MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài . 3
3. Mục đích nghiên cứu . 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . 7
5. Phương pháp nghiên cứu . 7
6. Nguồn tư liệu . 8
7. Đóng góp của luận văn . 8
8. Bố cục của luận văn . 9
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN HỆ NHẬT BẢN – NGA
TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN 1916 . 10
1.1. Bối cảnh quốc tế và tình hình Nhật Bản, Nga . 10
1.2.1. Bối cảnh quốc tế. 10
1.2.2.Bối cảnh lịch sử Nhật Bản . 13
1.1.3. Bối cảnh lịch sử Nga. 16
1.2. Quan hệ Nhật Bản – Nga từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. 20
1.2.1. Vấn đề Triều Tiên . 20
1.2.2. Vấn đề Trung Quốc. 22
1.2.3. Chiến tranh Nga – Nhật (1904 -1905) . 28
1.2.4. Hòa ước Portsmouth (1905). 30
1.3. Quan hệ Nhật - Nga từ kẻ thù trở thành đồng minh. 33
CHƯƠNG 2. QUAN HỆ NHẬT BẢN – LIÊN XÔ TỪ 1917-1929. 40
2.1. Bối cảnh quốc tế và tình hình Nhật Bản, Liên Xô . 40
2.1.1. Bối cảnh quốc tế. 40
2.1.2. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản . 422.1.3. Bối cảnh lịch sử Liên Xô . 46
2.2. Quan hệ Nhật Bản – Liên Xô từ 1917 - 1929. 50
2.2.1. Cách mạng tháng Mười thắng lợi và sự rạn nứt mối quan hệ hai
nước . 50
2.2.2. Mối quan hệ bị đổ vỡ . 54
2.2.1.1. Nguyên nhân . 54
2.2.1.2. Nhật Bản đưa quân can thiệp vào Liên Xô . 56
2.2.3. Nhật Bản công nhận Liên Xô. 61
Chương 3. QUAN HỆ NHẬT BẢN – LIÊN XÔ TỪ 1929-1945. 71
3.1. Bối cảnh quốc tế và tình hình Nhật, Liên Xô . 71
3.1.1. Bối cảnh quốc tế. 71
3.1.2. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản . 73
3.1.3. Bối cảnh lịch sử Liên Xô . 76
3.2. Quan hệ Nhật Bản – Liên Xô từ 1929-1945. 79
3.2.1. Những hành động khiêu kích của Nhật Bản và sự xấu đi trong mối
quan hệ hai nước . 79
3.2.1.1. Những mâu thuẫn không thể giải quyết . 79
3.2.1.2. Chiến sự tại Khasan. 86
3.2.1.3. Chiến sự ở Khalkin Gol. 88
3.2.2. Hiệp ước trung lập Xô – Nhật. 94
3.2.3. Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản . 98
3.2.3.1. Sự trung lập tất phải thất bại . 98
3.2.3.2. Liên Xô đánh bại Nhật Bản ở mặt trận phía Đông . 103
KẾT LUẬN
129 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 739 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ Nhật Bản – Liên Xô (1917-1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện
Smoniyl, tuyên bố thành lập chính quyền Xô viết do Lenin đứng đầu. Các sắc
lệnh đầu tiên của chính quyền Xô viết đã được thông qua là Sắc lệnh hòa bình
và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô viết còn thực hiện các biện pháp thủ
tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp, những đặc
quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các dân tộc, chính phủ Xô viết
công bố bản tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga khẳng định quyền bình
đẳng của các dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự quyết như công
nhận nền độc lập của Ba Lan, Phần Lan.
Như vậy, với sự thành công của cách mạng tháng Mười, nước Nga đã
trở thành nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, với thể chế chính trị
hoàn toàn đối lập với thế giới tư bản (trong đó Nhật là một bộ phận của thế
giới đó). Sự mâu thuẫn về ý thức hệ là trở ngại trong quan hệ Nhật - Nga.
Bên cạnh đó, việc chính quyền Xô viết tuyên bố không thừa nhận
những hiệp định mà chính phủ Nga Hoàng đã bí mật kí kết với các nước khác,
kể cả những hiệp định ký kết với Nhật trong giai đoạn 1907- 1916 đã làm cho
Nhật bất bình. Điều này báo hiệu sự rạn nứt nghiêm trọng trong quan hệ Nhật
- Nga. Đến ngày 02-12-1917 tại Brét Litốp, hiệp định đình chiến đã được kí
54
kết giữa nhà nước Xô viết với nước Đức và các nước phe liên minh, chấm dứt
tình trạng chiến tranh giữa hai bên. Như vậy, nhà nước Xô viết muốn rút ra
khỏi chiến tranh thế giới thứ nhất mà chưa nhận được sự chấp thuận của phe
hiệp ước. Ngày 03-03-1918 khi hòa ước Brét Litốp giữa nhà nước Xô viết và
Đức chính thức được kí kết, với việc chính quyền Xô viết quyết định rút khỏi
cuộc chiến chống lại Đức, “thời đại của mối quan hệ hữu nghị Nhật Bản -
Nga đã đến đi hồi kết”[46;17].
