Luận văn Phong tục, tập quán hồi giáo của cư dân Ả rập khu vực trung đông

MỞ ĐẦU .4

1. Tính cấp thiết của đề tài: . 4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: . 5

3. Nội dung và mục tiêu nghiên cứu:. 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: . 8

5. Phương pháp nghiên cứu: . 8

6. Những đóng góp của luận văn: . 8

7. Bố cục luận văn: . 9

NỘI DUNG .10

Chương 1 VÀI NÉT VỀ HỒI GIÁO TẠI TRUNG ĐÔNG 10

1.1. Khái quát về địa lý khu vực Trung Đông 10

1.2. Tổng quan lịch sử Hồi giáo tại Trung Đông 11

1.3. Đức tin và giáo luật Hồi giáo 16

1.3.1. Đức tin của Hồi giáo 16

1.3.2 Kinh Qur’an , Hadit , Sunna và luật Shari’ah 17

1.3.3. Nghĩa vụ của người Hồi giáo:

Tiểu kết chương 1

Chương 2 PHONG TỤC, TẬP QUÁN LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA VẬT CHẤT PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG CON

NGƯỜI CỦA CƯ DÂN Ả RẬP KHU VỰC TRUNG ĐÔNG

2.1. Một số khái niệm về phong tục, tập quán

2.2. Phong tục tập quán liên quan đến văn hóa vật chất phục vụ đời sống con người

2.2.1. Ẩm thực

2.2.1.1. Thức ăn .

2.2.1.2 Đồ uống .

