Các con ơi! Thái Nguyên, Bắc Giang đất rộng người thưa. Đồi bãi rộng, khoai 
sắn nhiều…” [65]. Và cuộc đi tìm đất sống của một gia đình gồm mười một 
 63
người, cuối cùng người thì chết, người thì mất tích, chỉ còn lại hai vợ chồng ông 
Tư. Lời văn của Kim Lân rưng rưng khi nhắc đến nỗi mất mát này “Cái hôm đầu 
tiên hai vợ chồng ông lên khai phá trên quả núi này, ông đã khóc như mưa, như 
gió. Mười một người trong gia đình bỏ làng ra đi tìm đất, bây giờ có đất rồi thì 
chẳng còn ai…” [65]. Cho nên, người đọc mới thấu hiểu tại sao những lúc bom 
Mỹ ác liệt như vậy, ông vẫn không rời bỏ quả núi này. Nguyên do thuộc về sự 
gắn bó máu thịt của ông đối với mảnh đất đã được đánh đổi bằng bao nhiêu mạng 
người và nước mắt. Đó cũng còn là cái công việc báo động của ông được bà con 
dân chúng tin cậy và trao gửi. Đó cũng lại còn là lòng căm tức quân thù mà quyết 
tâm ngăn trừ tội ác của chúng…. Có thể nói rằng sức sống của nhân dân là bất tử, 
không sức mạnh nào có thể hủy diệt được. Cường quyền, bạo lực, bom đạn, cái 
đói, tất thảy đều trở nên bất lực đến mức thảm hại trước sức sống mãnh liệt của 
con người. Có thể nói các tác phẩm của Kim Lân như những bài ca ngợi ca sự 
sống, ngợi ca sự bất tử của con người, rộng hơn là của người Việt, tính cách Việt, 
tâm hồn Việt. Và đó cũng chính là cốt cách của con người văn hóa. 
Khi nhìn vào loại nhân vật này với tư cách là con người văn hóa, chúng ta 
không thể không nhắc đến tình cảm và trách nhiệm tự nhiên của họ đối với số 
phận và sự tồn vong của đất nước. Trước hết, phải kể đến là nhân vật ông Hai 
(Làng). Với ông Hai, yêu làng tức là yêu nước, gắn bó với số phận và danh dự 
của làng cũng chính là gắn bó với số phận và danh dự của đất nước. Khi nghe tin 
đồn, làng mình theo giặc, ông Hai tâm niệm: “Không thể được! Làng thì yêu 
thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù” [56]. Đúng là một thái độ lựa 
chọn dứt khoát, mặc dù phải chịu đau đớn. Nhân vật ông Tư (Bố con ông gác 
máy bay trên núi Côi Kê) cũng là một trường hợp điển hình. Ông căm thù quân 
giặc đã quấy phá cuộc sống dân lành vô tội, đem đến điêu linh, chết chóc cho 
dân. Ông tự cảm thấy có trách nhiệm làm công việc báo động cho tốt để tránh 
thảm họa cho dân. Nỗi lo lắng an toàn tính mạng của dân đã trở thành một tình 
cảm tự nhiên, cảm động. Đó chính là tình yêu quê hương đất nước một cách bình 
dị nhất. Hay như bà mẹ Cẩn (Bà mẹ Cẩn) cũng vậy. Bà hay khoe thằng con trai 
 64
là đang tại ngũ. Ban đầu có vẻ khó gần, nhưng dần dà mới hiểu, hóa ra bà rất 
thương quý người, biết lo lắng quan tâm cho cô giáo, lo lắng cho sự an toàn của 
bộ đội qua sông… 
 Trong những năm tháng kháng chiến, trước họa xâm lăng, bất kể ai là con 
dân của nước Việt đều đem lòng mến yêu và trách nhiệm đối với sự an nguy của 
đất nước. Thật tự nhiên, họ đã vô cùng gắn bó với quê hương, đất nước trong 
khung cảnh thời chiến. Lòng yêu nước đã trở thành một giá trị tinh thần cao quý 
chảy trong huyết quản của mỗi người. Có thể nói giá trị tinh thần cao nhất trong 
con người văn hóa đó chính là lòng yêu nước một cách tự nhiên máu thịt, cảm 
động và bền bỉ. Đó cũng chính là cái mạch nguồn thiêng liêng trong văn hóa 
Việt. 
