Luận văn Quản lý giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam – Phân tích qua điện và xăng dầu

Lời cam đoan i

MỤC LỤC ii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT v

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU vi

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 15

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG HÓA THIẾT YẾU 15

1.1.1. Khái niệm hàng hóa thiết yếu 15

1.1.2. Giá cả hàng hóa thiết yếu và mối quan hệ với chỉ số giá tiêu dùng 18

1.1.3. Đặc điểm của hàng hóa thiết yếu ảnh hưởng tới quản lý giá 20

1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU 29

1.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 29

1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 30

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 32

1.2.4. Các hình thức quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 35

1.2.5. Đánh giá quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 36

1.2.6. Các nhân tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 39

1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU 41

1.3.1. Kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu trên thế giới 41

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu 53

 

doc213 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam – Phân tích qua điện và xăng dầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14, căn cứ vào khung giá bán buôn điện, Hội đồng thành viên EVN quyết định giá bán buôn điện cho từng TCTĐL trên nguyên tắc đảm bảo tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các TCTĐL ở mức tương đương nhau nhưng không được vượt quá khung giá bán buôn điện do Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt. Khi giá bán lẻ điện bình quân điều chỉnh theo các thông số đầu vào cơ bản thì Hội đồng thành viên xem xét, quyết định điều chỉnh giá bán buôn. Giá bán buôn điện hàng năm của EVN bán cho TCTĐL i được xác định theo công thức sau: Trong đó: : Giá bán điện của EVN bán cho TCTĐL i (đồng/kWh); : Tổng doanh thu bán điện dự kiến thu được trong năm N của TCTĐL thứ i (đồng), được xác định căn cứ theo: Sản lượng điện thương phẩm dự kiến căn cứ theo sản lượng điện sản xuất hàng năm theo quy định của Bộ Công Thương theo hai phương án: phương án thấp với sản lượng điện sản xuất bằng 90% sản lượng theo phương án cơ sở, phương án cao với sản lượng điện sản xuất bằng 110% sản lượng theo phương án cơ sở; trong đó, sản lượng theo phương án cơ sở là sản lượng điện theo quy định tại Quyết định của Bộ Công Thương phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện hàng năm; Cơ cấu sản lượng điện thương phẩm cho các nhóm đối tượng khách hàng; : Tổng chi phí phân phối điện của TCTĐL i (đồng); : Điện năng giao nhận giữa EVN (Công ty Mua bán điện) với TCTĐL i dự kiến (kWh). Giá bán buôn điện của EVN cho các TCTĐL xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo thu hồi chi phí phát điện, chi phí truyền tải điện và quản lý ngành. Giá bán buôn của EVN cho các TCTĐL khác nhau là khác nhau. Nguyên nhân do đối với những TCTĐL Miền, mạng lưới phân phối trải rộng, phân phối nhiều khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa, chi phí phân phối- bán lẻ điện cao. Ngược lại, ở các khu vực thành thị, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, dân cư tập trung vì vậy chi phí phân phối bán lẻ thấp. Giá bán buôn của EVN cho các TCTĐL có sự bù chéo giữa các TCTĐL đảm bảo các TCTĐL có lợi nhuận. Đối với thị trường bán buôn điện cạnh tranh (VWEM): Theo Quyết định 8266/QĐ-BCT của Bộ Công Thương, VWEM sẽ được vận hành thí điểm bước 1 trong năm 2016 (tính toán mô phỏng, chưa thanh toán thực), vận hành thí điểm trong năm 2017 - 2018 và vận hành chính thức từ năm 2019. Đúng theo lộ trình quy định, trong giai đoạn 2016 - 2017, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các đơn vị thành viên thực hiện các công tác vận hành VWEM thí điểm tính toán mô phỏng trên giấy theo các Quyết định số 12751/QĐ-BCT ngày 23 tháng 11 năm 2015 và Quyết định số 709/QĐ-BCT ngày 08 tháng 3 năm 2017. Mục tiêu của thí điểm trên giấy là tạo điều kiện để các TCTĐL - những đơn vị lần đầu tham gia thị trường điện - làm quen và nắm vững các kiến thức, cơ chế vận hành của thị trường điện, đồng thời chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của VWEM thông qua các khóa đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu, sẵn sàng cho việc triển khai bước thí điểm tiếp theo. