MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .2
3. Mục đích nghiên cứu .6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .6
5. Phương pháp nghiên cứu .7
6. Nguồn tư liệu .8
7. Những đóng góp của luận văn .9
8. Bố cục của luận văn .9
Chương 1. ĐÔ THỊ VÀ ĐÔ THỊ HÓA Ở QUẬN 7 TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM
2010.9
1.1 Khái niệm đô thị và đô thị hóa.9
1.1.1 Khái niệm đô thị .9
1.1.2 Khái niệm đô thị hóa.22
1.2 Sơ lược lịch sử đô thị hóa ở vùng đất Thành phố Hồ Chí Minh.25
1.3 Quận 7 trong không gian Thành phố Hồ Chí Minh.28
1.3.1 Vị trí địa lý.28
1.3.2 Điều kiện tự nhiên, xã hội.28
1.4 Quá trình đô thị hóa ở Quận 7 từ năm 1986 đến năm 2010 .29
1.4.1 Lịch sử hình thành Quận 7.29
1.4.2 Sơ nét về quá trình đô thị hóa Quận 7 từ 1986 đến 2010 .31
Chương 2. SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ CƠ CẤU KINH TẾ
Ở QUẬN 7 TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA (1986-2010) .35
2.1 Cơ cấu kinh tế và chuyển biến cơ cấu kinh tế trong quá trình đô thị hóa
(1986 – 2010).35
2.2 Sự chuyển biến của các ngành kinh tế Quận 7 trong quá trình đô thị hóa .36
2.2.1 Nông nghiệp.36
2.2.2 Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.41
121 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 620 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình đô thị hóa ở quận 7, thành phố Hồ Chí Minh (1986 - 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới. Người nông dân đã ý thức việc chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng cho
phù hợp với sự phát triển của vùng đô thị mới.
Giai đoạn 2005- 2010
Theo quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2005 tỷ trọng nông nghiệp
bằng 0 trong cơ cấu tổng thể các ngành sản xuất kinh tế trên địa bàn Quận 7. Trong
giai đoạn này, ngành nông nghiệp của Quận 7 sẽ phát triển theo hướng nông nghiệp
đô thị bằng cách sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây cảnh, trồng hoa thay vì trồng
lúa, trồng rau như giai đoạn trước. Bên cạnh đó, giai đoạn 2005 - 2010 đất nông
nghiệp cũng được chuyển cho mục tiêu phát triển đô thị như: phát triển công viên
cây xanh, các dịch vụ giải trí, xây dựng nhà ở, làm đường giao thông, bổ sung quỹ
đất xây dựng công các công trình công cộng, khu công nghiệp.
Cùng với sự giảm nhanh về diện tích và sản lượng của ngành trồng trọt, ngành
chăn nuôi của Quận 7 cũng giảm đáng kể nhất là trong hoạt động chăn nuôi gia
cầm.
Bảng 2.6 Số lượng đàn gia súc gia cầm 2005 - 2010. Đvt: con
2000 2001 2002 2003 2004 2005
1. Bò
Trong đó:
- Bò kéo cày
- Bò cái
- Bò sữa
2. Heo trên 2 tháng tuổi
Trong đó:
18
3063
18
1971
14
2054
4
2093
9
2772
9
1842
41
- Heo thịt
- Heo sữa dưới 2 tháng tuổi
3. Vịt xiêm
4. Gà
Trong đó:
- Gà mái đẻ
- Gà công nghiệp
2843
220
8905
1543
7372
1695
276
13923
2412
11511
1808
182
4682
1082
3100
1896
197
179
3291
2981
310
2564
208
176
520
46
474
1760
142
0
476
26
450
Nguồn: [42;21]
Bảng 2.6 trên cho thấy đàn gia súc, gia cầm giảm mạnh do nông nghiệp của
Quận 7 chuyển sang phục vụ nhu cầu đô thị hóa, đất nông nghiệp giảm mạnh để
trồng cây xanh và xây dựng công viên, công trình đô thị.