2.2.2. Mối quan hệ bị đổ vỡ
2.2.1.1. Nguyên nhân
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, nhà nước Xô viết lại phải
lao mình vào một cuộc chiến đấu mới cực kì khó khăn và khốc liệt. Đó là
cuộc nội chiến do các thế lực phản động trong nước và cuộc can thiệp vũ
trang của 14 nước đế quốc bên ngoài tiến hành, kéo dài trong ba năm – từ đầu
năm 1918 đến cuối năm 1920. Nước Nhật cũng tham gia vào cuộc chiến này,
nhưng không phải với tư cách là đồng minh của Nga như trong thế chiến thứ
nhất, mà là kẻ thù của nhau.
Sự sụp đổ của mối quan hệ Nhật Bản-Nga (sau đó là Liên Xô) là “một
kết quả đã được dự đoán trước đó, khi cách mạng tháng Mười thành công và
những người Bolshevik nắm quyền. Không có ai có thể đảm bảo rằng thời đại
của thiện chí, hòa hợp sẽ tiếp tục kéo dài hơn nữa, ngay cả khi đế quốc Nga
vẫn giữ nguyên vị thế và không bị tổn thương bởi cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất”[46;19].
Trước cách mạng tháng Mười, thể chế quân chủ Nga rất gần gũi với
thể chế của Nhật. Nhưng với sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười, chính
quyền Xô viết ở Nga đã xây dựng một thể chế chính trị đối lập hoàn toàn với
Nhật. Xét về ý thức hệ, chủ nghĩa Bolshevik được coi là một mối đe dọa lớn
55
với hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, mà trong đó, Nhật Bản chính là một
bộ phận.
Những người Bolshevik nắm quyền ở Nga đã trở thành một cú sốc lớn
với chính quyền Nhật. Một nhà lãnh đạo Nhật Bản đã từng tuyên bố “không
ai có thể tưởng tượng rằng một gia đình hoàng gia quyền lực, sở hữu một đội
quân khổng lồ và tiếng tăm khắp thế giới lại phải đối mặt với một điều tất yếu
như số phận đã định sẵn”[46;17]. Với người Nhật “chủ nghĩa cộng sản đã
được xem như là một bệnh ung thư đe dọa cả Trung Quốc và Nhật
Bản”[46;17]. Đặc biệt, sự bùng nổ kinh tế ở Nhật trong những năm tháng thế
chiến thứ nhất nổ ra đã kết thúc trong những năm 1918-1919 và áp lực to lớn
nhằm làm giảm lạm phát đã gây ra những khó khăn lớn về kinh tế. Các nhà
lãnh đạo quân sự đã buộc phải lo lắng rằng các sự kiện đang diễn ra như các
cuộc bạo loạn lúa gạo ở nhiều thành phố lớn của Nhật vào năm 1918 (do sự
tăng vọt giá bán gạo), có thể là điềm báo của tình trạng bất ổn nghiêm trọng
và sẽ đem đến nhiều rắc rối cho phái lãnh đạo bảo thủ. Chủ nghĩa Bolshevik,
theo cách các nhà lãnh đạo quân sự Nhật nhìn nhận, có thể “đổ thêm dầu vào
lửa” và “uy hiếp sự tồn tại của mình”. Do đó, có rất ít sự ủng hộ cho việc
công nhận chế độ Xô viết từ phía chính phủ Nhật.
Sự đổ vỡ của mối quan hệ hai nước còn bắt nguồn từ những tham
vọng của giới cầm quyền Nhật Bản. Chính quyền Sa Hoàng sụp đổ cùng “lực
lượng quân sự hùng mạnh của đế quốc Nga đã tiêu ma”, đã đem lại cho giới
lãnh đạo quân sự Nhật Bản một hy vọng mới: “Một không gian tự do hơn nữa
ở Mãn Châu, Mông Cổ và vùng Viễn Đông của Nga”[46;17-18]. Chính phủ
“Nhật muốn thành lập một quốc gia chống chính quyền Xô viết ở miền Đông
Siberia, vừa để ngăn chặn ảnh hưởng của chính quyền Xô viết, vừa để bành
chướng thế lực của Nhật sang vùng này”[34;184]. Chính vì vậy, “Nhật bản
56
phải lập tức xua quân vượt biển sang Siberia để làm chủ phần đất
đó”[56;267].