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, VWEM thí điểm thanh toán thật đã bắt đầu vận hành theo Quyết định số 4804/QĐ-BCT ngày 26 tháng 12 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt phương án vận hành VWEM thí điểm năm 2018. VWEM thí điểm 2018 có sự tham gia của 05 TCTĐL, công ty mua bán điện và hai nhà máy điện Phú Mỹ 1 và Phú Mỹ 4. Theo đó, tỷ lệ mua điện năng mua theo cơ chế thị trường của các TCTĐL là 4,42%, phần điện năng còn lại tiếp tục mua theo cơ chế giá bán buôn điện của EVN bán cho các TCTĐL. Trong hơn 03 tháng đầu năm 2018, các TCTĐL đã tiến hành ký kết các hợp đồng mua bán điện 03 bên với GENCO3 và EVN (đại diện là công ty mua bán điện); thực hiện dự báo phụ tải, tính toán phân bổ sản lượng hợp đồng mua trên thị trường điện, thu thập, đối soát số liệu đo đếm, kiểm tra, đối soát, xác nhận các bảng kê ngày, bảng kê tháng trên thị trường giao ngay. Vượt qua các bỡ ngỡ, vướng mắc trong các tháng vận hành đầu tiên, đến nay thì công tác vận hành VWEM cơ bản đã đi vào ổn định, làm tiền đề cho việc đánh giá, mở rộng và nâng cấp vào năm 2019 theo lộ trình. 2.2.2.3. Thực trạng việc kiểm tra, thanh tra về giá đối với điện tại Việt Nam Hàng năm, nhằm thực hiện chức năng QLNN về giá đối với điện, Bộ Công thương đều chủ trì và là đầu mối thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành để thực hiện kiểm tra công tác thực hiện các quy định về giá điện. Thành phần đoàn kiểm tra liên ngành thường bao gồm các đơn vị có liên quan, như: Bộ Công thương (trực tiếp là Cục Điều tiết điện lực), Bộ Tài chính (trực tiếp là Cục Quản lý giá) và đại diện của các đơn vị: Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Bảo vệ người tiêu dùng... Đối với việc kiểm tra hàng năm liên quan đến giá điện, công tác kiểm tra ngoài việc kiểm tra kết quả kinh doanh của các đơn vị, thì tập trung trọng tâm vào kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện, bao gồm các chi phí: chi phí cho khâu phát điện (chi phí mua điện từ các Tổng công ty phát điện, nhà máy điện độc lập và nhập khẩu điện trên 30MW; chi phí sản xuất điện từ các nhà máy hoạch toán phụ thuộc; chi phí tự sản xuất và chi phí mua điện của các Tổng công ty Điện lực từ các nguồn điện dưới 30MW); chi phí khâu truyền tải (chi phí tài chính, chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương; chi phí vật liệu; chi phí sửa chữa lớn); chi phí khâu phân phối điện (các khoản chi phí theo định mức, chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương; chi phí khấu hao; chi phí sửa chữa lớn; chi phí tài chính); chi phí khâu quản lý ngành và phụ trợ (chi phí vật liệu; chi phí sửa chữa lớn; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khấu hao; chi phí sửa chữa lớn; chi phí bằng tiền khác). Bảng 2.10: Số lượng doanh nghiệp điện (đơn vị) được kiểm tra từ 2015 – 2018 Đvt: doanh nghiệp (đơn vị) Chỉ tiêu Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Số lượng các doanh nghiệp/đơn vị kiểm tra 9 8 9 10 Nguồn: Cục Quản lý giá Thực hiện việc kiểm tra hàng năm dựa trên các nguyên tắc phân tách và kiểm tra các thành phần chi phí cụ thể là: (1) Chi phí sản xuất kinh doanh điện chỉ bao gồm chi phí ản xuất kinh doanh của các hoạt động trong lĩnh vực điện, không bao gồm lĩnh vực khác; (2) Tách bạch chi phí giữa các khâu: phát điện, truyền tải, phân phối, phụ trợ và quản lý ngành; (3) Chi phí mua điện từ các nhà máy điện độc lập, từ các nhà máy điện đã cổ phần hóa có ký hợp đồng mua bán điện với EVN, từ các nhà máy điện thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạch toán độc lập với EVN xác định thông qua hợp đồng mua bán điện; (4) Chí phí sản xuất điện từ các nhà máy hạch toán phụ thuộc EVN được xác định căn cứ vào số liệu chi phí đã được kiểm toán độp lập xác nhận; (5) Căn cứ trên tài liệu do EVN và các đơn vị thành viên cung cấp (báo cáo chi phí và giá thành do kiểm toán độc lập lập; báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán; hợp đồng mua bán điện); (6) Kiểm tra không bao gồm việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý sử