2.2.2 Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Giai đoạn 1986 – 1996
Những năm đầu sau giải phóng, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp huyện Nhà
Bè manh mún, kém phát triển, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo, nhân
dân huyện Nhà Bè ra sức xây dựng và phát triển kinh tế, trong đó tập trung vào lĩnh
vực kinh tế công nghiệp. Từ năm 1975 đến năm 1985 tổng giá trị sản lượng của ngành
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp không ngừng tăng lên (mức tăng bình quân hàng
năm từ 10 đến 30%). Từ năm 1986 đến 1988, giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp
của huyện Nhà Bè tăng bình quân hàng năm là 21%. Từ năm 1989 đến 1994, tốc độ
tăng trưởng bình quân của ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện Nhà
Bè dao động từ 10 đến 17%. Năm 1991, huyện Nhà Bè đã xây dựng và đưa vào hoạt
động khu chế xuất Tân Thuận - khu chế xuất thành công nhất nước. Năm 1997, sau
chia tách huyện Nhà Bè, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Quận 7 đã có
bước phát triển ổn định. Từ năm 2000 đến 2005, nhóm ngành kinh tế này có bước
phát triển đáng kể, góp phần đưa nền kinh tế Quận 7 chuyển dịch theo hướng công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ - thương mại và nông nghiệp. Tổng giá trị sản
xuất trên địa bàn do quận quản lý (2001 – 2005), tăng bình quân hàng năm là 36,06%,
giá trị sản xuất công nghiệp của Quận 7 trong 5 năm đạt 202.930 triệu đồng [89;19].
42
Giai đoạn 1997 – 2005
Trong giai đoạn này, nền kinh tế các nước châu Á đang lâm vào khủng hoảng,
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cũng bị tác động bởi cuộc khủng hoảng đó. Chính
quyền và nhân dân Quận 7 ra sức nhanh chóng ổn định và phát triển nông nghiệp,
đến năm 2004, công nghiệp của Quận 7 đã tăng nhanh. Năm 2004, tổng giá trị sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp do Quận 7 quản lý đạt 505.583 triệu đồng
tăng 17,69% so với năm 2003 và tăng hơn 1,7 lần so với năm 2000, bình quân giá
trị sản xuất công nghiệp của Quận 7 hàng năm tăng 20,46%/năm. So với chỉ tiêu
trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần 2 do Quận đề ra trong ngành sản xuất công
nghiệp là 15%/năm, thì chỉ tiêu này đến cuối năm 2004 đã đạt và vượt.
Nguồn: [89;3]
43
Nguồn: [89;4]
Các thành phần kinh tế hoạt động trong ngành công nghiệp của Quận 7 đều tăng
trưởng, cao nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân, kế đến là các loại hình công ty,
khu vực hộ cá thể, hợp tác xã, chỉ có thành phần doanh nghiệp nhà nước có xu
hướng thu hẹp hoạt động.
+ Công nghiệp của doanh nghiệp nhà nước có xu hướng suy giảm, bình quân
tốc độ tăng trưởng giảm 29,37%/năm, giá trị sản xuất đạt 14.078 triệu đồng, tăng
4,51% so với năm 2003 hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực: chế biến gỗ và sản phẩm
từ gỗ, tre, nứa; sản xuất trang phục, thuộc và nhuộm da; sản xuất thực phẩm, gia
công may mặc.
+ Công nghiệp hợp tác xã giá trị sản xuất đạt 6.995 triệu đồng, tăng 11,99% so
với năm 2003 và tăng 106,40% so với năm 2000, bình quân tăng 19,86%/năm hoạt
động tập trung trong các lĩnh vực: sản xuất phương tiện vận tải, chế biến gỗ và các
sản phẩm từ gỗ [91;14]
+ Công ty TNHH và công ty cổ phần giá trị sản xuất đạt 329.624 triệu đồng
tăng 20.86% so với năm 2003 và tăng 5,2 lần so với năm 2000, bình quân tăng
44
57,98%/năm. Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực: chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ; sản
xuất vali, túi xách, sản xuất thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh; sản xuất các sản
phẩm từ cao su và plastic [91;17].
+ Doanh nghiệp tư nhân doanh thu năm 2005 đạt 52.836 triệu đồng tăng
23,76% so với năm 2003 và tăng 109,63% so với năm 2000, bình quân tăng
20,33%/năm.
