Mục Lục
MỞ ĐẦU .1
Chương 1.7
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH TRÀ VINH TRƯỚC NĂM 1986 .7
1.1. Khái quát về vùng đất, con người Trà Vinh.7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên.7
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.19
1.1.3. Truyền thống lao động sản xuất và đấu tranh bất khuất của nhân dân tỉnh
Trà Vinh qua các thời kỳ lịch sử.22
1.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh từ năm 1975 đến năm 1985.25
1.2.1. Tình hình kinh tế.25
1.2.2. Tình hình xã hội.34
* Tiểu kết chương 1 . 38
Chương 2.42
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH TRÀ VINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1995 .42
2.1. Đường lối đổi mới của Đảng và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Trà Vinh.42
2.1.1. Bối cảnh lịch sử .42
2.1.2. Đường lối đổi mới của Đảng .43
2.1.3. Chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Trà Vinh .45
2.2. Những chuyển biến của nền kinh tế tỉnh Trà Vinh từ năm 1986 đến năm 1995 48
2.2.1. Về nông – lâm – ngư nghiệp.49
2.2.2. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.55
2.2.3. Thương mại, dịch vụ - du lịch .57
2.2.4. Tài chính – ngân hàng.60
2.2.5. Giao thông vận tải.62
2.2.6. Xây dựng cơ bản.64
2.3. Những chuyển biến về xã hội tỉnh Trà Vinh từ năm 1986 đến năm 1995 .66
158 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 592 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình chuyển biến kinh tế - Xã hội tỉnh trà vinh từ năm 1986 đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 có 100% số xã được trang bị hệ thống điện thoại tự
động, lắp đặt 5.615 máy điện thoại; trong những năm 1991 - 1995, công trình nước
sạch nông thôn đã khoan 7.820 cây nước ngầm, trên 50% hộ nông dân sử dụng
nước sạch. [20, Tr.122]
2.3. Những chuyển biến về xã hội tỉnh Trà Vinh từ năm 1986 đến năm 1995
2.3.1. Vấn đề chăm lo đời sống nhân dân
Cùng với sự phát triển của kinh tế, đời sống của nhân dân từng bước được
nâng lên, so với những năm trước thì thời kỳ này đời sống vật chất tinh thần của
người dân có những mặt tiến bộ nhất định.
Trong 5 năm 1986 - 1990, dân số toàn tỉnh tăng thêm 166.000 người nhưng
lương thực bình quân đầu người tăng 4,3%, các sản phẩm khác bình quân đầu người
đều tăng; nhu cầu đi lại bước đầu được đảm bảo do cầu đường được xây dựng, tu
sửa và thực hiện cơ chế mới trong vận tải nên việc đi lại dễ dàng hơn, năm 1989
phục vụ được 13,5 triệu lượt người tăng 1,3 lần so với năm 1984.
Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, Nhà nước đầu tư và
phát huy mọi khả năng đóng góp của nhân dân để xây dựng thêm bệnh viện, trạm y
tế, tăng thêm giường bệnh đưa bình quân 10.000 dân (năm 1989) có 26,4 giường
bệnh tăng 33% so với năm 1984; số y bác sĩ cũng được tăng từ 3,2 y bác sĩ năm
1984 lên 9,6 y bác sĩ năm 1989; mạng lưới y tế, cửa hàng bán thuốc, phòng khám
ngoài giờ được mở rộng phục vụ nhân dân tốt hơn; nước sinh hoạt vùng nông thôn
đã được giải quyết bước đầu, trong 5 năm 1986 - 1990 khoan được 525 giếng nước
ngầm phục vụ vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc. [58, Tr.9]
Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, ngành
văn hóa thông tin đã có nhiều cố gắng đưa văn hóa, văn nghệ, phim ảnh đến vùng
nông thôn; mức hưởng thụ văn hóa nghệ thuật hàng năm đều tăng, năm 1986 bình
quân 1 người chỉ được xem 0,9 buổi diễn đã nâng lên 1,15 buổi năm 1988; hệ thống
thông tin đại chúng được mở rộng, truyền hình phát triển.