Mỗi nhân vật, mỗi con người với một thân phận, một tâm tính, nhưng ở họ 
lại có những điểm chung thống nhất giống nhau: 
Thứ nhất: Họ đều là những người nông dân sống ở làng quê nông thôn Việt 
Nam “cày sâu cuốc bẫm”, “chân lấm tay bùn” nhưng lại giàu tình, nặng nghĩa, 
thông minh, hóm hỉnh, tài hoa, bặt thiệp, lạc quan, yêu đời luôn khát vọng sống 
mãnh liệt. 
Thứ ha: Họ đều là những người tự nguyện gắn bó với quê hương và tất cả vì 
danh dự của quê hương, của cộng đồng làng. 
Thứ ba: Họ không bị giới hạn của quyền lợi làng trói chặt, mà họ vẫn có khả 
năng nhìn rộng hơn trong mối quan hệ với vùng, miền, xứ sở, với quyền lợi của 
Tổ quốc. Sự miêu tả của nhà văn cho thấy, dù trong hoàn cảnh nào, ở trường hợp 
nào thì mối quan hệ giữa nhà - làng - nước là một quan hệ hữu cơ, máu thịt trở 
thành tình cảm gắn bó tự nguyện của mỗi con người. Và chính những điểm giống 
nhau này đã tạo nên vẻ đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam - những 
con người văn hóa mang đậm cái cốt cách, cái tinh hoa thuần túy của văn hóa 
Việt. 
 Nhìn từ góc độ văn hóa hay cốt cách văn hóa của con người, luận văn 
muốn thông qua khảo sát sáng tác VXNT Kim Lân để khẳng định phong tục - 
 65
sinh hoạt văn hóa làng quê trong các sáng tác ấy như một nguồn cảm hứng mãnh 
liệt, thiết tha, nghĩa là như một sự lựa chọn, một góc tiếp cận đời sống có ý nghĩa 
phong cách. Có thể xem đó là biểu hiện của cái nhìn văn hóa trong VXNT Kim 
Lân. 
2.2.2 Cảm hứng “phong tục” 
Nhà văn Kim Lân đã từng tâm sự về lý do ra đời của các truyện ngắn 
“phong tục” như sau: 
 “Anh có biết người đầu tiên xui tôi viết phong tục tập quán và các thú 
chơi dân giã là ai không? Chính ông Vũ Bằng (…), Ông ấy bảo: “Truyện tình 
ông không viết được đâu. Nhưng ông gửi thì tôi cứ cho đăng, tôi đổi tên tác giả 
là Lang Kim. Ông viết truyện nghèo khổ cũng được, nhưng không bằng những 
ông Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan. Các ông ấy đã thành rồi. Ông viết những 
truyện như Đôi chim thành, Con mã mái, Đánh vật, Chó săn…. thì không ai 
tranh chiếu của ông” [1]. 
Ở một chỗ khác, ông cho biết thêm: “Lúc tôi mới bắt đầu viết về thú chơi 
làng quê thì chán chường lắm. Nhưng về sau gặp Nguyên Hồng, Trần Huyền 
Trân …, các anh cho đó cũng là một đóng góp về văn hóa, đời sống của con 
người. Bên cạnh công việc vất vả hằng ngày người ta cũng còn biết đến thú chơi, 
thú tiêu khiển” [91]. 
 Các ý kiến của chính nhà văn đã giúp ta nhận ra cái lý do trực tiếp khiến 
ông đi vào con đường văn chương và viết thành công về đề tài “phong tục”. 