+ Hộ cá thể chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, giá trị sản
xuất đạt 104.495 triệu đồng, tăng 10,66% so với năm 2003 và tăng 104,36% so với
năm 2000, bình quân tăng 19,56%/năm và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực: sản
xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại,
Cơ cấu giá trị sản xuất của ngành thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng của các
loại hình công ty (TNHH, cổ phần), doanh nghiệp tư nhân và giảm dần tỷ trọng của
doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, hộ cá thể (trong đó, doanh nghiệp Nhà nước
giảm nhiều nhất).
Ngành phát triển mạnh là ngành chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa
với tỷ trọng tăng từ 7,88% năm 2000 lên 33,44% vào năm 2004. Các ngành như:
may túi xách, yên giày và sản xuất kim loại có xu hướng phát triển và tỷ trọng ngày
càng tăng, trong đó tỷ trọng giá trị sản xuất của các ngành năm 2004 so với năm
2000: sản xuất kim loại từ 2,18% tăng lên 14,24%, ngành sản xuất túi xách, yên
giày từ 0,63% tăng lên 17,58%. Ngành sản xuất thực phẩm - đồ uống, sản xuất trang
phục thuộc - nhuộm da thu hẹp dần hoạt động và chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ
trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp, đặc biệt ngành sản xuất thực phẩm - đồ
uống sụt giảm mạnh nhất (chiếm 19,36% năm 2000 đến năm 2004 chỉ còn 1,55%),
ngành sản xuất trang phục thuộc nhuộm da giảm từ 28,50% (2000) xuống còn
6,15% vào năm 2004. Các ngành còn lại phát triển ổn định với tốc độ phát triển gần
bằng với tốc độ phát triển của toàn ngành nên tỷ trọng không có nhiều thay đổi
[91;33].
Tổng lao động làm việc tại các đơn vị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp trên địa bàn do quận quản lý đến đầu năm 2005 là 11.413 người tăng gần 2
45
lần so với năm 2000. Hầu hết các thành phần kinh tế đều tăng thu hút lao động so
với năm 2000, trong đó thành phần doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty
TNHH, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã đều tăng thu hút lao động, riêng thành
phần doanh nghiệp nhà nước giảm thu hút lao động do thu hẹp hoạt động. Với mức
độ tăng sử dụng khác nhau giữa các thành phần kinh tế như trên làm cho cơ cấu lao
động công nghiệp theo các thành phần kinh tế năm 2005 thay đổi nhiều so với năm
2000. Sự thay đổi này diễn ra theo hướng các công ty TNHH sử dụng lao động tăng
lên và chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 75,71%), các thành phần còn lại có tỷ trọng giảm,
đặc biệt giảm nhiều nhất là thành phần doanh nghiệp Nhà nước số lao động sử dụng
từ 12,51% đến nay chỉ còn 4,71%.
Nhiều doanh nghiệp nhận biết được sự tồn tại của đơn vị sẽ gặp thách thức khi
đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy để thích nghi và phát
triển trong môi trường cạnh tranh mới, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu thông qua đầu
tư máy móc thiết bị mới, cải tiến kỹ thuật cũ và áp dụng công nghệ mới vào sản
xuất có thể hạ giá thành sản phẩm. Công ty dịch vụ công ích Quận 7, công ty
TNHH Vĩ Châu, Lập Phúc, Minh Diệu, Đức Thành, Phước Thịnh, Nơ Xanh, công
ty Chia Meei VN, DNTN Mai Phát, nhà máy thép Nhà Bè, cơ sở Phú Mỹ có
những dự án đầu tư máy móc thiết bị mới, áp dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại vào
trong quá trình sản xuất.
Những năm qua, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao so với các ngành khác. Với sự hỗ trợ về chính sách của Thành
phố và Quận đã tác động nhiều doanh nghiệp tập trung đầu tư mở rộng sản xuất,
trang bị máy móc hiện đại, nâng cao chất lượng công tác quản lý, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng
cao mẫu mã đa dạng phù hợp với người tiêu dùng nội địa và đáp ứng yêu cầu hàng
xuất khẩu.