dụng vốn và tài sản, các quy định về đầu tư, đấu thầu xây dựng công trình điện và mua sắm, thanh lý thiết bị, cơ cấu sản lượng phát điện Số liệu về số lượng các doanh nghiệp/đơn vị được kiểm tra trong những năm vừa qua cụ thể được thể hiện trong Bảng 2.10. Như vậy, số lượng các đơn vị được kiểm tra trong những năm vừa qua ổn định quanh mức từ 8 đến 10 đơn vị. Cụ thể 10 đơn vị được kiểm tra năm 2018 là: (1) Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN; (2) Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia; (3) Tổng công ty Điện lực Miền Bắc; (4) Tổng công ty Điện lực Miền Nam; (5) Tổng công ty Điện lực Miền Trung; (6) Tổng công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh; (7) Tổng công ty Điện lực Thành phố Hà Nội; (8) Công ty Mua bán điện; (9) Công ty Truyền tải điện 4, (10) Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia. Trên cơ sở kiểm tra hàng năm, cơ quan QLNN đã nắm bắt được tình hình thực tế của các doanh nghiệp, nhất là bóc tách được các chi phí và nhóm chi phí theo từng khâu (chi phí cho khâu phát điện; chi phí khâu truyền tải; chi phí khâu phân phối điện; chi phí khâu quản lý ngành và phụ trợ); đánh giá sự phù hợp và hợp lý của các chi phí đó để làm cơ sở cho việc tính toán các phương án giá phục vụ công tác điều hành giá. Đồng thời, qua đây cũng góp phần giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá và hoàn thiện cơ chế, chính sách trong công tác quản lý, điều hành giá điện. 2.2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về giá đối với xăng dầu tại Việt Nam 2.2.3.1. Thực trạng xây dựng và ban hành các chính sách, pháp luật quản lý nhà nước về giá đối với xăng dầu tại Việt Nam [50] 2.2.3.1.1. Giai đoạn từ tháng 9 năm 2003 trở về trước Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu. Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh. Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá tối đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa. Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng giá tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau một chu kỳ kinh doanh. Bên cạnh đó, phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã được điều chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý. Từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng. Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu. 2.2.3.1.2. Giai đoạn từ tháng 9 năm 2003 đến tháng 4 năm 2007 Từ một cơ chế định giá áp đặt Nhà nước bù lỗ, bù giá kéo dài trong nhiều năm thì đến năm 2003, đánh dấu sự đổi mới đầu tiên, khá mạnh của cơ chế quản lý theo quy định của Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ là Nhà nước xác định giá định hướng và mức thuế ổn định... làm cơ sở cho các doanh nghiệp xác định giá bán lẻ cụ thể, bảo đảm cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bù đắp chi phí hợp lý và có lãi để tích lũy cho đầu tư phát triển, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình... Một số nội dung chủ đạo của Quyết định này bao gồm: - Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi +10% (đối với xăng) và +5% (đối với các mặt hàng dầu). - Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu. Quy định này tiếp tục được kế thừa cho đến nay. - Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và doanh nghiệp. Với những nguyên tắc như vậy, có thể coi đây là bước “đột phá”, một “cầu nối” tích cực tạo ra điều kiện nhanh nhất để kinh doanh xăng dầu chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, do những nguyên nhân nhất định, nhất là giá thế giới liên tục tăng tác động không thuận đến kinh tế trong nước nên trên thực tế từ 2003- 2006, Nhà nước vẫn nắm quyền quyết định giá bán xăng dầu và quyết định các mức giá chưa tiệm cận với giá thế giới; đồng thời áp dụng đồng bộ với các biện pháp linh hoạt chính sách thuế, vẫn bù giá cho doanh nghiệp và bao cấp giá xăng dầu cho nền kinh tế để chia sẻ giảm bớt khó khăn cho sản xuất và đời sống. Thực tế ấy đã lặp lại những bất cập đã diễn ra trong nhiều năm của giai đoạn trước, đó là: việc xử lý thường chậm và mang tính tình thế, mang nặng tính hành chính trong quy trình định giá, phản ứng chính sách thường “lệch pha” với sự biến động của thị trường. Không tạo ra sức ép của thị trường để thúc đẩy các đơn vị sản xuất, kinh doanh sử dụng xăng dầu xóa bỏ tâm lý ỷ lại; chủ động đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đổi mới quản lý, sử dụng hợp lý định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Ngoài ra, do bao cấp về giá nên nạn buôn lậu diễn ra phức tạp, làm chảy xăng dầu sang các nước láng giềng. 