2.2.1.3. Phong cách ẩm thực .

2.2.2. Trang phục

pdf21 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 797 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phong tục, tập quán hồi giáo của cư dân Ả rập khu vực trung đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu vấn đề: Cho đến nay, sách báo về văn hoá Ả rập nói chung, phong tục tập quán Ả rập nói riêng tại Việt Nam gần như chưa có. Khi triển khai đề tài luận văn thạc sĩ này, khó khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tìm kiếm các công trình nghiên cứu trong nước về đề tài này, tuy nhiên, thường thấy nhất và tương đối phong phú là những công trình giới thiệu tổng quan về lịch sử và văn hóa Hồi giáo nói chung trong đó có đề cập đến khu vực Trung Đông, nơi ra đời của tôn giáo này. Điểm qua, chúng ta thấy đã có một số tác phẩm như Mười tôn giáo lớn trên thế giới của Hoàng Tâm Xuyên tái bản năm 2011, nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, hay cuốn Hồi giáo với đời sống chính trị Đông Nam Á của Ngô Văn Doanh xuất bản năm 2013, nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội hoặc cuốn Cẩm nang về Trung Đông, Đỗ Đức Hiệp chủ biên, Nhà xuất bản từ điển bách khoa xuất bản năm 2012 Các tác phẩm của các nhà nghiên cứu trên thế giới về lịch sử văn minh Ả rập hay lịch sử khu vực Trung Đông cũng được chọn dịch tại Việt Nam như cuốn Lịch sử văn minh Ả Rập của Durant Will do Nguyễn Hiến Lê dịch, nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, xuất bản năm 2006 hay cuốn Lịch sử Trung Đông – 2000 năm trở lại đây của tác giả Lewis Bernard, do Nguyễn Thọ Nhân dịch, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, xuất bản năm 2008 6 Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về kinh tế, chính trị ở Trung Đông do Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông tiến hành như cuốn Trung Đông những vấn đề và xu hướng kinh tế - chính trị trong bối cảnh quốc tế mới của Đỗ Đức Định xuất bản năm 2008, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội; Châu Phi – Trung Đông, những vấn đề chính trị và kinh tế nổi bật, do Đỗ Đức Định chủ biên, xuất bản năm 2012, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội; Một số sự kiện kinh tế - chính trị nổi bật của Châu Phi và Trung Đông năm 2012 do Kiều Thanh Nga chủ biên, xuất bản năm 2013, nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội; Một số vấn đề kinh tế - chính trị nổi bật của Trung Đông và xu hướng đến năm 2020, do Bùi Nhật Quang chủ biên, xuất bản năm 2011, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội... Tuy nhiên luâṇ văn của chúng tôi chỉ tâp̣ trung làm rõ một số nét tiêu biểu trong phong tục và tập quán Hồi giáo của cư dân Ả rập khu vực Trung Đông chứ không đi theo diện rộng và dàn trải trên tất cả các mặt như những tác giả khác. Về đề tài này cuốn “Nghiên cứu Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam” của Ban tôn giáo chính phủ do Dương Ngọc Tấn và Trần Thị Minh Thu đồng chủ biên, nhà xuất bản Tôn giáo, năm 2015 là gần gũi nhất. Trong cuốn sách này, các tác giả đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của Hồi giáo như giáo lý, giáo luật, lễ nghi và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Hồi giáo. Các tác giả cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối cụ thể về Hồi giáo, các nghĩa vụ của tín đồ đạo Hồi, trình bày về một số phong tục của cư dân Hồi giáo như ẩm thực, trang phục, cưới xin, ma chay. Bên cạnh đó không thể không kể đến cuốn Giới thiệu văn hóa Phương Đông của Khoa Đông Phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn do GS.TS Mai Ngọc Chừ chủ biên, Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2008. Trong