Xu hướng phát triển của ngành trong giai đoạn này chú trọng vào những ngành
công nghiệp sản xuất ra sản phẩm phục vụ tiêu dùng: gia công các sản phẩm may
46
mặc - túi xách - giầy da, chế biến các sản phẩm từ gỗ và chế biến kim loại. Các
doanh nghiệp đã chú trọng tới việc tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều
doanh nghiệp đã chủ động đầu tư công nghệ, đổi mới trang thiết bị nâng cao hiệu
quả sản xuất tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Giai đoạn 2005 – 2010
Sau khi nhà nước có chủ trương sắp xếp lại các loại hình doanh nghiệp, giá trị
sản xuất của công nghiệp có bước phát triển đáng kể.
Bảng 2.9 Giá trị sản xuất công nghiệp (HTX, DNTN, Công ty TNHH,
Công ty Cổ phần. Giá cố định năm 1994
2006 2007 2008 2009 2010
TỔNG SỐ 442.952 603.770 722.935 731.803 929.925
Hợp tác xã 4.901 3.390 1613 7.691 1.987
Công ty TNHH 380.569 513.662 604.040 607.788 778.304
DNTN 43.806 64.372 75.919 67.354 72.459
Công ty cổ phần 13.676 22.346 41.363 48.970 77.175
Nguồn: [46;30]
Bảng 2.9 trên cho thấy 3 loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công
ty TNHH đều tăng, trong đó công ty cổ phần phát triển mạnh từ 13.676 triệu đồng
(2006) lên 77.175 triệu đồng (2010) tăng gấp 5,64 lần, kế đến là công ty trách
nhiệm hữu hạn năm 2010 tăng gấp 2 lần năm 2006.
Sở dĩ các loại hình công nghiệp của Quận 7 phát triển và chuyển biến mạnh mẽ
là do Quận tập trung phát triển các lĩnh vực công nghiệp góp phần chuyển dịch theo
cơ cấu kinh tế mở. Trong giai đoạn này, Quận 7 tập trung phát triển những ngành
chủ lực của Quận như chế biến thực phẩm, may công nghiệp, gia công cơ khíđặc
biệt là ngành vật liệu xây dựng, đồ gia dụng, vì trong giai đoạn này, nhu cầu xây
dựng nhà ở, các khu dân cư, chung cư tăng cao. Nhìn chung cơ cấu nhóm ngành
công nghiệp của Quận 7 chiếm ưu thế hơn so với nhóm ngành khác. Năm 1997
ngành này chiếm 27,7 %, năm 2010 chiếm đến 54,3%. [84;27]
47
2.2.3 Thương mại – dịch vụ
Giai đoạn 1986 - 1996
Trước năm 1975, lĩnh vực hoạt động thương mại của huyện Nhà Bè mang tính
chất hộ gia đình và chỉ tập trung ở các xã đô thị hóa. Từ 1975 -1985, huyện Nhà Bè đã
xây dựng được một hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã đến nông thôn,
đảm bảo lưu thông phân phối và phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân. Từ năm 1986
đến 1997, thương mại dịch vụ của huyện Nhà Bè gia tăng rất nhanh theo chuyển biến
của cơ cấu thị trường. Sau năm 1997, mặc dù ở lĩnh vực này gặp nghiều khó khăn
nhưng sau vài năm ổn định ngành thương mại - dịch vụ của Quận 7 có sự chuyển biến
tích cực.