Ngoài ra, còn một lý do nữa khiến cho Nhật Bản không công nhận
Liên Xô và đưa quân can thiệp vì Anh một nước đồng minh của Nhật “đã yêu
cầu Nhật tiến binh sang Siberia”[56;267]. Vì đối với Anh, Pháp thì “việc Liên
Xô có khuynh hướng một mình một chợ giảng hòa với Đức là hành vi phản
bội. Để đối địch với chính quyền xã hội chủ nghĩa này, họ đã kêu gọi sự giúp
đỡ của người Nhật”[56;267].
Cách mạng tháng 10 thành công, với sự ra đời của chính quyền Xô
viết, với tư cách là người kế thừa nước Nga và tiếp tục phát triển quan hệ
Nhật-Nga trong giai đoạn 1907-1916, nhưng với nhiều nguyên nhân khác
nhau, mối quan hệ Nhật Bản – Liên Xô đã trở nên căng thẳng, rạn nứt và khó
tránh được một cuộc đối đầu quân sự.
2.2.1.2. Nhật Bản đưa quân can thiệp vào Liên Xô
Sau khi chính quyền Xô viết được thành lập và rút khỏi cuộc chiến
tranh, các nước đế quốc trong phe Hiệp ước (đồng minh của Nga trong chiến
tranh) đã tập hợp lực lượng, phối hợp với nhau nhằm tiêu diệt Liên Xô.
Ngày 22-12-1917, bốn nước Anh, Pháp, Mĩ, Nhật đã họp tại Pari thảo
luận về việc phân chia Liên Xô thành các khu vực ảnh hưởng của từng nước:
Anh sẽ nắm quyền kiểm soát vùng Capcadơ, Acmênia, Grudia và vùng sông
Đông; Pháp chiếm Bexarabia, Crưm và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu vực
Siberia và Viễn Đông Cũng trong tháng 12-1917, quân Rumani được Pháp
hỗ trợ đã chiếm Betxarabia. Từ tháng 03 đến tháng 04-1918 quân đội các
nước Hiệp ước đã xuất hiện tại vùng biên giới nước Nga. Quân đội Anh, Mĩ,
Pháp đổ bộ lên hải cảng Muốcmăngxcơ ở phía cực Bắc.
57
Còn về phía quân Nhật cho dù rất muốn nhanh chóng đưa quân vào
Siberia, nhưng đến giữa năm 1918 quân đội Nhật vẫn chưa thể tiến binh sang
đây vì vấp phải sự phản đối của Mĩ. Lý do Mĩ lên tiếng phản đối việc Nhật
điều quân sang Siberia là vì “lo sợ Nhật sẽ nhờ dịp đó xâm chiếm
Siberia”[7;114]. Ngày 20-02-1918, tướng Bliss của Mĩ đã viết: “Nếu để quân
Nhật can thiệp ở Siberia, ta phải đặt ra câu hỏi, làm thế nào và đến bao giờ
quân Nhật mới chịu rút lui”[7;114]. Sự lo ngại cũa Mĩ là có căn cứ, vì trong
hội nghị Versailles (1919), Nhật đã đưa ra tham vọng “không những muốn
củng cố địa vị ở Trung Quốc mà còn định chiếm cả vùng Viễn Đông của Liên
Xô”[37;68].
Đến tháng 06-1918, sau khi Anh và Pháp nhiều lần yêu cầu Mĩ giúp
sức để đưa lực luợng quân Tiệp Khắc đang bị mắc kẹt ở miền Đông Siberia
trở về Châu Âu, thì Mĩ đã gửi đến chính phủ Nhật một đề án chung: “Nhật
Bản có thể cùng chúng tôi đem binh lính qua Siberia không?”[56;267].
Nhưng theo ý của chính phủ Mĩ, “chỉ nên mở một cuộc hành quân mang tính
quốc tế để giúp quân Tiệp về Châu Âu”[7;115]. Dụng ý của chính phủ Mĩ là
muốn hạn chế tối đa số quân của Nhật đưa sang Siberia. Chính phủ Mĩ yêu
cầu Nhật gửi sang 7.000 quân, còn Mĩ cũng gửi 7.000 quân. Dự định khu vực
hành quân chỉ giới hạn quanh vùng phụ cận của Vladivostock.