chương một và hai, phần hai của cuốn sách này, Th.S Nguyễn Thanh Hoa đã đề cập đến văn hóa Ai Cập và văn hóa Ả rập. Tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát về lịch sử hình thành, phát triển các thành tố văn hóa Ai Cập cũng như Ả rập cũng như một số nét khái quát về văn hóa vật chất phục vụ đời sống và một số phong tục tập quán của cư dân Ả rập. Ngoài ra còn có cuốn“Một số vấn đề cơ bản về Hồi giáo ở Trung Đông (Văn hóa, xã hội và chính trị Hồi giáo)” do Ths. Nguyễn Thị Thu Hằng chủ biên, nhà xuất bản 7 Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2013. Trong cuốn sách này, các tác giả đã lấy tôn giáo học làm cơ sở phát triển để bước đầu làm rõ một số kiến thức nền tảng về văn hóa, xã hội và chính trị Hồi giáo ở Trung Đông, cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối cụ thể về bản chất của Hồi giáo cũng như sự chi phối của nó tới đặc điểm văn hóa ở Trung Đông, phân tích hiện trạng và dự báo xu hướng biến chuyển của vấn đề Hồi giáo tại khu vực này trong thời gian tới. Tuy nhiên, vấn đề văn hóa Hồi giáo ở Trung đông cùng với một số phong tục tập quán khu vực này chỉ được đề cập đến tại chương II với tiêu đề: „Văn hóa Hồi giáo ở Trung Đông”. Chính vì vậy, có thể nói rằng những tài liệu nghiên cứu tiếng Việt về phong tục tập quán Ả rập còn rất ít, chưa tương xứng với nhu cầu tìm hiểu ngày càng tăng trong lĩnh vực này. Tài liệu tiếng Anh hay tiếng Nga khá phong phú, có thể điểm qua một số như Lewis, Bernard (2009), Islam; The religion and the people, New Jersey USA hay Pew Research Center (2013), The World‟s Muslims: Religion, Politics and Society hay Арабские страны: обычаи и этикет của Ингхэм Брюс, Файад Дж. Космакова Е. xuất bản năm 2009; Ислам на современном Востоке của Анатолий Егорин, xuất bản năm 2004 ;Бизнес-этикет в арабских странах của Александр Сканави,ozon.r, năm 2010 Về tài liệu tiếng Ả rập, có rất nhiều công trình nghiên cứu công phu của các học giả khác nhau trên thế giới đề cập đến phong tục tập quán Hồi giáo của cư dân các nước khu vực Trung Đông, xin chỉ đề cập đến một số cuốn như ٍييأ ذًحأخيرصًنا رثبعزناو ذينبقزناو دادبعنا شىيبق (Từ điển phong tục tập quán Ả rập của Ahmad Amin) hayبهذينبقرو ةىعشنا دادبع cuả يثأ تيدأ رهبض (Phong tục tập quán của nhân dân, tác giả Abi Dahir) Đây thực sự là những tài liệu vô cùng bổ ích và phong phú đối với việc nghiên cứu về phong tục tập quán Hồi giáo của cư dân Ả rập khu vực Trung Đông và những vấn đề liên quan khác. Tuy nhiên, việc tiếp cận những tài liệu này không phải lúc nào cũng dễ dàng do trở ngại về mặt ngôn ngữ. Vì vậy, cần phải có nhiều hơn nữa các công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt về phong tục tập quán Hồi giáo của cư dân Ả rập các nước khu vực Trung Đông, góp phần đưa ra những góc nhìn khác nhau và đầy đủ về vấn đề này. 8 3. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu của luận văn là tâp̣ trung làm rõ một số nét tiêu biểu trong phong tục và tập quán Hồi giáo- những hoạt động sống được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử và ổn định thành nề nếp, những phương thức ứng xử giữa người với người của cư dân Ả rập khu vực Trung Đông, cung cấp cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về hội hè, lễ tết, trang phục, ăn uống, cưới xin, ma chay từ đó nâng cao nhận thức của bạn đọc Việt Nam về khu vực này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề phong tục tập quán Hồi giáo của cư dân Ả rập tại khu vực Trung Đông. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phong tục tập quán Hồi giáo tại một số quốc gia Ả rập khu vực Trung Đông, đặc biệt là Vương quốc Ả rập Xê Út, Qatar, Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, Cô- Oet, Palestin 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp tổng hợp, liệt kê và phân tích, phương pháp lôgíc và lịch sử. Ngoài ra, chúng tôi cũng kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để làm sáng tỏ những mục tiêu mà đề tài đặt ra. 6. Những đóng góp của luận văn: Trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của những người đi trước, tìm hiểu phong tục tập quán Hồi giáo tại một số quốc gia Ả rập khu vực Trung Đông, luận văn có những đóp góp như sau: - Giới thiệu một cách khái quát và khách quan về phong tục tập quán Hồi giáo tại một số quốc gia Ả rập khu vực Trung Đông. -Cung cấp cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách một bức tranh khá toàn cảnh về về phong tục tập quán Hồi giáo tại một số quốc gia Ả rập khu vực Trung Đông để có thể phục vụ cho các hoạt động đánh giá và dự báo, hoạch định chính sách của Đảng và Chính Phủ hiệu quả hơn - Cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại khu vực Trung Đông, người lao động Việt Nam đang sinh sống, lao động tại khu vực này những thông tin tương đối 9 đầy đủ để họ có thể dễ dàng thích nghi, vượt qua những rào cản do sự khác biệt trong suy nghĩ, giao tiếp, tập quán, thói quen để đạt được thành công trong công việc của mình. 7. Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Vài nét về Hồi giáo tại Trung Đông Chương 2: Phong tục tập quán liên quan đến văn hóa vật chất phục vụ đời sống con người của cư dân Ả rập khu vực Trung Đông Chương 3: Phong tục tập quán liên quan đến vòng đời và lễ hội của cư dân Ả rập khu vực Trung Đông 10 NỘI DUNG Chương 1 VÀI NÉT VỀ HỒI GIÁO TẠI TRUNG ĐÔNG 1.1. Khái quát về địa lý khu vực Trung Đông Trung Đông từ lâu đã được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại, nơi khai sinh ra ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới là Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo, đồng thời là cửa ngõ tiếp cận Trung Quốc và Ấn Độ của châu Âu. Nằm trên một vị trí chiến lược trọng yếu của thế giới, tiếp giáp ba châu lục lớn, khu vực này được coi là cầu nối giữa các thị trường châu Âu, châu Á và châu Phi. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của khu vực này trong việc kết nối giao thương giữa Đông và Tây, từ con đường tơ lụa thời kỳ Trung đại đến những đường ống dẫn dầu liên lục địa ngày nay. Bên cạnh đó, khu vực này còn nắm giữ 2/3 trữ lượng dầu khí thế giới [9, tr.27]. Trong bối cảnh chứa nhiều biến động như hiện nay thì những lợi thế về địa lý và tài nguyên đã giúp Trung Đông khai thác được những tiềm năng của mình trong các lĩnh vực an ninh, kinh tế, chính trị và có tiếng nói gây ảnh hưởng đến cục diện thế giới. Ở đây một câu hỏi được đặt ra Trung Đông bao gồm những quốc gia nào và dựa vào đâu để phân biệt khu vực Trung Đông với những khu vực khác? Do tính chất phức tạp và đa dạng về địa lý, chính trị, tôn giáo, văn hóa nên hiện nay trên thế giới không có một quan điểm thuần nhất về khu vực Trung Đông mà tồn tại một số cách phân loại khác nhau về khu vực này, tùy theo đặc điểm và mục đích của người phân loại. Tuy nhiên, có thể khái quát về một số cách phân loại chủ yếu như sau: - Dựa trên đặc điểm địa lý, Trung Đông là từ ngữ “để chỉ khu vực nằm giữa bán đảo Ả Rập và Ấn Độ” [4, tr. 9]. Còn theo người Anh, Trung Đông là khu vực trải rộng từ Li-bi đến Afghanistan [9, tr.10]. Tuy nhiên, thuật ngữ này thường được chỉ trích là nghiêng theo chủ nghĩa trọng Âu, coi châu Âu là trung tâm của thế giới, là hệ quy chiếu cho các khu vực khác trên thế giới. 11 - Dựa trên tính chất văn hóa, Trung Đông là khu vực bao gồm phía