Giai đoạn 1997 – 2005
Ngành thương mại - dịch vụ là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế do
Quận quản lý chủ yếu là mặt hàng phân bón. Tuy nhiên, giai đoạn này do tình hình
kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động, bên cạnh đó chịu tác động bất lợi từ
diễn biến về thị trường nên mức tăng trưởng của ngành không ổn định. Từ năm
1999 ngành thương mại – dịch vụ được phục hồi và phát triển. Năm 2000 số đơn vị
kinh doanh đến đăng ký kinh doanh trên địa bàn Quận 7 tăng nhanh, năm 2004 có
187 đơn vị (tăng gấp 3 lần so với năm 2003) tổng vốn đăng ký kinh doanh của các
công ty 239.304 triệu đồng. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp quốc doanh giảm 1
(công ty thương mại - dịch vụ Quận 7 ngưng hoạt động vào năm 2000), năm 2004
có 3 hợp tác xã hoạt động (là quỹ tín dụng Tân Quy Đông, hợp tác xã thương mại -
dịch vụ Tân Quy và hợp tác xã thương mại - dịch vụ Tân Kiểng), các loại hình công
ty tăng thêm 90 đơn vị (Công ty TNHH tăng 55 đơn vị, công ty cổ phần tăng 2 đơn
vị và doanh nghiệp tư nhân tăng 33 đơn vị, tập trung các lĩnh vực kinh doanh: vật
liệu xây dựng, trang trí nội thất, máy móc thiết bị, vật tư nông nghiệp, bách hóa,
xăng dầu Hộ kinh doanh cá thể ngành thương mại - dịch vụ năm 2004 là 3.388 hộ
(chiếm gần 95% trên tổng số hộ mới trong năm) tăng 31,57% so với năm 2003, gấp
4 lần so với năm 2000, bình quân tăng 42,23%/năm với tổng vốn đăng ký kinh
doanh 61.423 triệu đồng tăng 81,53% so với năm 2003, gấp 7 lần so với năm 2000,
48
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng
hàng ngày của người dân. Trong đó, số hộ hoạt động thương mại là 1.749 hộ với
tổng vốn đăng ký kinh doanh là 31.884 triệu đồng; số hộ hoạt động dịch vụ là 950
hộ với tổng vốn đăng ký là 24.696 triệu đồng; số hộ kinh doanh ăn uống là 689 hộ
với tổng vốn đăng ký kinh doanh là 4.843 triệu đồng [92;5].
Số lao động hoạt động trong Thương mại - dịch vụ năm 2000 là 5.771 lao động
đã tăng lên 10.017 lao động vào đầu năm 2005. Trong đó, hộ kinh doanh cá thể và
thành phần công ty TNHH tăng thu hút lao động, còn thành phần doanh nghiệp
quốc doanh sụt giảm trong thu hút lao động.
Doanh thu của ngành giai đoạn 2000 - 2005 có tốc độ phát triển không ổn định.
Trong đó, giai đoạn 2000 - 2001 doanh thu của ngành liên tục giảm do biến động về
giá cả và thị trường trong nước cũng như thị trường trên thế giới (đặc biệt là các mặt
hàng vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng) nên tốc độ tăng trưởng năm 2000 giảm
1,56%, năm 2001 giảm 2,79%. Từ năm 2002, hoạt động kinh doanh của ngành có
dấu hiệu phục hồi - tốc độ phát triển năm 2002 tăng 9,81%, năm 2003 tăng 11,61%
và năm 2004 tăng 13,71% do sức mua tăng lên từ các thị trường truyền thống và
một phần từ việc mở rộng thị trường tiêu thụ đồng thời sức “cầu” tăng từ sự gia tăng
số dân trên địa bàn thời gian qua. Năm 2005, doanh thu ngành thực hiện 6.132.177
triệu đồng tăng 35,47% so với năm 2000, bình quân tăng 7,89%/năm.
49
Nguồn: [91;7
Nếu tính theo giá trị sản xuất, tốc độ tăng trưởng của ngành thương mại -
dịch vụ năm 2001 tăng 3,59%, từ năm 2002 tốc độ đó tăng nhanh hơn, cụ thể năm
2002 tăng 19,18%, năm 2003 tăng 15,58%, năm 2004 tăng 15,85% và năm 2005
giảm 2,07%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất khu vực thương mại -
dịch vụ tăng 10,11%/năm, chỉ tiêu này đã vượt so với chỉ tiêu 9,97%/năm so với
Nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ Quận lần II đề ra.
50
Nguồn: [91,7]
Cơ cấu doanh thu khu vực của các loại hình công ty kinh doanh chiếm tỷ
trọng rất cao (chiếm 93,82% vào năm 2004). So với năm 2000, cơ cấu doanh thu
của ngành trong năm 2005 không thay đổi lớn, nhất là ở khu vực các loại hình công
ty và hợp tác xã. Trong đó, tỷ trọng doanh thu của các loại hình công ty chiếm
93,82% năm 2004 so với 94,54% năm 2000; khu vực hợp tác xã chiếm 0,25% năm
2005 so với 0,04% năm 2000, tỷ trọng doanh thu của khu vực hộ cá thể tăng lên
5,54% năm 2005 so với 3,05% ở năm 2000, tỷ trọng doanh thu giảm đối với khu
vực doanh nghiệp Nhà nước từ 2,37% vào năm 2000 xuống 0,39% năm 2005. Cơ
cấu này vẫn được duy trì đến cuối năm 2005 [92;33].