Ngày 16-07-1918, chính phủ Nhật thông báo đến chính phủ Mĩ, có thể
Nhật “sẽ gửi sang Siberia nhiều quân hơn nếu nhu cầu đòi hỏi”[7;115]. Đến
ngày 02-08-1918 “Nhật thông báo sẽ không can thiệp vào nội bộ Nga và sẽ
rút lui khỏi Siberia khi công việc xong xuôi”[7;115]. Theo đúng kế hoạch,
ngày 11-08-1918, ba sư đoàn quân Nhật đổ bộ lên Vladivostock và ra “thông
cáo cho nhân dân biết Nhật sẽ trực tiếp nắm quyền giữ gìn trật tự trong thành
phố”[42;114]. Nửa tháng sau, báo chí Nhật lên tiếng yêu cầu chính phủ đem
quân đến tiếp viện.
58
Mượn cớ hai kiều dân của Nhật bị sát hại tại Vladivostock vào ngày
05-04-1918, chính phủ Nhật đã gửi sang 70.000 quân chứ không phải là
7.000 quân như yêu cầu của Mĩ. Đến cuối tháng 08-1918, tại thành phố
Vladivostock thuộc miền đông Siberia đã có 7.000 quân Mĩ và 5.600 quân
Anh-Pháp. Tuy nhiên, lực lượng quân Nhật là 70.000 quân, chiếm đóng một
vùng rộng lớn từ Xakhalin đến khu vực Baikal. Với một số quân đông, lại
chiếm đóng một khu vực rộng lớn, “nên cuộc hành quân này coi như là của
Nhật”[7;116]. Có thể nói rằng, hành động đưa quân can thiệp vào Siberia của
Nhật đã đánh dấu sự đổ vỡ lần thứ nhất trong quan hệ Nhật Bản - Liên Xô từ
năm 1917 - 1945.
Khi lực lượng quân Hiệp ước đổ bộ vào Siberia, tại đây đã có chính
phủ của đô đốc Koltchak được thành lập vào tháng 11-1918, đối lập hoàn toàn
với chính quyền Bolshevik, “tự phong là người cầm quyền tối cao của nước
Nga”[20;54], nắm trong tay 150.000 quân, chiếm đóng Siberia và vùng Uran.
Khi đổ bộ vào Siberia, quân Nhật đã hỗ trợ, nâng đỡ chính quyền của
Koltchak. Bên cạnh đó, các cuộc chiến giữa quân đội Nhật và lực lượng Hồng
quân đã diễn ra ngay từ khi Nhật tiến hành can thiệp và kéo dài cho đến khi
Nhật Bản rút quân khỏi các khu vực đất liền của Nga. Nhiều nơi, các cuộc
chiến đã gây thiệt hại khá lớn, được miêu tả bằng những từ ngữ như “dã
man”, “đẫm máu”và trong đó có cả sự tham gia của những kiều dân Nhật Bản
và Nga. Mãi đến sau này, cả Nhật và Nga mới thừa nhận đã có những hành
động tàn bạo, chống lại dân thường và binh lính với những biện pháp giống
nhau.
Những hành động quân sự của hai bên đã làm cho quan hệ của hai
nước trở nên căng thẳng. Trong năm 1919, Hồng quân Liên xô đã đánh tan
những lực lượng bạch vệ và can thiệp (các đội quân của Đênikin, Iuđenít,
Milerơ) trên khắp các chiến trường. Tại Siberia, tháng 07-1919 “Hồng quân
59
đã giải phóng khu công nghiệp Uran, đầy lùi quân Koltchak về tận
Siberia”[20;55]. Đến cuối năm 1919 đội quân bạch vệ của Koltchak bị đánh
tan tại trận Volga, bản thân “Koltchak đã bị bắt và bị xử bắn tại
Iêccút”[20;55].
Như vậy chính phủ bạch vệ của Koltchak do Nhật hỗ trợ đã bị đánh
bại tại Siberia. Đến đầu năm 1920, khi cuộc can thiệp vào Liên Xô không đạt
được kết quả, lực lượng quân sự của các nước Anh, Pháp, Mĩ lần lượt rút
quân khỏi Siberia nhưng quân đội Nhật vẫn duy trì các hoạt động quân sự tại
đây.
Vào tháng 03-1920, tại thị trấn Nikolaevsk gần cửa sông Amur trên
biển Okhotsk, một sự việc gây mâu thuẫn lớn giữa hai nước đã xảy ra: “sự
kiện thảm sát Nikolaevsk”. Tại đây, một nhóm các lực lượng Hồng quân và
quân du kích địa phương Nga đã bị cáo buộc về hành động giết 700 tù nhân
Nhật Bản (kể cả binh lính và dân thường), có cả một luật sư Nhật và gia đình
của ông.
Đáp lại cáo buộc trên, Liên Xô tuyên bố rằng quân Nhật Bản đã
giương cờ trắng đầu hàng nhưng sau đó lại nổ súng tấn công nên Hồng quân
buộc phải hành động nhưng phía Nhật tuyên bố rằng họ đã đầu hàng và đã bị
tàn sát không thương tiếc. Vụ thảm sát Nikolaevsk đã trở thành sự kiện xấu
gây ảnh hưởng nghiệm trọng đến quan hệ hai nước trong thời gian dài.