Giải quyết việc làm cho người lao động: trong 5 năm 1986 - 1990 số lao
động chưa có việc làm và thiếu việc làm rất lớn, tỉnh đề ra nhiều chủ trương và biện
pháp nhằm từng bước giải quyết việc làm cho người lao động: Trong nông nghiệp
đẩy mạnh đầu tư thâm canh, tăng vụ, thực hiện giao đất, giao rừng cho người lao
động, phát triển ngành nghề trong khu vực nông thôn Trong công nghiệp, khuyến
khích các thành phần kinh tế, phát triển TTCN, mở rộng kinh doanh dịch vụ để thu
hút lao động; đẩy mạnh thực hiện chủ trương giản dân xây dựng vùng kinh tế mới
đã đem lại kết quả tốt, trong 5 năm đã điều được 96.000 người trong đó có 32.000
lao động, tuy cuộc sống còn khó khăn nhưng mọi người đều có việc làm, đời sống
không ngừng được nâng lên, nhà nước đã chú trọng đầu tư những công trình phúc
lợi như nhà trẻ, trạm xá, trường họcđể phục vụ nhân dân. 5 năm qua đời sống
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được nâng lên một bước nhất là những vùng
độc canh cây lúa, vùng đồng bào dân tộc; do sản xuất phát triển nhiều gia đình đã có
tích lũy xây dựng nhà tường, mua sắm phương tiện, thiết bị để nâng cao đời sống;
tuy nhiên, đời sống của người dân không đồng đều giữa thành thị và nông thôn,
mức hưởng thụ văn hóa ở nông thôn còn ít, đổi mới ở nông thôn chuyển biến còn
chậm.
Thời kỳ 1991 - 1995, mặc dù còn nhiều khó khăn, tỉnh đã cố gắng tập trung
giải quyết đời sống cho nhân dân mà trọng tâm là giải quyết việc làm cho người lao
động. Tính đến cuối năm 1993 đã có 17 dự án, được vay vốn 2 tỷ đồng giải quyết
cho 2.336 lao động có việc làm; ngoài dự án vay vốn theo chương trình 120, các
ngành và đoàn thể được ngân hàng cho vay 6,97 tỷ đồng và huy động đóng góp 1,6
tỷ đồng thông qua phong trào vận động giúp đỡ nhau làm kinh tế của Hội Liên hiệp
phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân đã giải quyết cho 16.900 người được vay
vốn, trong đó đã giúp cho 185 hộ đói nghèo ổn định cuộc sống và 12.300 chị em
nghèo từ chỗ không có vốn, đời sống khó khăn đã giảm được đói. [35, Tr.7]
Cùng với việc giải quyết việc làm, được sự hỗ trợ của Hiệp hội chữ thập đỏ
quốc tế và Hội chữ thập đỏ Trung ương, năm 1993 đã xét trợ cấp cho 85.778 hộ, cất
và sửa chữa 113 nhà trị giá 906,5 triệu đồng; xét và giải quyết quyền lợi cho 374 liệt
sĩ, 421 trường hợp gia đình có công với cách mạng theo chỉ thị 105 của Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Công tác chăm sóc đời sống cho các đối tượng chính
sách xã hội được quan tâm, kịp thời chuyển đổi lương mới và trợ cấp cho 1.573 cán
bộ hưu trí, 200 cán bộ mất sức lao động, 7.202 thương binh các loại. Tỉnh đã chi
ngân sách 651 triệu đồng cùng với đóng góp của các ngành, huyện thị và đơn vị để
trợ cấp khó khăn cho 21.372 lượt đối tượng nhân kỷ niệm 46 năm ngày thương binh
liệt sĩ, xây dựng 71 ngôi nhà tình nghĩa, tặng 32 sổ tiết kiệm trị giá 16 triệu đồng
cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. [35, Tr.8]
Công tác xóa đói giảm nghèo được các cấp, các ngành, đoàn thể quan tâm,
tích cực khai thác mọi nguồn vốn, tổ chức nhiều hình thức liên kết sản xuất, vận
động vốn giúp nhau làm kinh tế, lập các dự án nhỏ để tranh thủ vốn từ quỹ quốc
gia kết quả năm 1995 đã huy động các nguồn vốn được 15,3 tỷ đồng giải quyết
cho nhiều lượt hộ được vay vốn phát triển sản xuất. Trong 5 năm 1991 - 1995 xóa
được 19.245 hộ đói, giảm 9.016 hộ nghèo, nhiều vùng địa phương số hộ khá tăng
lên, thu nhập bình quân đầu người tăng 6% năm. [20, Tr.124]
2.3.2. Tình hình giáo dục, văn hóa - thông tin
Hoạt động văn hóa xã hội thời kỳ 1986 - 1995 phát triển trong tình hình có
nhiều thay đổi về mặt thiết chế xã hội trên các lĩnh vực, tình hình đó Đảng và Nhà
nước đã có nhiều Nghị quyết, chỉ thị để định hướng phát triển và thực hiện các mặt
công tác xã hội, tập trung nhất là Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII (1/1993) về chính sách DS - KHHGĐ, những kết quả đạt được đã
góp phần ổn định tình hình, thúc đẩy sự phát triển KT - XH của tỉnh.