Doanh thu lĩnh vực kinh doanh vật tư nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng cao
chiếm trên 90% trong cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực kinh doanh của thành phần
công ty TNHH. Bên cạnh đó, tỷ trọng doanh thu của thành phần công ty TNHH
chiếm trên 85% tổng doanh thu toàn ngành. Do đó, kinh doanh vật tư nông nghiệp
là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu trong toàn ngành thương mại của Quận.
Hoạt động dịch vụ trên địa bàn rất đa dạng với thế mạnh là dịch vụ công nghiệp,
ngoài ra còn có các dịch vụ phục vụ cộng đồng như: dịch vụ kho tàng bến bãi, dịch
51
vụ bến cảng đáp ứng nhu cầu bốc xếp cho các cảng, các khách sạn nhà hàng và một
số lượng lớn quán, tiệm ăn uống trong các khu dân cư tập trung và chợ. Ngoài ra,
còn có các điểm dịch vụ lưu trú phục vụ du khách được xây dựng tại địa bàn
phường Bình Thuận, Tân Thuận Tây và một số phường khác. Năm 2005, dịch vụ tài
chính ngân hàng phát triển mạnh trên địa bàn Quận, có 7 Chi nhánh Ngân hàng
Thương mại cổ phần đến đăng ký hoạt động nâng số ngân hàng thương mại hiện
hoạt động trên địa bàn Quận là 12 đơn vị, so với năm 2000 chỉ có 2 đơn vị và có 1
siêu thị Coop Mart, 1 siêu thị điện máy, 3 nhà sách làm cho bộ mặt kinh tế - xã
hội của Quận có nhiều chuyển biến đáng kể.
Từ năm 2000 đến năm 2004, hoạt động xuất khẩu không ngừng phát triển.
Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp do Quận quản lý đạt 22,479
triệu USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 16,40%. Ngành chế biến
các sản phẩm từ gỗ có kim ngạch xuất khẩu cao nhất (chủ lực là công ty TNHH
Khải Vy) chiếm tỷ trọng 59,87%, kế đến là ngành giày da (chủ lực là công ty TNHH
Đức Thành) chiếm tỷ trọng 30,75% và ngành may mặc chiếm tỷ trọng 7,08% trên
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn Quận. So với chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ Quận lần II thì kim ngạch xuất khẩu đến năm 2005 đạt 10.000.000 USD,
chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu đến năm 2005 đã vượt khá cao.
Nguồn: [91;12]
52
Nguồn: [91;12]
Giai đoạn 2005 - 2010
Quận 7 với lợi thế riêng đã tập trung phát triển các lĩnh vực như: dịch vụ giao
nhận, vận tải hàng hóa trên cơ sở khai thác những thế mạnh về hệ thống cảng, phát
triển các loại hình vui chơi, giải trí, các dịch vụ tài chính - ngân hàng trên cơ sở
hình thành và phát triển khu đô thị Nam Sài Gòn. Ngành chủ lực vẫn là kinh doanh
phân bón, ngoài ra các ngành kinh doanh vật liệu xây dựng, xăng dầu, hàng công
nghệ phẩm, hàng kim khí điện máy, xe máy, hàng tiêu dùng cũng góp phần quan
trọng vào việc phát triển thương mại của Quận 7. Giai đoạn 2005 - 2010 tiếp tục
phát huy thế mạnh của hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển mạng lưới cung ứng
hàng xuất khẩu, với các mặt hàng truyền thống như: nông hải sản, thực phẩm chế
biến, hàng thủ công mỹ nghệ và hàng may mặc. Mặc dù, có một số thay đổi về việc
trung chuyển hàng hóa qua địa bàn của Quận nhưng với thế mạnh về bán buôn, các
công ty thương mại đã chuyển sang khai thác các mặt hàng như: vật liệu xây dựng,
công nghệ phẩm và gia dụng phục vụ nhu cầu xây dựng trên địa bàn và cung ứng
cho các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Trong giai đoạn này lãnh đạo Quận 7 kêu gọi đầu
tư xây dựng khu Hương Tràm, khu du lịch Mũi Đèn Đỏ, khu câu cá giải trí Sông
Tân.