Ngày 06-04-1920, tại Siberia đã diễn ra một sự kiện quan trọng, đó là
sự ra đời của nước cộng hòa Viễn Đông (cộng hòa Chita), bao gồm các vùng
Pribaican, Dabaican, Amu, Primorie, Camsatca, Bắc Xakhalin. Mặc dù nuớc
cộng hòa Viễn Đông tồn tại trên danh nghĩa là một nhà nước độc lập, nhưng
nó phần lớn chịu sự kiểm soát của Liên Xô nhằm “tạo ra một hoãn xung quốc
(nước vùng đệm) giữa Liên xô và các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm
đóng”. [32;35]
60
Sau khi ra đời, chính quyền Viễn Đông yêu cầu Nhật rút toàn bộ quân
đội ra khỏi lãnh thổ của mình, vì vậy quan hệ của Nhật với nước cộng hòa này
rất căng thẳng. Ngày 26-05-1921 tại Vladivostok, quân Nhật ủng hộ cho một
cuộc đảo chính của Bạch vệ để lập nên một chính quyền mới được gọi là
chính phủ lâm thời Priamur. Đến tháng 09-1921 chính phủ Nhật đưa ra bản
“yêu sách 17 điểm” “đòi biến nước cộng hòa Viễn Đông thành thuộc địa của
họ”[32;36].
Trên thực tế, “giới quân phiệt Nhật đã đạt được việc thủ tiêu các công
sự phòng thủ của quân Nga tại vùng duyên hảiVladivostock và vùng biên giới
giáp Triều Tiên; buộc nước cộng hòa Viên Đông không được duy trì hạm đội
hải quân; trao cho người Nhật ở đây các quyền tự do buôn bán, kinh doanh,
hành nghề bình đẳng với cư dân địa phương và buộc nước cộng hòa này
không được thiết lập chế độ công sản...”[32;36]
Từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1921, Liên Xô đã giành thắng lợi
hoàn toàn trong cuộc chiến chống thù trong giặc ngoài. Những lực lượng quân
bạch vệ bị đánh tan, các đội quân can thiệp quốc tế cũng rút lui, ngoại trừ
quân Nhật nhưng “sức mạnh chiến đấu của quân đội cộng hòa Viễn Đông và
Hồng quân Xô viết đã làm thất bại những âm mưu của Nhật ở vùng
Vladivostock”[32;36].
Cuộc chiến tranh Siberia đã khiến Nhật chịu một tổn thất lớn “kinh
phí lên đến 10 tỷ yên, với thiệt hại nhân mạng trên chiến trường là 3.000
người chết, 20.000 nguời bị thương”[56;267]. Hậu quả này đã tạo lên một làn
sóng phản đối của người dân Nhật với chính phủ. Không chỉ chịu sự chỉ trích
từ trong nước, Nhật còn vấp phải sự phản đối từ bên ngoài. Việc Nhật vẫn
duy trì lực lượng quân sự tại Siberia khi các đồng minh của Nhật đã rút hết
quân tại đây ngay trong năm 1920, khiến họ không hài lòng. Chính phủ Mĩ
cáo buộc “Nhật đang nuôi tham vọng gì khác”[56;267]. Đặc biệt, tại hội nghị
61
Washington 1921 – 1922, phái đoàn Nhật đã bị hội nghị chất vấn: “Tại sao
còn đóng quân ở Siberia”[7;128] còn phía Nhật đưa ra lý do “cần phải bảo vệ
kiều dân và quyền lợi của Nhật đã có tại đây, đồng thời để giữ gìn an ninh cho
Triều Tiên”[7;128]. Trước áp lực quốc tế và trong nước, Nhật phải hứa rút
binh từ tháng 8 đến tháng 10-1922 và đến tháng 10-1922, quân Nhật đã rút
khỏi vùng Viễn Đông nhưng vẫn giữ lại một phầnlãnh thổ ở phía bắc đảo
Xakhalin cho đến năm 1925. Ngay khi quân Nhật rút lui, ngày 25-10-1922
quân đội cộng hòa Viễn Đông tái chiếm Vladivostok. Ngày 15-11-1922
cộng hòa Viễn Đông được sáp nhập vào Liên Xô. Chính phủ cộng hòa Viễn
Đông tự mình giải thể và chuyển giao tất cả quyền hạn và lãnh thổ cho chính
phủ Bolshevik tại Moscow.