Song không chỉ đơn giản là như thế mà Kim Lân lại trở thành “một nhà văn 
phong tục hạng nhất của Việt Nam” [86]. Phải nói rằng chính làng quê đồng 
bằng Bắc bộ, đặc biệt là vùng Kinh Bắc, quê hương ông - nơi bảo lưu nhiều 
phong tục truyền thống văn hóa nhất Việt Nam ta đã nuôi dưỡng và tạo nên cảm 
hứng “phong tục” trong nhà văn, để rồi sản sinh ra một hồn văn Kim Lân độc 
đáo. 
 Khi viết về đề tài phong tục, Kim Lân đã hướng ngòi bút của mình mô tả ba 
loại phong tục làng quê: thứ nhất là những trò chơi dân gian trong các ngày lễ hội 
 66
như chọi gà, thả chim, đánh vật; thứ hai là những tục lệ cổ truyền trong làng quê 
như đuổi tà đêm ba mươi Tết hoặc tục cướp lúa làng do mối thù truyền kiếp; thứ 
ba là thú đi săn. Ngoài ra ở những tác phẩm khác tuy không trực tiếp viết về 
phong tục, nhưng cái khung cảnh làng quê, đất quê, người quê, vẫn cứ hiện ra rõ 
rệt, không lẫn, không nhầm được. 
Như trên đã nói “phong tục” chính là nguồn cảm hứng của cái đẹp mà Kim 
Lân đã “tìm” và “phát biểu” để người đọc có thể “trông nhìn” và “thưởng 
thức” bằng cảm xúc thật của mình. 
Do đó, với cảm hứng “phong tục” được ấp ủ và nuôi dưỡng từ cái nôi của 
văn hóa làng quê Bắc bộ nói chung - Kinh Bắc nói riêng ấy, Kim Lân không chỉ 
dừng lại ở việc làm sống dậy những sinh hoạt văn hóa ở làng quê ông với những 
thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng”. Mà từ trong sâu xa nhà văn còn muốn 
tạo dựng trong VXNT của mình cái cốt cách tâm hồn Việt, phong tục Việt, văn 
hóa Việt, có thể nói đó là cái tinh hoa văn hóa thuần túy của người nông dân ở 
nông thôn làng Việt có tự ngàn đời. 
Vậy, cái cốt cách văn hóa của tâm hồn Việt, phong tục Việt hay cái tinh hoa 
thuần túy ngàn đời của con người Việt Nam là gì? Qua VXNT của Kim Lân, có 
thể thấy cái cốt cách văn hóa, tinh hoa ấy đọng lại ít nhất hai nét nổi bật sau: 
 Thứ nhất: Đó là vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường gắn với những 
sinh hoạt văn hóa truyền thống, những thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng” 
của người nông dân. 
Hầu hết tất cả các truyện ngắn của Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám, 
phần lớn đều sáng tác theo khuynh hướng phong tục. Từ Đôi chim thành, Con 
mã mái, Chó săn, Tông Chim Cả Chuống, Cầu đánh vật - từ ngôi đất hình 
nhân bái tướng - đến chuyện voi cái ngựa lồng, Thượng tướng Trần Quang 
Khải – Trạng vật, Đuổi tà, Trả lại đòn, Ông Cản Ngũ … Cũng giống với những 
nhà văn khác như Tô Hoài, Bùi Hiển… khi viết về phong tục Kim Lân cũng thể 
hiện những thói xấu, những phong tục cổ hũ, lạc hậu, nhưng bằng nhãn quan 
phong tục của mình, bằng những tình cảm chân thật tha thiết của một người “vốn 
 67
là con đẻ của đồng ruộng”, Kim Lân đã có một điểm riêng rất rõ - nhà văn đã tập 
trung trình bày, miêu tả cặn kẽ những sinh hoạt văn hóa lành mạnh, những thuần 
phong mĩ tục, những thú chơi tao nhã của người dân nông thôn. 