đông của thế giới Ả Rập, từ phía đông của Li-bi đến phía đông của Afghanistan[13, tr.14]. . - Một định nghĩa khác được sử dụng rộng rãi về Trung Đông là định nghĩa của Hiệp hội Vận chuyển Hàng không Quốc tế, định nghĩa này được sử dụng trong cách tính vé, thuế hành khách và hàng hóa trên thế giới... Theo định nghĩa này, cho tới năm 2006, khu vực Trung Đông bao gồm 16 nước nước là Bahrain, Ai Cập, Iran, I- rắc, Israel, Jordan, Cô-Oét, Li-băng, các vùng lãnh thổ Palestine, Oman, Quatar, Ả-Rập Xê-Út, Sudan, Syria, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Yemen. - Dựa trên cơ sở địa – chính trị - kinh tế, Ngân hàng thế giới định nghĩa khu vực Trung Đông gồm 15 nước là Bahrain, Iran, I-rắc, Israel, Jordan, Cô-Oét, Li-băng, Bờ Tây và Dải Gaza, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Mantan, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Yemen [9, tr.10]. Đây là các quan niệm khác nhau được các nước và các tổ chức quốc tế sử dụng tùy theo mục đích riêng của mình khi đề cập tới khu vực Trung Đông. Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi sẽ dựa trên quan niệm của Đề án thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Đông giai đoạn 2008 -2015 đã được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 25/12/2001. Theo Đề án này, khu vực Trung Đông gồm 16 nước Tây Á trong đó có 12 nước Ả rập là Bahrain, I-rắc, Jordan, Cô-Oét, Li-băng, Palextine, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Yemen và bốn nước không phải Ả rập là Iran, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và Síp với tổng diện tích khoảng 6 triệu km2 và dân số trên 260 triệu ngườì[13, tr.15]. Như vậy, theo quan niệm của Đề án thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Đông giai đoạn 2008 -2015,các nước Ả rập khu vực Trung Đông mà luận văn hướng tới gồm 12 nước là Bahrain, I-rắc, Jordan, Cô-Oét, Li-băng, Palextine, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Yemen. 1.2. Tổng quan lịch sử Hồi giáo tại Trung Đông Islam giáo (tiếng Ả Rập là ولاضلإا al-'islām), còn gọi là Hồi giáo theo cách gọi của người Trung Quốc là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo và là tôn giáo đang 12 phát triển nhanh nhất dù xét về mặt lịch sử Hồi giáo là tôn giáo mang tính quốc tế ra đời muộn nhất. Nói đến Hồi giáo người ta thường hay nghĩ đến một vùng sa mạc mênh mông cát trắng, đến những lái buôn Ả rập trong trang phục trắng toát cưỡi trên lưng những con lạc đà cao lênh khênh di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, từ ốc đảo này đến ốc đảo khác, đến những cây chà là trĩu quả, đến tác phẩm Nghìn lẻ một đêm nổi tiếng trên toàn thế giới. Đúng là bán đảo Ả rập là cái nôi đầu tiên của Hồi giáo và cả thế giới Hồi giáo (umma) đều hướng về Mecca, Medina nhưng sự phát triển quá nhanh của Hồi giáo từ cuối thời kỳ Trung Cổ và từ đầu thế kỷ XX lại đây đã biến những người dân Ả rập tại quê hương Hồi giáo thành thiểu số 3, tr.8khoảng 180 triệu người trong tổng thể khoảng 1,6 tỉ tín đồ Hồi giáo trên toàn thế giới. Trong tiếng Ả Rập, “Islam” được hiểu là thuần phục, tuân phục nghĩa là tín đồ phải thuần phục, tuân phục Thượng Đế. Như vậy, có thể hiểu rằng các tín đồ Hồi giáo giao phó toàn bộ tính mạng mình cho Thượng Đế và không ai khác ngoài Thượng Đế. Đây là điểm hoàn toàn khác biệt so với những người theo các tín ngưỡng đa thần ở bán đảo Ả Rập vào thế kỷ VII. Ngày nay, từ “Islam” được dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Đối với các tín đồ Hồi giáo, theo nghĩa hẹp, “Islam” biểu thị tôn giáo chân chính độc nhất đã có từ xa xưa, do nhà Tiên tri Mohammed giáo huấn qua Kinh Qu‟ran và qua các lời dạy cùng