Sau 5 năm, cuộc can thiệp vào Siberia của quân đội Nhật đã chấm dứt
mà “Nhật không thu được gì mà chỉ càng mất thêm uy tín thế giới”[34;185].
Đặc biệt, cuộc chiến này đã tạo ra “cái bóng đen bao trùm lên mối quan hệ
song phương của hai nước” và đánh dấu sự đổ vỡ lần thứ nhất trong quan hệ
Nhật – Xô.
2.2.3. Nhật Bản công nhận Liên Xô
Ngay sau khi cách mạng tháng Mười thành công, chính quyền Xô viết
non trẻ đã phải đối phó với tình huống cực kì khó khăn, đó là cuộc nội chiến
chống thù trong giặc ngoài từ năm 1918-1920. Bên cạnh đó, các cường quốc
phương tây còn không công nhận và thi hành chính sách bao vây, thù địch
đối với Liên Xô. Trong hội nghị quốc tế Versailles – Washington, chính phủ
Xô viết không được các nước tư bản cho tham dự. Tuy nhiên, sau thắng lợi
trong cuộc nội chiến 1918-1920, Liên Xô đã từng bước phá vỡ chính sách cô
lập của các các cường quốc phương Tây và khẳng định vị trí quốc tế của
mình.
62
Ngày 16-04-1922, hiệp ước Xô - Đức đã được kí kết tại Rapalo, Đức
trở thành quốc gia phương tây đầu tiên thiết lập ngoại giao với Liên Xô. Có
thể nói hòa ước “Rapalo đã giáng một đòn vào âm mưu cô lập Liên Xô của
các nước phương tây, đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao quan trọng
của nhà nước Xô viết”[29;139]. Ngày 30-12-1922 liên bang cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã được thành lập, sức mạnh của nhà nước Xô
viết được tăng cường và củng cố. Đến ngày 02-02-1924, Anh là nước tư bản
thứ hai ở Châu Âu sau Đức chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên
Xô. Sau đó, hàng loạt các quốc gia châu Âu khác tuyên bố công nhận và thiết
lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên Xô như Italia (7-2-1924), Pháp
(10-1924) Việc các cường quốc Anh, Pháp, Italia đã chính thức công nhận
và đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô đã cho thấy vai trò, uy tín ngày càng
cao của Liên Xô trên trường quốc tế.
Cùng với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các cường quốc
phương tây, trong thời gian này Liên Xô cũng đưa ra chính sách đối ngoại với
“những nỗ lực nhằm tạo ra một biên giới hòa bình nói chung và ở khu vực
Đông Á nói riêng để có thể hỗ trợ cho các tỉnh Viễn Đông của Nga, giúp khu
vực này có thời gian phục hồi, khắc phục sự tàn phá của chiến tranh và sự can
thiệp của thế lực bên ngoài”[46;24].
Ở khu vực Đông Bắc Á, Liên Xô đặc biệt quan tâm đến Trung Quốc
và Nhật Bản. Ngày 31-05-1924 hòa ước Xô – Trung đã được kí kết, theo đó
Trung Quốc công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, đồng thời
Liên Xô tuyên bố hủy bỏ tất cảc các đặc quyền trước đây chính phủ Nga
Hoàng đã kí với Trung Quốc. Trong khi đó, việc “nối lại mối quan hệ với
Nhật Bản được xem là một vấn đề khó khăn hơn cả”[46;24] vì “xuyên suốt
trong lịch sử các mối quan hệ của Nga mà nay là Liên Xô, nỗi ám ảnh về cuộc
chiến tranh 1904-1905 vẫn còn dai dẳng, việc Nhật Bản can thiệp Siberia kéo
63
dài và những cuộc chiếm đóng Xakhalin luôn là vấn đề gây trăn trở trong tâm
thức những nhà lãnh đạo Liên Xô và dân Nga”[46;24].
Tuy nhiên, để phá thế bao vây của các nước đế quốc, các nhà lãnh đạo
mới tại Moscow cần thiết lập quan hệ với Nhật Bản: “mối quan hệ với Nhật
Bản được xem là lý tưởng vì những lợi ích của nó”[46;24-25].
Ngoài ra, trong các cường quốc phương tây, chỉ còn Mĩ chưa công
nhận và vẫn duy trì chính sách thù địch chống Liên Xô, đây cũng là một
nguyên nhân thúc đẩy sự tiến tới của quan hệ Nhật -Xô. Nhà ngoại giao Xô
viết Lev Mikhailovich Karakhan tuyên bố với báo Izvestia: “Các thỏa thuận
với Nhật Bản, bằng cách tăng cường vị trí của chúng tôi ở Thái Bình Dương,
cũng chính là một sự cảnh báo với Mỹ, việc nước này không kí hiệp ước với
chúng tôi chỉ làm cho vị trí của nó tồi tệ hơn”[46;22].