2.2.3.1.3. Giai đoạn từ tháng 4 năm 2007 đến nay a) Giai đoạn áp dụng Nghị định số 55/2007/NĐ-CP Nghị định số 55/2007/NĐ-CP ngày 6/4/2007 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu đã quy định áp dụng nguyên tắc giá bán xăng dầu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, do thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương nhân sản xuất, chế biến xăng dầu quyết định sau khi nộp các loại thuế, phí theo quy định hiện hành, theo lộ trình. Việc điều hành giá xăng theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát của Nhà nước nói trên đã có những mặt tích cực thấy rõ, nhưng trong điều hành thực tế vẫn còn bất cập: Để thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, Nhà nước vẫn kiểm soát chặt chẽ giá bán xăng dầu; có những thời điểm doanh nghiệp đề nghị tăng giá theo tín hiệu giá thế giới, nhưng không được chấp thuận, mà Nhà nước thực hiện lùi thuế nhập khẩu có lúc về 0% để giữ ổn định giá hoặc để giá không tăng quá cao. Trên thực tế quyền chủ động của doanh nghiệp phải ứng xử khi giá thị trường thế giới biến động mới chỉ thực hiện việc chủ động đăng ký điều chỉnh giá và chờ đợi cơ quan QLNN có chấp thuận hay không. Việc chuyển cơ chế quản lý giá từ hình thức Nhà nước định giá bắt buộc phải chấp hành sang kiểm soát việc tính giá thông qua hình thức đăng ký giá mà không quy định rõ trường hợp nào doanh nghiệp đăng ký và bán bình thường theo giá đăng ký, trường hợp nào doanh nghiệp đăng ký giá phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý giá mới được bán hàng. Sự chuyển đổi từ hình thức quyết định giá sang chấp thuận hay không chấp thuận đăng ký giá của doanh nghiệp vẫn mang dáng dấp của hình thức duyệt giá cũng chưa thật phù hợp với đích của cơ chế thị trường... Trong nhiều thời điểm vì phải xử lý các mục tiêu lớn hơn của nền kinh tế, phải chia sẻ với những lợi ích chung nhiều hơn nên giá xăng dầu vẫn chưa hoàn toàn đúng nghĩa là giá thị trường. Tương tự như Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg, trong suốt thời gian hiệu lực của Nghị định số 55/2007/NĐ-CP, việc thực hiện “cơ chế thị trường” đối với giá xăng dầu vẫn chưa áp dụng được trên thực tế, bởi lẽ mỗi lần điều chỉnh giá, doanh nghiệp đều phải trình và chờ quyết định chính thức của cơ quan quản lý. Kết quả là giá xăng dầu vẫn bất ổn, Nhà nước vẫn tiếp tục bù lỗ và người tiêu dùng vẫn tiếp tục phản ứng mỗi khi giá xăng dầu biến động do chưa hiểu rõ được nguồn gốc. Những bất cập này đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Công Thương chủ trì cùng các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định số 55/2007/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, để kinh doanh xăng dầu được vận hành theo cơ chế thị trường... b) Giai đoạn thực hiện theo Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 6/4/2007 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu: Nghị định 84/NĐ-CP ngày 15/12/2009 thay thế Nghị định 55/2007/NĐ-CP, đây là lần đầu tiên một Nghị định quy định rất cụ thể, khống chế định mức, định lượng, thời hạn của việc tăng, giảm giá xăng dầu. Đặc biệt là việc công khai hóa công thức tính toán hình thành giá bán lẻ xăng dầu, công khai minh bạch để làm căn cứ giám sát quá trình tăng, giảm giá. Nghị định cho phép doanh nghiệp được phép tự ban hành, công bố và áp dụng giá bán mà không cần đăng ký, xin phép phương án điều chỉnh giá, bỏ qua khâu kiểm tra, phê duyệt phương án như trước đây, từ đó xóa bỏ được tình trạng cơ quan quản lý chờ doanh nghiệp đăng ký giá, còn doanh nghiệp nhìn nhau để tăng, giảm, tức là loại bỏ yếu tố phi thị trường. Sự ra đời của Nghị định 84/2009/NĐ-CP được xem là hành lang pháp lý để xăng dầu chính thức đi vào hoạt động. Mục tiêu lớn nhất của Nghị định 84/2009/NĐ-CP là tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và điều hành giá xăng dầu nhằm bảo đảm để giá xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường; Nhà