Số lượng học sinh, giáo viên, trường, lớp tỉnh Trà Vinh
từ năm 1991 đến năm 1995
Đơn vị
tính
Năm học
91-92 92-93 93-94 94-95 95-96
1/. Tổng số HS đầu năm
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Cấp 1
- Cấp 2
- Cấp 3
2/. Tổng số trường học
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
HS
//
//
//
//
//
Trường
//
//
172.800
270
5.900
135.360
26.420
4.850
247
9
10
180.479
269
5.862
142.599
26.828
3.857
250
10
13
186.313
271
7.243
143.082
30.594
5.123
255
10
9
198.821
360
8.627
146.727
35.994
7.113
265
9
13
217.343
480
12.548
152.435
42.583
9.297
269
8
13
- Cấp 1
- Cấp 1,2
- Cấp 2
- Cấp 2,3
- Cấp 3
- Trung tâm dạy nghề
3/. Tổng số lớp học
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Cấp 1
- Cấp 2
- Cấp 3
- Trung tâm dạy nghề
4/. Tổng số GV
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Cấp 1
- Cấp 2
- Cấp 3
- Trung tâm dạy nghề
//
//
//
//
//
//
Lớp
//
//
//
//
//
//
Người
//
//
//
//
//
//
146
17
53
4
8
-
4.674
19
215
3.670
661
109
-
4.580
20
210
3.203
946
211
-
148
23
42
9
1
-
4.848
17
208
3.863
687
100
-
4.769
22
258
3.229
993
230
-
152
21
43
15
2
3
5.083
17
234
3.950
740
124
9
5.386
28
270
3.764
1.048
263
13
160
13
51
14
2
3
5.252
21
251
3.966
844
161
9
5.764
28
351
3.976
1.132
264
13
166
11
53
13
2
3
5.827
24
400
4.198
996
200
9
6.063
48
347
4.235
1.160
260
13
Nguồn: Tổng hợp các báo cáo tổng kết của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh
Về GD - ĐT, hệ thống giáo dục phổ thông được phát triển về số lượng và
từng bước nâng cao chất lượng, số học sinh đi học ngày tăng, bình quân mỗi năm
(1986 - 1990) từ 15.700 – 24.500 học sinh; trong 5 năm đã có 38.800 học sinh tốt
nghiệp cấp II, 15.000 học sinh tốt nghiệp cấp III. Học bổ túc văn hóa được duy trì
và đẩy mạnh, trình độ văn hóa của cán bộ cơ sở được nâng lên. Trong 5 năm đã
cung cấp cho các ngành 4.500 cán bộ trung và đại học và 2.800 công nhân kỹ thuật,
riêng đại học tại chức đã cung cấp 1.220 cán bộ và hàng chục cán bộ sau đại học.
Tỉnh tập trung đầu tư xây dựng một số trường để nâng cao chất lượng học tập, hệ
thống trường quản lý Nhà nước đã bồi dưỡng được 2.330 cán bộ quản lý các cấp.