Cuộc can thiệp vào Siberia thất bại và đặc biệt là sau hội nghị
Washington 1921 – 1922, thì vị thế, uy tín và vai trò của Nhật trên trường
quốc tế bị suy giảm nghiêm trọng. Một trong những mục tiêu mà Mĩ triệu tập
hội nghị Washington chính là nhằm ngăn chặn không cho Nhật gia tăng quân
bị, bành trướng thế lực lãnh thổ. Cụ thể Hiệp ước bốn nước đã thay thế liên
minh Anh - Nhật, “nhằm cô lập Nhật thêm một bước”[37;74]; Hiệp ước năm
nước hạn chế lực lượng hải quân của Nhật. Đặc biệt Hiệp ước chín nước đã
“xác nhận mở cửa đối với Trung Quốc”, “tức là mọi quốc gia đều có quyền
buôn bán giống nhau ở Trung Quốc”, như vậy “người bị mất các đặc quyền
không ai khác hơn ngoài Nhật”[34;187].
Ngoài việc kí những hiệp ước nhằm cô lập Nhật trong hội nghị
Washington, Mĩ “cũng đang hướng đôi mắt thèm thuồng sang khu vực này
(Châu Á), nhất là đối với thị trường Trung Quốc rộng lớn” [37;73]. Điều này
khiến cho Nhật không hài lòng vì với “thuyết Châu Á là của người Châu
Á”[37;73], từ lâu khu vực Đông Bắc Á nói chung, Trung Quốc nói riêng đã
64
được xem là “sân nhà” của Nhật. Tham vọng của Mĩ, khiến cho mối quan hệ
Nhật – Mĩ trở lên căng thẳng. Điều đó buộc Nhật phải có những tính toán
mới về chính sách ngoại giao đối với các nước khu vực, trong đó có Liên Xô.
Chính vì vậy, dù cho “ở Nhật lúc bấy giờ tồn tại một xu hướng lo ngại
và không thiện cảm với chính phủ Xô Viết”[46;27] nhưng để lấy lại uy tín,
duy trì tầm ảnh hưởng ở khu vực Đông Bắc Á và phá bỏ sự cô lập của Mĩ, thì
việc thiết lập lại quan hệ Nhật-Xô là một giải pháp có thể tính đến.
Ngay từ giữa năm 1921, đã có nhiều yếu tố xuất hiện cho thấy việc
Nhật Bản đã có sự chuẩn bị để nối lại quan hệ với Liên Xô. Tháng 08-1921,
một hội nghị song phương đã được triệu tập ở Trung Quốc để thảo luận việc
công nhận lẫn nhau giữa Nhật - Liên Xô. Tuy nhiên, hội nghị đã bị phá do
quân đội Nhật vẫn còn đóng quân tại Siberia cũng như dư âm từ vụ thảm sát
Nikolaevsk vẫn còn.
Đến tháng 09-1922, sau khi quân Nhật rút khỏi đất liền, một hội nghị
thứ hai đã được triệu tập tại Trường Xuân, Trung Quốc. Những khúc mắc
trong vụ thảm sát Nikolaevsk cũng như việc quân đội Nhật vẫn chiếm đóng
Bắc Sakhalin vẫn là những những nguyên nhân khiến cho việc bình thường
hóa mối quan hệ Nhật-Xô đi vào ngõ cụt.
Ngày 30-12-1922, nước Cộng hòa Viễn Đông được sáp nhập vào Liên
Xô, đã báo hiệu những tiến triển tốt đẹp cho quá trình thương thuyết của hai
bên. Từ năm 1923, Nhật Bản đã tiến hành đàm phán với chính phủ Liên Xô ở
Moscow.
Phía Nhật Bản đã cử bá tước Shimpei Goto (Thị trưởng Tokyo) làm
đại diện. Tại Nhật, Shimpet Goto được xem là một trong những người ủng hộ
Nga, là nhân vật đã đề xuất việc Nhật Bản cần xích lại gần Nga trong những
năm 1907-1916. Chính vì vậy, sự tham gia của Shimpei Goto với người đại
65
diện chính phủ Bolshevik cho thấy Nhật Bản đã bắt đầu thay đổi và hướng
đến một cuộc đàm phán thiết thực hơn với Liên xô. Chính phủ Liên xô đã
cửnhà ngoại giao Adolf Ioffe, người đã có nhiều kinh nghiệm về Châu Á để
tiếp xúc. Chính phủ Nhật Bản đã quyết định bắt đầu đàm phán chính thức với
Adolf Ioffe tại Nhật Bản.