nước không bù lỗ kinh doanh mặt hàng xăng dầu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về giá, cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và cạnh tranh về giá; tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. Đồng thời đảm bảo vai trò QLNN về giá hướng vào việc khắc phục tình trạng độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh về giá, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội; bình ổn giá, ngăn ngừa tác động tự phát của giá thế giới vào hệ thống giá trong nước, đẩy giá trong nước tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý. Nghị định 84/2009/NĐ-CP đã cho phép các thương nhân đầu mối được quyền chủ động điều chỉnh giá xăng dầu của mình khi các yếu tố hình thành giá cơ sở tăng đến 7% hoặc giảm trong phạm vi 12% và có thể điều chỉnh giá tối đa 3 lần/tháng. Trường hợp các yếu tố hình thành giá cơ sở tăng (giảm) trên 12% hoặc việc tăng giá có tác động bất lợi đến ổn định kinh tế xã hội, Nhà nước có những biện pháp phù hợp nhất định: sử dụng Quỹ BOG, thu điều tiết về Ngân sách các khoản thuế... Nhà nước chỉ can thiệp khi phát hiện các thương nhân đầu mối bán với giá không hợp lý hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Mỗi lần điều chỉnh giá, các doanh nghiệp phải gửi phương án giá tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ các quy định của Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, Thông tư số 234/2009/TT-BTC, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện hậu kiểm trên cơ sở theo dõi các yếu tố hình thành giá cơ sở của các doanh nghiệp: giá Platt’s bình quân 30 ngày, premium, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng dầu Đồng thời với việc đổi mới cơ chế giá, Bộ Tài chính cũng ban hành biểu thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu tương ứng với giá xăng dầu trên thị trường thế giới. Trước đó, Bộ Tài chính đã ban hành khung thuế tương tự; tuy nhiên do các điều kiện thị trường chưa đồng bộ nên khung thuế còn có những hạn chế (tần suất điều chỉnh nhiều khiến doanh nghiệp rất khó chủ động trong kinh doanh, hạch toán giá thành, thuế suất những mặt hàng là nhiên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất quan trọng: điêzen, madut cao...). Khung thuế mới đã khắc phục những nhược điểm của khung thuế cũ: tần suất điều chỉnh giảm (khoảng cách giữa các bước trong khung thuế lớn hơn trước) và có ưu tiên cho nhiên liệu dùng cho sản xuất hơn là nhiên liệu cho tiêu dùng (nhiên liệu cho sản xuất có mức thuế thấp hơn 5% so với nhiêu liệu cho tiêu dùng)... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập, cần phải tổng kết, đánh giá để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, như: về công thức tính giá cơ sở; về lợi nhuận định mức; về tần suất điều chỉnh giá; về thù lao, hoa hồng đại lý; về quy định liên quan đến Quỹ bình ổn giá... c) Giai đoạn thực hiện theo Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 về kinh doanh xăng dầu Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về chính sách đối với kinh doanh xăng dầu, ngày 01/11/2014, Nghị định số 83/NĐ-CP đã ra đời, thay thế cho Nghị định số 84/2009/NĐ-CP. Nguyên tắc "Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" tiếp tục được nhất quán thực hiện. Đồng thời theo cơ chế này, thương nhân kinh doanh xăng dầu đầu mối được định giá bán trong biên độ nhất định, theo quy trình và nguyên tắc quy định. Nhà nước thực hiện giám sát, kiểm soát và điều tiết giá xăng dầu thông qua việc quy định công thức tính giá cơ sở, thời gian tối thiểu giữa hai lần điều chỉnh giá. Khi giá cơ sở tăng cao hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, Nhà nước áp dụng các biện pháp bình ổn giá thông qua các công cụ tài chính và Quỹ bình ổn giá xăng dầu nhằm góp phần ổn định giá hoặc không để giá tăng quá cao, gây tác động bất lợi đến phát triển kinh tế xã hội, mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. So với Nghị định 84/2009/NĐ-CP, Nghị định số 83/2014/NĐ-CP tiếp tục phát huy nguyên tắc thị trường đối với cơ chế điều hành giá xăng dầu trong nước; đồng thời tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối; giảm độ trễ của giá xăng dầu trong nước so với giá xăng dầu thế giới; minh bạch trong quản lý, sử dụng Quỹ Bình ổn