[58, Tr.7]
Thời kỳ 1991 - 1995, sự nghiệp GD - ĐT tiếp tục được đầu tư phát triển,
tổng số học sinh các cấp năm học 1994 - 1995 tăng 6,71% so với năm học trước.
Ngành giáo dục có nhiều cố gắng bồi dưỡng giáo viên, từng bước thực hiện giáo
dục toàn diện trong nhà trường, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất; năm 1995 với
nguồn vốn ngân sách nhà nước và vận động đóng góp của nhân dân, tỉnh đã xây
dựng mới 284 phòng học nâng tổng số phòng học trong toàn tỉnh 3.039 phòng.do
đó tỷ lệ học sinh bỏ học giảm từ 7,83% năm học 1993 - 1994 còn 5,56% năm học
1994 - 1995. Các chương trình mục tiêu về xóa 3 ca, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục
tiểu học có nhiều tiến bộ, tính đến năm 1995 đã có 28 xã phường, thị trấn được
công nhận xóa mù chữ, 40 xã đạt từ 80 đến 90%; công tác giáo dục thường xuyên,
giáo dục dân tộc cũng được quan tâm phát triển, tổng số học sinh dân tộc năm học
1994 - 1995 tăng 2.480 em so với năm học trước. Về giáo dục chuyên nghiệp, tỉnh
đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho 1.690 giáo viên các cấp, đào tạo
tại chức 567 giáo viên sư phạm trung cấp, 100 giáo viên mẫu giáo, 200 giáo viên
cấp 3, gửi đào tạo 20 giáo viên tin học để từng bước đáp ứng như cầu giáo viên
trước mắt và lâu dài. Đồng thời, các trung tâm hướng nghiệp và cơ sở dạy nghề
trong tỉnh được tiếp tục củng cố, góp phần nâng cao trình độ sinh ngữ và tin học
cũng như đào tạo ngành nghề phổ thông cho hàng ngàn lượt người theo học. [38,
Tr.10]
Kết quả trên cho thấy các mặt của sự nghiệp giáo dục hàng năm đều tăng,
nhất là số lượng học sinh, đặc biệt là học sinh THPT, điều đó chứng tỏ sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục có tác dụng tốt. Trước đây, phần
lớn các bậc cha mẹ nhất là ở vùng nông thôn cho con em đi học để biết chữ và chỉ
học hết cấp 1 hoặc cấp 2, nhưng ngày nay đa số đều phấn đấu cho con học hết cấp 3
và đại học; đặc biệt các bậc cha mẹ còn cho con học từ lứa tuổi mẫu giáo, học thêm
ngoài giờ trên lớp, học ngoại ngữ những biểu hiện đó chứng tỏ chính sách nâng
cao dân trí, đào tạo nhân tài của Đảng và Nhà nước phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân.
Hoạt động văn hóa thông tin, đây là giai đoạn mà mức hưởng thụ văn hóa
của người dân nâng lên rõ rệt, sách báo, phim ảnh được phát hành rộng rãi, các
phương tiện phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa cũng tăng nhanh; nhiều gia đình ở
nông thôn đã có tivi trắng đen, cassette, radio, ở thị trấn hầu hết gia đình đều có,
ngoài ra các dịch vụ chiếu phim video cũng phát triển mạnh từ huyện thị đến nông
thôn sâu.
Đài phát thanh truyền hình từng bước được cải tiến, nâng cao chất lượng
tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, kịp thời phổ biến các chủ trương,
đường lối của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương; các huyện thị
trong tỉnh đều có đài phát thanh và trạm phát thanh hoạt động thường xuyên, phục
vụ tốt công tác trọng tâm của địa phương, đồng thời phổ biến tốt chủ trương đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Thành lập các đội thông tin lưu động của
tỉnh, tổ chức tuyên truyền vận động bầu cử Quốc hội khóa VII, Đại hội tỉnh Đảng
bộ lần IV, lần V; tuyên truyền thực hiện chỉ thị 200/TTg, Nghị định 36/CP đồng
thời tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ trong các ngày lễ lớn thu hút đông đảo
quần chúng tham gia. Năm 1994, tổ chức 9 hội chợ thu hút 85.000 lượt người tham
gia, tổ chức 69 buổi tuyên truyền lưu động có 67.000 tham dự, phát hành 3 số nội
san văn hóa văn nghệ, hoàn thành xây dựng bia chiến thắng, nhà trưng bày đền thờ
Bác Hồ, cải tạo rạp hát Thái Bình, tiếp tục thi công nhà văn hóa dân tộc Khmer.