Nhìn chung, giai đoạn 2005 - 2010 ngành thương mại, dịch vụ của Quận 7 phát
triển nhanh, nhất là những ngành dịch vụ chất lượng cao như nhà hàng, khách sạn, y
53
tếtỉ trọng ngành thương mại - dịch vụ liên tục tăng trong tổng giá trị sản xuất của
Quận, năm 2005 tỉ trọng ngành thương mại - dịch vụ năm 2005 là 39,7% đến năm
2010 là 45,6%.
Khi mới thành lập Quận, ngành thương mại chủ yếu tập trung ở tuyến đường
Huỳnh Tấn Phát và Trần Xuân Soạn là đầu mối phân bón lớn nhất của Quận. Với
tốc độ phát tiển và đô thị hóa nhanh, nhất là từ khi thành lập khu Phú Mỹ Hưng,
Quận đã thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Đặc biệt giai
đoạn 2005 - 2010 ngành thương mại, dịch vụ, vận tải phát triển mạnh, đóng góp rất
lớn giá trị sản xuất của Quận. Để phát triển nhanh ngành thương mại, Quận đã quy
hoạch phát triển chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, từ năm 2000 đến 2010 đã đạt
được một số kết quả:
- Khi mới thành lập Quận, trên địa bàn chỉ có 4 chợ cố định: chợ Tân Thuận,
chợ Tân Quy, chợ Tân Mỹ và chợ Tân Kiểng và 7 chợ nhóm lề đường: chợ đường
nội bộ cư xá Ngân hàng, chợ chiều Tân Kiểng, chợ chuối trước cư xá Ngân hàng,
chợ hãng dầu thực vật, chợ gần nhà máy Silico, chợ trước KCX Tân Thuận, chợ đầu
cầu Phú Xuân.
- Đến năm 2005 với tốc độ đô thị hóa ở Quận 7 tăng cao, mạng lưới kinh doanh
thương mại - dịch vụ trên địa bàn Quận phát triển đa dạng, đặc biệt là hệ thống chợ
phục vụ các nhu cầu tiêu dùng của người dân. Đến 2010, mạng lưới chợ trên địa bàn
hiện có 7 chợ cố định (chợ Phú Thuận, chợ cư xá Ngân hàng, chợ Tân Mỹ, chợ Tân
Kiểng mới, chợ Tân Kiểng cũ, chợ Tân Quy, chợ Tân Thuận) và tồn tại 4 chợ tự
phát: chợ tạm trước KCX Tân Thuận, trên đường Mai Văn Vĩnh, đường Huỳnh Tấn
Phát, đường Bùi Văn Ba.
- Hoạt động thương mại của Quận còn diễn ra sôi động tại 4 trung tâm buôn bán
dọc các tuyến đường chính của Quận, các mặt hàng chủ yếu là vật tư nông nghiệp,
vật liệu xây dựng, thương mại - dịch vụ - tài chính, bách hóa tổng hợp và dịch vụ
nhà đất.
+ Trung tâm thứ nhất chủ yếu nằm dọc tuyến đường Trần Xuân Soạn từ ngã
54
ba Lâm Văn Bền – Trần Xuân Soạn đến chân cầu Rạch Ông. Đây là chợ bán buôn
phân bón lớn cả nước, là thế mạnh của Quận 7 đây không những là đầu mối nhập
khẩu phân bón mà còn khẳng định vai trò trung chuyển, cung cấp phân bón cho thị
trường các tỉnh miền Tây Nam Bộ vào mùa mưa, cung cấp phân bón cho thị trường
miền Đông Nam bộ và các tỉnh miền Trung vào mùa khô.
+ Trung tâm thứ hai dọc tuyến đường Lê Văn Lương từ ngã ba Trần Xuân
Soạn – Lê Văn Lương đến ngã ba Nguyễn Thị Thập – Lê Văn Lương.
+ Trung tâm thứ ba dọc tuyến đường Huỳnh Tấn Phát từ chân cầu Tân Thuận
đến ngã tư Nguyễn Thị Thập – Huỳnh Tấn Phát.
+ Trung tâm thứ tư thuộc khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng diện tích 433 ha, gồm
nhiều công trình như trung tâm thương mại, dịch vụ, cao ốc văn phòng, trong đó có
Khu vui chơi giải trí Wonderland.