giá... Ngoài ra, theo quy định này thì có sự chuyển giao về cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Bộ Công Thương là cơ quan chủ trì điều hành giá xăng dầu trong nước; Bộ Tài chính là cơ quan phối hợp. Tại Nghị định này, tư tưởng và nội dung chủ đạo xuyên suốt là hoạt động kinh doanh xăng dầu tiếp tục vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Bảo đảm thực hiện tốt vai trò kiểm tra, giám sát của cơ quan QLNN, hài hòa lợi ích người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước. Tăng cường tính cạnh tranh, công khai, minh bạch trong kinh doanh xăng dầu; quản lý chặt chẽ hệ thống phân phối xăng dầu, bảo đảm cung ứng ổn định xăng dầu trong hệ thống, bảo đảm chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường. Giá xăng dầu trong nước phản ánh kịp thời diễn biến giá xăng dầu thế giới; tần suất, biên độ điều chỉnh giá xăng dầu phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tâm lý người tiêu dùng. Khuyến khích phát triển nhiên liệu sinh học nhằm giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường. So với Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, những điểm mới của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP tập trung vào cơ chế điều hành giá xăng dầu, biên độ điều chỉnh giá bán lẻ, mở rộng hệ thống phân phối, cơ chế kiểm soát quỹ BOG, và quy định về công khai, minh bạch giá xăng dầu. Có thể nói, Nghị định 83/2014/NĐ-CP ra đời đúng vào thời điểm giá dầu thô thế giới bắt đầu giảm liên tục, giữ ở mức giá thấp (trung bình từ dưới 40 USD/thùng đến dưới 50 USD/thùng). Đây là nhân tố cơ bản giúp thị trường xăng dầu nội địa Việt Nam ổn định, đồng thời giúp các cơ quan điều hành, vận hành Nghị định 83/2014/NĐ-CP (Bộ Công Thương, Bộ Tài chính) có điều kiện thuận lợi để đưa Nghị định vào thị trường, bước đầu đạt được những kết quả như nguồn cung ổn định, đảm bảo được các nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh phục vụ tốt người tiêu dùng. Hệ thống doanh nghiệp xăng dầu đỡ bị áp lực trước những chu kỳ điều chỉnh giá; dư luận xã hội và các phương tiện truyền thông đỡ bức xúc khi giá bán lẻ xăng dầu biến động, và có thái độ ủng hộ đưa giá bán lẻ xăng dầu theo cơ chế thị trường một cách công khai, minh bạch đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp và nhà nước. 2.2.3.2. Thực trạng việc tổ chức thực hiện các quy định quản lý nhà nước về giá đối với xăng dầu tại Việt Nam 2.2.3.2.1. Thực trạng phân cấp thẩm quyền trong điều hành giá xăng dầu [50] Theo quy định hiện hành Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá. Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng QLNN về giá trong lĩnh vực được pháp luật quy định. Sau khi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP có hiệu lực, đã có sự chuyển giao đối với nhiệm vụ chủ trì điều hành giá về Bộ Công Thương. Tuy nhiên, những vấn đề có liên quan như hướng dẫn phương pháp tính giá cơ sở, hướng dẫn việc quản lý, trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu, thông báo các chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức trong giá cơ sở vẫn giao Bộ Tài chính chủ trì (điểm b, khoản 2 Điều 40: Thực hiện chức năng QLNN về giá; chủ trì, phối hợp Bộ Công Thương hướng dẫn phương pháp tính giá cơ sở, hướng dẫn việc quản lý, trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu; kiểm tra và giám sát việc thực hiện chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức). Trường hợp có ý kiến khác nhau, Bộ Công Thương quyết định và chịu trách nhiệm; trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét. Gắn với vai trò chủ trì điều hành giá, Bộ Công Thương là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối xăng dầu tuân thủ các điều kiện và quy định; hướng dẫn thực hiện hoạt động kinh doanh, phân phối xăng dầu; hướng dẫn thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu và nguyên liệu; chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối xăng dầu thực hiện các quy định về điều chỉnh giá bán. Bộ Công Thương cũng là cơ quan có trách nhiệm đảm bảo việc cung ứng xăng dầu được ổn định, đáp ứng nhu cầu xăng dầu của xã hội. Đối với nhiên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_quan_ly_gia_doi_voi_hang_hoa_thiet_yeu_tai_viet_nam.doc
Tài liệu liên quan