Phối hợp với các ngành làm tốt công tác quản lý các loại hình văn hóa không
lành mạnh, lập thủ tục đăng ký 129 đầu máy, cấp giấy phép cho 130 điểm chiếu
video, quản lý tốt công tác in ấn và phát hành các tập san, báo ảnh Cùng các
ngành liên quan đã kiểm tra trên lĩnh vực văn hóa, phát hiện 545 vụ hoạt động kinh
doanh trái phép, 131 tụ điểm chiếu băng hình trái phép, tịch thu 1.422 băng video,
391 băng cassette, phạt 53,7 triệu đồng. [38, Tr.10]
Tuy nhiên trong giai đoạn này việc quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực
văn hóa phẩm chưa chặt chẽ, trên địa bàn tỉnh thường xuyên xuất hiện những ấn
phẩm mang nội dung không lành mạnh, thậm chí có nội dung mang tính kích động,
đồi trụy, phản động ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho thế hệ
trẻ. Nhưng chính quyền các cấp và ngành văn hóa tỉnh kịp thời xử lý, trấn chỉnh tổ
chức và quản lý các hoạt động văn hóa thông tin trên địa bàn tỉnh đúng theo quy
định của Nhà nước.
2.3.3. Y tế, vệ sinh môi trường
Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành y tế Trà Vinh chịu những tác động to lớn
của nền kinh tế thị trường, thực hiện phương châm xã hội hóa công tác y tế, đa dạng
hóa các loại hình dịch vụ y tế, từ năm 1986 đến năm 1995 ngành y tế tỉnh đã kịp
thời nắm bắt thời cơ, vận dụng triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân và đạt nhiều
thành tựu.
Đến năm 1995, toàn tỉnh có 2 bệnh viện tỉnh với 500 giường bệnh bằng với
số giường bệnh năm 1992; có 7 bệnh viện huyện với 390 giường bệnh; 10 phòng
khám khu vực tăng hơn 4 phòng so với năm 1992 với 100 giường bệnh và 65 trạm y
tế với 325 giường bệnh. Cán bộ y tế hiện có là 1.489 người tăng 21,96% so với năm
1992, trong đó bác sĩ 197 người tăng 18,78% so với năm 1992; y sĩ 582 người, dược
sĩ đại học 10 người, dược dĩ trung cấp 57 người. [38, Tr.40]
Một thành tựu quan trọng khác của ngành y tế tỉnh là công tác chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân dân. Với phương châm dự phòng là chính, ngành y tế tỉnh
đã chủ động, tập trung làm tốt công tác ngăn ngừa, phòng tránh các dịch bệnh theo
mùa, thường xuyên đảm bảo cơ số thuốc điều trị ở các tuyến y tế cơ sở. Năm 1995,
khám và điều trị bệnh cho 486.179 lượt người, tiêm chủng mở rộng đủ liều cho các
cháu trong độ tuổi đạt 85,4%, uống Vitamin A đạt 98%, đồng thời làm tốt công tác
cấp giấy phép cho các cơ sở hành nghề y dược tư nhân, thực hiện tốt các chương
trình y tế quốc gia.