những hành động của nhà Tiên tri Mohammed được ghi chép và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thông qua quá trình ấy, Islam trở thành một hệ thống giáo lý, giáo luật, tập tục được thế hệ sau xây dựng và lưu giữ dựa trên cơ sở những lời dạy được cho là của nhà Tiên tri Mohammed. Hồi giáo ra đời vào đầu thế kỷ VII tại bán đảo Ả rập. Theo lịch sử thì một đêm năm 611, khi nhà tiên tri Mohammed (570-632) đang cô độc suy ngẫm trong một cái hang trên núi Hira, ngoại thành Mecca thì Thượng đế đã cử thiên sứ Gabriel đến truyền thần dụ cho nhà tiên tri Mohammed. Sau khi được khải thị chân lý‎ của kinh Qu‟ran, nhà tiên tri Mohammed đã trở thành “Thánh thụ mệnh”. Và những lời đầu tiên trong Kinh Qu‟ran chính là lời truyền của thiên sứ Gabriel: “Hãy nói: Nhân danh Thượng đế của các ngươi, Đấng đã sáng tạo ra con người từ cục máu. Hãy nói: Thượng đế của các ngươi là 13 đấng khoan dung nhất, người đã dạy bằng ngòi bút, dạy con người điều mà nó không biết”.11. tr. 75 Từ đó nhà tiên tri Mohammed đã bí mật rồi công khai truyền bá những tư tưởng tôn giáo mới. Ông kêu gọi người dân thành phố Mecca chấp nhận Thượng đế độc tôn, từ bỏ thờ thần tượng và cảnh báo về ngày tận thế, ngày phục sinh và địa ngục đang chờ đón những người không tuân phục. Lúc đầu nhà tiên tri Mohammed gặp rất nhiều khó khăn nhưng dần dần với sự nỗ lực của mình ông đã trở thành thủ lĩnh thần quyền và chính trị thực sự. Ông liên minh với các sheikh, tù trưởng các bộ lạc khiến cả vùng thống nhất về một mối và truyền bá đạo Hồi. Ông đã biến cộng đồng các tín đồ Hồi giáo thành một cộng đồng chính trị với hệ thống chính quyền luật pháp và những thể chế riêng dựa trên nguyên tắc thống nhất “tín đồ đạo Hồi là anh em”. Chính quyền tôn giáo– thế tục của nhà tiên tri Mohammed đã tổ chức quân đội chuyên nghiệp gồm toàn các tín đồ Hồi giáo. Đội quân thiện chiến này đã tham gia rất nhiều cuộc chiến lớn nhỏ với các tín đồ đa thần giáo. Với niềm tin “chiến đấu vì Thượng đế” và “những chiến sĩ tử vì đạo sẽ được lên thiên đàng” quân đội Hồi giáo càng đánh càng hăng, càng lớn mạnh và trong khoảng thời gian từ năm 622 đến năm 630 kết hợp những cuộc "thánh chiến" với những hoạt động chính trị và ngoại giao, nhà tiên tri Mohammad và những người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca. Sau khi chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một đế quốc bành trướng thế lực, tiếp tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng thế giới Hồi giáo. Cho đến thế kỷ XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc gia dân tộc từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ XIV đến XVI), Hồi giáo truyền bá xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Năm 632, nhà tiên tri Mohammed qua đời tại Mecca, hoàn thành sự nghiệp rạng rỡ của mình. Sau cái chết của ông, người Ả rập Hồi giáo tiếp tục mở rộng biên giới của cộng đồng đất nước Umma. Theo năm tháng, Hồi giáo đã phát triển một cách đáng kinh ngạc, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và trở thành tôn giáo có vị trí quan trọng nhất khu vực Trung Đông hiện nay. Là một tôn giáo ra đời muộn nhưng lịch sử thế giới chưa từng chứng kiến một tôn giáo nào phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh chóng như Hồi giáo và trở thành “biến cố lạ lùng nhất trong lịch sử thời Trung cổ” [10, tr.13] và“khiến cho 14 nhiều học giả đã phải lúng túng” [8, tr. 362]. Các sử gia đã phân tích những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển vượt bậc của Hồi giáo như sau: Thứ nhất, đất đai tại khu vực Trung Đông ngày càng khô cằn khiến cuộc sống du canh du cư trên đồng cỏ sa mạc của cư dân Ả Rập