Ngoài ra, hiện nay (2010) trên địa bàn quận đã phát triển thêm 1 chi nhánh của
hệ thống siêu thị Co.op Mart (trong khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng), 1 siêu thị điện
máy (siêu thị Tự Do) trên đường Huỳnh Tấn Phát và 3 nhà sách có chức năng kinh
doanh hàng hóa phục vụ gia đình như: nhà sách Nguyễn Văn Cừ, Tân Thuận, Tấn
Phát.
Một số trung tâm thương mại và siêu thị điển hình ở Quận 7:
- Trung tâm thương mại - văn phòng cao cấp Saigon Paragon
- Trung tâm thương mại Thiên Sơn Plaza
- Khu thương mại Nam Thông
- Cao ốc thương mại Royal Tower
- Citimart Hưng Vượng
- Citimart Nam Long
- Co-opmart Phú Mỹ Hưng
- Siêu thị Seven Diamond Phú Mỹ Hưng
55
2.3 Sự chuyển biến về cơ sở hạ tầng của Quận 7 trong quá trình đô thị hóa
2.3.1 Ngành xây dựng
Giai đoạn 1986 – 1996
Từ sau giải phóng đến năm 1997, cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại huyện Nhà Bè phát
triển nhanh, làm cho một phần phía bắc huyện Nhà Bè trở thành khu vực đô thị và
được tách ra để thành lập quận mới là Quận 7. Trong giai đoạn này, huyện Nhà Bè
chỉ có 8 km đường nhựa ban đầu và một số hệ thống, trường lớp, trạm y tế xuống
cấp. Trước tình hình đó, huyện Nhà Bè đã chú trọng ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng
với những trục đường chính, nâng cấp, mở rộng, làm mới, trải nhựa nối huyện với
các khu vực lân cận, tạo tiền đề phát triển; hệ thống trường lớp khang trang, hệ
thống y tế được đầu tư trang thiết bị, bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng.
Trên cơ sở quy hoạch điều chỉnh chung, huyện Nhà Bè đã phân khu để đầu tư
xây dựng. Trong đó, 5 xã phí Bắc (Quận 7 ngày nay) được chú trọng. Đến cuối năm
1996, khu vực này đã có đất giao thông đô thị: 80 ha, đất giao thông đối ngoại: 35,5
ha, số lượng đường bộ: 103 đường, số lượng cầu đường bộ: 4 cầu, chiều dài mạng
lưới đường chính: 3028km.
Qua số liệu trên cho thấy, ngành xây dựng vẫn còn nhiều hạn chế, số lượng cầu,
đường, nhà ởvẫn còn thấp hơn nhiều so với những quận, huyện khác của Thành
phố trong cùng thời điểm. Tuy nhiên, tốc độ đô thị hóa ở đây ngày càng diễn ra
nhanh, ngành xây dựng đảm nhận trọng trách mới, phục vụ cho giai đoạn kế tiếp,
nhất là từ sau khi chia huyện Nhà Bè năm 1997.
Giai đoạn 1997 – 2005
Giai đoạn 2000 - 2005, quá trình đô thị hoá của Quận 7 diễn ra rất nhanh, bên
cạnh nhiều công trình cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng Quận 7 theo hướng phát
triển về phía nam của Thành phố được triển khai như: dự án mở rộng đường Huỳnh
Tấn Phát, công trình cầu Tân Thuận 2, cầu Kênh Tẻ, cầu Phú Mỹ, Đại lộ Nguyễn
Văn Linh, khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, cùng với các dự án nhà ở của Công ty
Nam Long, Công ty Vạn Phát Hưng, bệnh viện tim, Trường Đại học RMIT, Trường
Đại học An Ninh, Trường Đại học Sài Gòn, nhà lưu trú công nhân ở KCX Tân
56
Thuận của Công ty SADECO hoạt động xây dựng các công trình dân dụng cũng
diễn ra khá nhanh phục vụ nhu cầu nhà ở cho số dân ngày càng gia tăng và phục vụ
nhu cầu sản xuất kinh doanh tại các phường: Bình Thuận,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_21_0599847558_1069_1869389.pdf