Trà Vinh là tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa hai nhánh sông
Tiền và sông Hậu, phía Nam tiếp giáp biển Đông với bờ biển dài hơn 65km. Trên
địa bàn 8 huyện, thị có 105 xã, phường, thị trấn với dân số hơn 1 triệu người, đồng
bào dân tộc Khmer chiếm gần 30%. Cuộc sống sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên
và người dân Trà Vinh có thói quen sinh hoạt thiếu vệ sinh và ít chú ý bảo vệ môi
trường sinh thái, ở các phum sóc trên đất giồng cát hoặc trong vùng đất thấp có kinh
rạch ngang qua, bà con thường có thói quen đổ các chất phế thải, xác thú vật chết,
kể cả phóng uế làm ô nhiễm nguồn nước mặt và môi sinh. Để giải quyết nước sạch
sinh hoạt người cho dân trong thời gian qua, tỉnh đã xây được 30 trạm cấp nước quy
mô vừa tại các trung tâm cụm xã, 88 trạm cấp nước nhỏ, khoan hàng ngàn cây nước
sinh hoạt trong cộng đồng dân cư, kể cả việc cấp 7.850 lu chứa nước mưa và 1.060
bộ lọc nước cho các hộ sử dụng, nhưng hiện còn 17.650 hộ cần hỗ trợ về nước sinh
hoạt.
Trong nuôi thuỷ sản có nhiều hộ không áp dụng quy trình từ khâu sử dụng
thức ăn cho đến làm vệ sinh ao hồ, tất cả đều thải ra kênh rạch và dòng sông. Bố
trí thời vụ nuôi không đồng nhất, chung một dòng sông có người xả nước ra thì
người khác lại lấy nước vào, từ đó môi trường vùng nuôi thuỷ sản thường xuyên bị
ô nhiễm. Việc phát triển các vùng nuôi tôm ven biển lại tăng thêm số lượng khoan
cây nước ngầm, nhu cầu nước ngọt khoảng 5 vạn m3/ha/vụ, có nguy cơ dẫn đến
nhiễm mặn nguồn nước ngầm do sự lún sụt địa tầng cạn kiệt mạch nước ngầm vào
mùa khô. Để giải quyết triệt để các vấn đề trên, tỉnh đề ra nhiều giải pháp như tăng
cường công tác khuyến nông và khuyến ngư; áp dụng phương pháp “3 giảm, 3
tăng” trong canh tác lúa; sử dụng nông dược theo bốn đúng “đúng thuốc, đúng lúc,
đúng liều và đúng cách”; sử dụng phân bón hoá học hợp lý, có kết hợp phân bón
hữu cơ cho cây trồng, vệ sinh chuồng trại chăn nuôi và tiêm phòng gia súc gia cầm
đầy đủ và xử lý tốt chất thải chăn nuôi.
Thực hiện chỉ thị 200/TTg của thủ tướng Chính phủ về “đảm bảo vệ sinh môi
trường và nước sạch nông thôn”, năm 1995 tỉnh đã giải tỏa trên 7.000 cầu tiêu trên
sông rạch, ao hồ, xây dựng mới 1.500 cầu tiêu hợp vệ sinh ở các khu đông dân cư,
đóng mới 1.800 giếng nước sạch phục vụ sinh hoạt đời sống nhân dân. [38, Tr.12]
2.3.4. Thực hiện chính sách xã hội, dân số - kế hoạch hóa gia đình
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân cả nước
trãi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ giành thắng lợi hoàn toàn,
tỉnh Trà Vinh cũng hòa cùng phong trào đấu tranh cách mạng đó và bao gia đình,
bao người con thân yêu của quê hương Trà Vinh đã nằm xuống, họ đã cống hiến
một phần thân thể của mình cho sự bình yên của quê hương đất nước.