ngày càng trở nên khó khăn. Từ thế kỷ thứ sáu, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của nhà tiên tri Mohammed) đã bỏ nghề du mục để chuyển sang hoạt động thương mại. Họ tổ chức những đoàn lữ hành gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa, lương thực, vũ khí đi từ vùng này sang vùng khác để kinh doanh, buôn bán...Dần dần, cùng với sự gia tăng của nhu cầu thương mại, số lượng người tham gia đoàn lữ hành lớn dần có khi lên tới hàng nghìn người. Để tự vệ và bảo vệ hàng hóa mang theo, các thành viên trong đoàn đều phải biết cưỡi ngựa, lạc đà, sử dụng vũ khí và có chiến thuật quân sự. Ngoài ra, để làm tăng khả năng giao dịch thương mại, những doanh nhân Ả rập còn học nói nhiều ngoại ngữ, tìm hiểu địa lý và phong tục tập quán của các khu vực lân cận. Cùng với thời gian, những thương gia Ả Rập không chỉ tích lũy được kinh nghiệm buôn bán mà còn trở thành những quân nhân thiện chiến, có kỷ luật cao, có đầu óc lãnh đạo. Thứ hai, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII, toàn bộ khu vực Trung Đông bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay nhau thống trị. Hai đế quốc nói trên giao tranh liên miên trong suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ VII cả hai đều bị kiệt quệ cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo nên một khoảng trống quyền lực tại Trung Đông. Đây là điều kiện thuận lợi cho những đoàn kỵ binh Hồi giáo Ả Rập tiến vào khu vực này, để mở rộng bờ cõi của mình. Thứ ba, từ thời xa xưa, cư dân Ả Rập đã có niềm tin đối với nhà tiên tri Abraham, tin có Chúa trời (Thượng đế) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin vào các thiên thần v.v... Vì vậy, họ không coi Hồi giáo như một đạo ngoại lai mà là sản phẩm riêng của người Ả rập nên họ đã đón nhận tôn giáo này một cách tự nhiên và dễ dàng 7, tr.105. Họ coi các ayat trong Thiên kinh Qur‟an như những áng thơ văn tuyệt tác. Có thể nói, kể từ khi kinh Qur‟an ra đời, Hồi giáo trở thành một “sức mạnh chính trị và tinh thần không thể cưỡng lại được của toàn thể dân Ả Rập” [15, tr. 105], giúp các vương triều Ả Rập mở mang ảnh hưởng của Hồi giáo ra các khu vực lân cận. 15 Thứ tư, trong quá trình truyền bá Hồi giáo, các nhà lãnh đạo đã có những chính sách hợp lý nhằm thu hút tín đồ, khiến họ tự nguyện cải đạo theo Hồi giáo. Chính quyền của người Ả Rập “đối với tín ngưỡng tôn giáo của dân cư những vùng bị chinh phục thì dùng chính sách khoan dung chứ không phải là cưỡng bức theo đạo Hồi ”[16, tr. 69]. Ngoài ra, chính quyền còn ban hành các chính sách ưu tiên cho người Hồi giáo, ví dụ như “thuế quan buôn bán cũng có lợi đối với người Hồi giáo (2,5% so với 5% của những người khác”[14, tr.500]. Bên cạnh đó, chính sách thu thuế đầu người với mức thu 2 dinar đối với mỗi nam giới trưởng thành không phải tín đồ Hồi giáo cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến quá trình Hồi giáo hóa diễn ra mạnh mẽ ở những nơi đạo Hồi đi tới. Thứ năm, bản thân những giáo luật và nghi lễ Hồi giáo khi mới xuất hiện cũng có một số ưu điểm so với những những giáo luật và nghi lễ của xã hội đương thời. Có thể nói, Hồi giáo được cho là một tôn giáo tôn trọng quyền bình đẳng của con người. Kinh Qur‟an hướng đến những lớp người nghèo, cùng khổ, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch. Hồi giáo cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước Thượng đế, và có quyền trực tiếp cầu xin Thượng đế giúp đỡ hoặc tha thứ:“Tất cả mọi người hãy nghe đây. Ta đã tạo ra các ngươi từ một người đàn ông và một người đàn bà. Ta đã cho các ngươi tập hợp thành những dân tộc và những bộ lạc để các ngươi làm quen với nhau. Lẽ tất nhiên, đối