Có thể nói “Đuổi tà” là truyện phản ánh tục lệ cổ truyền của dân tộc - tục 
đuổi tà đêm ba mươi Tết của người nông dân. Đây là một tập tục độc đáo được 
Kim Lân miêu tả trong không khí thiêng liêng đón Tết cổ truyền của dân tộc 
“Mọi người như yên lặng kính cẩn đón chờ cái năm mới rỡ ràng”. Đối với người 
nông dân, việc đuổi tà đầu năm rất quan trọng vì nó sẽ “ảnh hưởng đến sự thịnh 
đạt suy vi của cả dân làng sang năm mới tới đây”. Cho nên “Dẫu là nhà giàu 
hay nghèo, ai ai cũng cúng một cách vui vẻ, coi như là bổn phận”. Và “…Trẻ 
con người lớn à à theo sau reo hò ầm ĩ. Có người lượm đất, gạch ném theo nữa. 
Họ tin như thế là đang trục xuất ma đói, ma khát ra khỏi làng, năm mới đây dân 
làng làm ăn mới thịnh đạt” [65]. Họ tin tưởng rằng sau khi đuổi tà thì cuộc sống 
sẽ bình an, thịnh vượng hơn trong tương lai. “…Tất cả những vẻ đăm chiêu vì 
cuộc sống hàng ngày không còn vươn trên mặt họ lúc này. Một bầu không khí đề 
huề mà thân mến” [65]. Vì thế mà việc đuổi tà đầu năm như một thuần phong mĩ 
tục mang đậm màu sắc dân gian gắn liền với đời sống tinh thần của người dân 
quê. Nó như một sự gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong cộng đồng với 
một niềm tin thiêng liêng thể hiện ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc trong 
đời sống tinh thần của người nông dân. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn cao cả mà 
Kim Lân muốn gởi đến người đọc qua văn xuôi phong tục của ông. 
Phải quan sát nhiều và tìm hiểu kỹ lưỡng, Kim Lân mới miêu tả được như 
thế. Và cũng do vậy mà dù Kim Lân viết không nhiều, nhưng ông xứng đáng là 
một trong những cây bút xuất sắc về phong tục và con người đất quê. Qua những 
trang văn của nhà văn, người đọc có thể xem đó như những chỉ dẫn văn hóa về 
các ngón chơi của những cao thủ làng vật, hay chọi gà, thả chim, đi săn…Và 
trong từng trang viết, người đọc như được trực tiếp tham dự vào những thú chơi 
làng quê thật ấn tượng: “Dưới mái đình, những chiếc giải gà buộc lõng thõng. 
Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều 
 68
uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó ước mơ một chiếc 
thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều 
gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang thì lại hơn xương, 
hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. “Hơn một cái 
lông không chọi” cơ mà! Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ (…) là “đồng cân 
đồng lạng” (…) Đôi bên thỏa thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi 
bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm. Hai ông chủ kê đem gà ra sới. 
Mọi người xúm đông quay vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con 
Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo, và nhiều mánh lới có tiếng. 
Hết giao vài díu, Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay 
liệng đi nửa vòng. Lý Khản gọi liền: 
- Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây! 
Sầy giơ tay: 
 - Bắt! 
Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa 
Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa, Sầy sung sướng reo: 
 - Tin! … Tin! … Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không? 
Đôi gà cũng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lắm. Người xem đều 
xuýt xoa khen là “kỳ phùng địch thủ”. Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy 
như trát máu. 
Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước 
một đòn. Cho nên ông thả “lơi” cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng 
đòn một, trong lúc ăn thua này. 
Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người. 
Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp 
giọng một ít nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa xem lối thả của 
người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi 
Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được 
thế rộng, đúng “võ” con Mã Mái buông liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn 
 69
di truyền của mẹ nó - C
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LVVHVHVN003.pdf LVVHVHVN003.pdf