Năm 1995, ngành lao động thương binh xã hội đã triển khai thực hiện pháp
lệnh “ưu đãi những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh, những người hoạt động kháng chiến, người có công giúp cách
mạng” và pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, tỉnh đã
hoàn thành thủ tục tuyên dương và truy tặng danh hiệu anh hùng cho 735 bà mẹ, số
bà mẹ hiện còn sống là 334 người và được các ngành, các đơn vị nhận phụng dưỡng
suốt đời; xét duyệt hồ sơ để công nhận là liệt sĩ, thương binh và giải quyết các chính
sách cho những người đã hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc theo đúng chính
sách của Đảng và Nhà nước. Thường xuyên tổ chức thăm viếng, tặng quà và trợ cấp
khó khăn trên 3 tỷ đồng cho các đối tượng chính sách nhân các ngày lễ, tết, đồng
thời bằng nhiều nguồn kinh phí với số vốn 1,892 tỷ đồng xây dựng 124 căn nhà tình
nghĩa cho các gia đình liệt sĩ, thương binh và mẹ Việt Nam anh hùng. [38, Tr.12]
Từ khi pháp lệnh đối với người có công ra đời, nhiều chế độ chính sách của
tỉnh được sửa đổi cho phù hợp và nhiều đối tượng được hưởng trợ cấp; pháp lệnh
ưu đãi, Nghị định 28/CP của Chính phủ đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo sự phấn
khởi trong các đối tượng chính sách và được quần chúng nhân dân đồng tình ủng
hộ. Từ đó phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo trong đối tượng chính
sách được tập trung chỉ đạo và ngày càng đạt hiệu quả thiết thực như con thương
binh, liệt sĩ có điều kiện đi học được hưởng trợ cấp ưu đãi, các đối tượng chính sách
và người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế giúp cho họ được chữa bệnh theo chính
sách bảo hiểm y tế hiện hành.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cùng sự hỗ trợ của
cộng đồng và xã hội, các đối tượng xã hội khác cũng được tỉnh quan tâm giúp đỡ,
nhất là đối tượng người già neo đơn, người tàn tật, trẻ mồ coi được trợ cấp để ổn
định cuộc sống và hòa nhập với cộng đồng. Những đối tượng quá khó khăn được
tập trung nuôi dưỡng, dạy nghề miễn phí; những người bị thiên tai được trợ giúp
ban đầu ổn định cuộc sống. Với những chính sách đó, tỉnh đã giảm được tỷ lệ hộ
nghèo từ 13,8% năm 1985 xuống còn 8,47% năm 1995.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII: công
tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, là
một trong những vấn đề KT - XH hàng đầu, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Trà Vinh là tỉnh có quy mô dân số nhỏ, khoảng 1 triệu dân, tốc độ tăng dân
số tự nhiên các năm trước khá cao (năm 1984 là 2,45%), nhưng đã giảm mạnh trong
những năm gần đây. Mục tiêu giảm tỷ lệ tăng dân số được quan tâm từ năm 1989,
sau đợt tổng điều tra dân số, đặc biệt là từ năm 1992, khi công tác dân số trở thành
chính sách quốc gia thì công tác này mới thực sự được quan tâm chỉ đạo. Kết quả
tốc độ tăng dân số tự nhiên của tỉnh giảm dần từ 2,12% năm 1992 xuống còn 2%
năm 1995.
Công tác DS - KHHGĐ được chú ý và thực hiện tốt ở nhiều nơi, nhiều cặp
gia đình thấy được ích lợi của việc sinh con theo kế hoạch, thấy được cảnh nghèo
đói do đông con và những hậu quả của nó nên tự giác thực hiện các hiện pháp hạn
chế sinh con. Cụ thể: năm 1989 đã có 115.000 người áp dụng các biện pháp tránh
thai tăng 1,6 lần so với năm 1985; năm 1995 có 32.000 người áp dụng các biện
pháp tránh thai, trong đó đặt vòng mới 11.462 người, triệt sản 1.117 người. [38,
Tr.11]
Ngoài ra, tỉnh đã tăng cường đội ngũ cộng tác viên dân số, nâng cấp một số
trạm y tế và trung tâm y tế để phối hợp khám chữa bệnh và làm dịch vụ kế hoạch
hóa gia đình. Năm 1995, có 58 trạm y tế, 8 trung tâm y tế của các huyện được trang
bị dụng cụ đặt vòng và triệt sản, từ đó làm giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh
xuống 2%.
Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em, chương trình
chăm sóc phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật được phối hợp thực hiện có hiệu
quả, góp phần giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 55% năm 1994 xuống còn 46%
năm 1995. Đã tiếp nhận 109 cháu mù câm điếc nuôi dạy ở trung tâm nuôi dạy trẻ
khuyết tật và 39 cháu được nuôi dưỡng ở trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, đã phối
hợp các tổ chức y tế từ thiện thực hiện vá môi cho hơn 390 cháu. [38, Tr.12]
2.3.5. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân
tộc
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tộc người cùng sinh sống, đoàn kết với
nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc thiểu số ở nước ta cư
trú trên địa bàn rộng, có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống ngoại
xâm, cải tạo thiên nhiên và xây dựng đất nước, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa
riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống
nhất. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng
sản Việt Nam luôn xác định công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược quan trọng đối với cách mạng cả nước, trải qua các thời kỳ cách mạng, công
tác dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần vào sự nghiệp chung của
đất nước.
Tỉnh Trà Vinh có khoảng một triệu dân, trong đó đồng bào Khmer chiếm
hơn 30% số dân, là tỉnh có tỷ lệ người dân tộc Khmer cao nhất ở đồng bằng sông
Cửu Long. Đồng bào Khmer trong tỉnh đa số sống bằng nghề nông, đời sống nghèo
khó vì ít đất sản xuất và do hoàn cảnh đông con học thức ít. Công tác dân tộc và
đoàn kết dân tộc trong tỉnh cũng được quan tâm phát triển, trong những năm 1986 -
1990 chuyện cứu đói cho đồng bào Khmer là việc làm thường xuyên của các ngành,
các cấp ở Trà Vinh. Những năm 1991 - 1995, nhờ chính sách đầu tư phát triển ngày
càng nhiều của Trung ương và địa phương đối với đồng bào dân tộc Khmer trong
tỉnh, cụ thể là Nghị quyết 22-NQ/TW, tháng 11/1989 của Bộ chính trị về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển KT - XH miền núi và các vùng đồng bào dân tộc
thiểu số; Nghị quyết 01/TU của tỉnh ủy về công tác trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer, nhằm giúp đồng bào Khmer giải quyết cái đói, đi đến bảo đảm an sinh xã
hội, đảm bảo vệ sinh môi trường.
Tỉnh Trà Vinh đã kịp thời đề ra những chính sách thiết thực, thích hợp cho
từng giai đoạn, từng ấp, xã, huyện cụ thể, để giúp đồng bào Khmer có việc làm,
cuộc sống ngày càng khá hơn. Nhờ đó, số hộ nghèo giảm nhanh từ trên 50% năm
1992 xuống còn 35,4% năm 1995; chính sách giao dục đối với đồng bào Khmer
cũng được cải thiện, hệ thống cơ sở vật chất trường lớp được tỉnh đầu tư cải tạo
nâng cấp xây dựng mới, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, số lượng học sinh
tăng dần theo các năm, số học sinh dân tộc Khmer được xét tuyển, cử tuyển vào các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày một tăng; cuộc vận động
“toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư được đồng bào Khmer
ủng hộ, hưởng ứng tích cực. Hàng năm các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội
truyền thống của đồng bào Khmer đều được tỉnh tổ chức chu đáo, trọng thể.
Trình độ dân trí của đồng bào Khmer ngày càng cao, tính đến năm 1995, số
học sinh là người dân tộc Khmer đang theo học ở các cấp học trên 68.457 em; số
giáo viên toàn tỉnh có 6.700 người, trong đó giáo viên người dân tộc thiểu số là
1.903 người, chiếm 28,4%; số y bác sĩ toàn tỉnh là 1.336 người, trong đó người dân
tộc có 104 người, chiếm 7,8%; bình quân y bác sĩ trên 1 vạn dân là có 1 người dân
tộc Khmer.
2.3.6. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa
Cuộc đấu tranh chống tàn dư văn hóa của chủ nghĩa thực dân mới, những
hiện tượng văn hóa không lành mạnh được triển khai từ ngay sau giải phóng và việc
xây dựng con người mới, lối sống mới trở thành nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của
sự nghiệp cách mạng xã h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_18_9627208438_9493_1869260.pdf