với Thượng Đế, người cao quý nhất trong các ngươi là người kính sợ Thượng Đế nhất” (Qur‟an 49:13). Theo quan điểm Hồi giáo, không có tầng lớp trung gian giữa con người với Thượng đế, không cần phải có tăng lữ hay giáo hội để truyền đạt những mong muốn, nguyện vọng của con người tới Thượng đế. Ngoài ra, tín đồ Hồi giáo cũng không bị bắt buộc phải đến thánh đường làm lễ cầu nguyện (trừ ngày Thứ Sáu) vì Hồi giáo cho rằng Thượng đếcó ở khắp mọi nơi và có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi đâu với điều kiện hướng về thánh địa Mecca. Như vậy, có thể thấy rằng sự phát triển đáng kinh ngạc của Hồi giáo bắt nguồn từ những điều kiện thuận lợi bên ngoài, ưu điểm nội tại của tôn giáo này cũng như chính sách truyền bá Hồi giáo đúng đắn và hợp lý của các nhà lãnh đạo nhà nước Hồi giáo tại khu vực Trung Đông vào thời kỳ đầu mở mang lãnh thổ. 16 Từ một tôn giáo ra đời muộn, cho đến nay Hồi giáo đã nhanh chóng trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng tín đồ rất cao và có mặt tại mọi khu vực trên thế giới. Nghiên cứu mới đây của Pew Research Center đã cung cấp những thông tin tổng thể về sự phát triển mạnh mẽ của Hồi giáo, thể hiện ở số lượng tín đồ Hồi giáo tăng nhanh tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khảo sát tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy tính đến năm 2010, toàn thế giới có khoảng gần 1,6 tỷ tín đồ Hồi giáo thuộc mọi thành phần dân số, mọi lứa tuổi và chiếm tới 23,2% dân số toàn cầu ước tính gần 6,9 tỷ người. 1.3. Đức tin và giáo luật Hồi giáo 1.3.1. Đức tin của Hồi giáo Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế (الله) và nhà tiên tri Mohammad (ذًحي يجُنا) , tin vào các thiên thần là sứ giả của Thượng đế, tin vào các vị thiên sứ-những người nhận được thông điệp từ Thượng đế, tin vào sự bất tử của linh hồn, ngày Tận thế, ngày Phục sinh và ngày Phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Shari‟ah. Việc tuân phục ý chí và luật lệ của Thượng đế chính là cốt lõi tín ngưỡng của đạo Hồi. Không phải ngẫu nhiên mà thuật ngữ Islam theo tiếng Ả rập có nghĩa là “tuân phục”, còn người tuân phục Thượng đế là muslim. «Hỡi những ai có niềm tin! Hãy tin tưởng nơi Allah và nơi Sứ Giả của Ngài và tin nơi Kinh sách (Qur‟an) mà Ngài đã ban xuống cho Sứ Giả của Ngài và tin nơi Kinh sách mà Ngài đã ban xuống trước đây. Và ai phủ nhận Allah và Thiên Thần của Ngài và các Kinh sách của Ngài và các Sứ Giả của Ngài và Ngày Phán Xử Cuối Cùng thì chắc chắn là lạc đạo, lạc rất xa » (Kinh Qur’an, 4:136). Người ta thường tóm tắt Hồi giáo vào câu cầu nguyện hàng ngày của các tín đồ Hồi giáo trên toàn thế giới: “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và Mohammed là thiên sứ của ngài”. .(الله لىضر ذًحيو للهأ لاإ هنا لا) Allah ở đây không phải là tên riêng của một vị thần mà đơn giản chỉ có nghĩa là “Thượng đế”. Các tín đồ Hồi giáo tin rằng họ có bổn phận tuân phục và vâng theo ‎ý muốn của Thượng đế. Và, những gì Thượng đế muốn 17 đối với loài người đã được Ngài thần khải qua nhà tiên tri Mohammed và được ghi lại toàn bộ trong kinh Qur‟an. Bởi vậy, người Hồi giáo tin rằng nếu họ tuân thủ những điều ghi trong Kinh Qur‟an thì sẽ được thưởng cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên đàng vào ngày Phục sinh sau ngày Phán xét cuối cùng, còn nếu ngược lại họ sẽ bị đày đọa nơi Địa ngục. 1.3.2 Kinh Qur’an (ميركلا نآرقلا) , Hadith (ثيدحلا) , Sunna (ةنسلا) và luật Shari’ah (ةعيرشلا) Trong tiếng Arập, Qur‟an có nghĩa là "đọc" hay "diễn giảng". Văn bản chính của cuốn Kinh Qur‟an thật ra khôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004400_1618_2006716.pdf
Tài liệu liên quan