Vào đầu năm 1923, hai nhà ngoại giao Shimpei Goto và Adolf Ioffe
đã có một cuộc gặp gỡ không chính thức tại Yokohama (Nhật Bản). Các cuộc
đàm phán kéo dài đến mùa hè năm 1923,trong đó nhiều lần bị gián đoạn bởi
dư âm của vụ thảm sát Nikolaevsk. Chính phủ Nhật Bản yêu cầu một lời xin
lỗi chính thức từ phía Liên Xô và mong muốn Liên Xô sẽ bán nửa còn lại của
Xakhalin cho Nhật nhưng chính phủ Liên Xô đã từ chối yêu cầu này.
Không chỉ vậy, năm 1923 còn có một sự kiện ảnh hưởng không tốt
đến quá trình đàm phán. Đó là việc chính phủ Nhật đã từ chối tiếp nhận viện
trợ thực phẩm của Liên Xô và các hỗ trợ vật chất khác nhằm giúp Nhật Bản
khắc phục hậu quả trận động đất Kanto (1923). Con tàu cứu trợ mang tên
Lenin (chuyến tàu cứu trợ nước ngoài đầu tiên đến Yokohama Nhật Bản), đã
buộc phải quay đầu lại ngay sau khi nó cập cảng dù trên mình nó nặng trĩu
những hàng hóa. Các đơn vị quân đội Nhật Bản chịu trách nhiệm phân phối
hàng cứu trợ trong vùng bị thiệt hại đã nghi ngờ động cơ của Liên Xô và
không cho phép các nhân viên của Liên Xô tháo dỡ và phân phối hàng cứu trợ
cho người dân Nhật. Cử chỉ này “được xem như là một hành động gây xúc
phạm lớn đến Chính phủ Liên Xô”[46;25].
Sau những gián đoạn, đến mùa xuân năm 1924, đàm phán giữa chính
phủ Nhật - Xô được nối lại tại Bắc Kinh. Trong khoảng thời gian này, những
đại diện của hai bên gồm có bộ trưởng Kenkichi Yoshizawa của Nhật Bản và
Lev Karakhan từ Liên Xô. Các cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra đến cuối năm
1924 với những tiến triển tốt đẹp. Ngày 20-1-1925, hai bên đã ký Công ước
66
quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao. Công ước quy định Nhật Bản phải rút
quân khỏi Bắc Xakhalin và trả lại vùng đất này cho Liên Xô; hai bên cùng
chung sống hòa bình trên cơ sở không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Liên Xô cam kết vẫn tôn trọng Hiệp định Portsmouth năm 1905 và cho
phép các công dân, công ty, hiệp hội Nhật Bản đầu tư, khai thác tài nguyên
khoáng sản và lâm nghiệp trên toàn lãnh thổ Liên Xô. Có thể nhận ra, “công
ước này là một sự nhượng bộ của Liên Xô đối với Nhật Bản nhằm củng cố
nền hòa bình ở Viễn Đông”[42;173].
Nhìn chung, “việc nối lại mối quan hệ hai bên giữa Nhật Bản-Liên Xô
1923-1925 được xem là một sản phẩm của những chi phối từ bên ngoài. Nhận
thức được mối nguy hiểm tiềm năng ở vùng Viễn Đông, các nhà lãnh đạo của
cả hai nước tìm cách khôi phục vị trí chiến lược của họ. Hướng về nhau được
xem là một chiến thuật tạm thời, nó được thiết kế như một tấm khiên chắn để
bảo vệ các lỗ hổng. Tính chất địa chính trị trong việc tái lập mối quan hệ hai
bên đã được chứng thực bởi cả hai bên”[46;27]. Chính vì vậy, “việc công
nhận lẫn nhau vào năm 1925 đã không mang lại một sự thay đổi mạnh mẽ
trong cách nhìn của cả hai chính phủ và hai dân tộc với nhau. Những nhận
thức về nhau trong suốt thời gian dài là khá thấp. Cảm giác nghi ngờ lẫn nhau,
những vết thương từ trong những năm 1904-1905 đã lại tiếp tục tái lại trong
những năm 1918-1922, và đã để lại những vết sẹo sâu cho đến nhiều thập kỷ
về sau”[46;24].
Trong ngày kí kết nghị định thư công nhận nhà nước Xô viết tháng
01-1925, thủ tướng Kato, đã có bài diễn văn trước các thành viên trong đảng
Kenseikai (đảng Lập hiến): “Chính phủ Liên Xô ở Moscow, mà chỉ là tên gọi
khác của Quốc tế thứ ba, không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội để truyền bá chủ
nghĩa cộng sản ở tất cả các nước trên thế giới, d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2015_02_03_3224145279_6919_1872775.pdf