MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN . ii
MỤC LỤC . iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT. vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ TRONG LUẬN VĂN. viii
MỞ ĐẦU.1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI
DưỠNG VỀ Tư VẤN NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN THEO
HưỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THưỜNG XUYÊN .7
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài. 7
1.1.1. Những nghiên cứu ngoài nước. 7
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước . 8
1.2. Một số khái niệm cơ bản. 10
1.2.1. Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên . 10
1.2.2. Quản lý . 11
1.2.3. Quản lý giáo dục . 13
1.2.4. Quản lý nhà trường. 14
1.2.5. Quản lý trung tâm GDNN - GDTX . 15
1.2.6. Quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV. 15
1.2.7. Năng lực, tiếp cận năng lực . 19
1.3. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện 22
1.3.1. Vị trí của Trung tâm GDNN - GDTX. 22
1.3.2. Chức năng của trung tâm GDNN - GDTX. 22
1.3.3. Nhiệm vụ của trung tâm GDNN - GDTX. 22
1.4. Cơ sở lý luận về hoạt động BD năng lực tư vấn nghề nghiệp cho GV ở
trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện . 23
1.4.1. Ý nghĩa của hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV . 23iv
1.4.2. Mục tiêu của hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV. 25
1.4.3. Nội dung BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV . 25
1.4.4. Hình thức BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV. 26
1.4.5. Phương pháp BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV . 27
1.5. Quản lý của Giám đốc trung tâm GDNN - GDTX đối với hoạt động BD
về tư vấn nghề nghiệp cho GV theo hướng tiếp cận năng lực. 28
1.5.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Giám đốc trung tâm GDNN - GDTX. 28
1.5.2. Nội dung quản lý của Giám đốc trung tâm GDNN - GDTX đối với hoạt
động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV theo hướng tiếp cận năng lực. 31
1.5.3. Các điều kiện hỗ trợ quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho
GV ở trung tâm GDNN - GDTX. 34
1.5.4. Cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp
cho GV ở trung tâm GDNN - GDTX. 35
Tiểu kết chương 1 .37
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DưỠNG VỀ
Tư VẤN NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN THEO HưỚNG TIẾP CẬN
NĂNG LỰC TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC
THưỜNG XUYÊN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ .38
2.1. Khái quát tình hình KT-XH, GD-ĐT của tỉnh Phú Thọ . 38
2.1.1. Đặc điểm tình hình địa lý, dân cư. 38
2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội. 38
2.1.3. Khái quát về tình hình GD-ĐT. 39
2.2. Quá trình hình thành và phát triển của trung tâm GDNN - GDTX huyện
Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ . 40
2.2.1. Về cơ sở vật chất. 41
2.2.2 Về đặc điểm học viên. 42
2.2.3 Về tình hình đội ngũ . 43
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV tại trung
tâm GDNN - GDTX huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ . 44v
2.3.1. Tổ chức khảo sát thực trạng. 44
2.3.2. Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho
GV tại trung tâm GDNN – GDTX huyện Thanh Ba. 45
2.3.3. Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho
GV ở trung tâm GDNN - GDTX huyện Thanh Ba . 54
2.4. Đánh giá chung về quản lý hoạt động bồi dưỡng, tư vấn nghề nghiệp cho
GV tại trung tâm GDNN – GDTX huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ . 66
2.4.1. Những thuận lợi, ưu điểm . 67
2.4.2. Những khó khăn, hạn chế. 67
2.4.3. Nguyên nhân . 68
Tiểu kết chương 2.71
CHưƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DưỠNG
VỀ Tư VẤN NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN THEO HưỚNG TIẾP
CẬN NĂNG LỰC TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO
DỤC THưỜNG XUYÊN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ .73
3.1. Các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV. 74
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ của các biện pháp . 74
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn của các biện pháp. 75
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa của các biện pháp . 75
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của các biện pháp . 76
3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi của các biện pháp . 76
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV ở
trung tâm GDNN - GDTX huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ. 77
3.2.1. Biện pháp 1: Tổ chức tuyên truyền cho CBQL và GV về tầm quan trọng
của hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp . 77
3.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp
cho phù hợp. 82
3.2.3. Biện pháp 3: Đào tạo đội ngũ GV cốt cán về tư vấn nghề nghiệp hỗ trợ
công tác quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp . 85vi
3.2.4. Biện pháp 4: Quản lý tốt công tác giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả
hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp. 87
3.2.5. Biện pháp 5: Tạo các điều kiện và cơ chế trong hoạt động BD về tư vấn
nghề nghiệp . 90
3.2.6. Biện pháp 6: Chú trọng hoạt động tự bồi dưỡng của GV . 93
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp . 95
3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp. 98
Tiểu kết chương 3.101
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .102
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .106
PHỤ LỤC.109
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động bồi dưỡng về tư vấn nghề nghiệp cho giáo viên theo hướng tiếp cận năng lực ở trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bồi dưỡng
GV THPT. Đại học sư phạm Huế 9/2009). Các công trình nghiên cứu khoa
học, các bài viết có giá trị khoa học, tuy nhiên chưa có công trình chuyên sâu
về vấn đề quản lý hoạt động bồi về tư vấn nghề nghiệp cho giáo viên trung
tâm GDNN – GDTX theo hướng tiếp cận năng lực và gắn với cơ sở giáo dục
cụ thể.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên
Theo UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, GDTX là một khái
niệm rộng bao gồm tất cả các cơ hội học tập cho mọi người có mong muốn và
nhu cầu sau xóa mù chữ cơ bản hoặc giáo dục tiểu học. Theo quan niệm này,
11
GDTX bao gồm cả giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy và giáo dục
phi chính quy cho những người lớn hoặc thanh niên cần và có nhu cầu sau khi
biết chữ hoặc tương đương tiểu học, không bao gồm xóa mù chữ; GDTX và
giáo dục không chính quy không đồng nhất với nhau. Ba bộ phận trên của
GDTX không đứng riêng lẻ, tách rời nhau mà chúng xen kẽ, kế tiếp nhau trong
suốt cuộc đời của mỗi người.
GDTX không phải hoạt động xảy ra một lần rồi chấm dứt mà là một quá
trình kéo dài suốt cả cuộc đời. Ở Việt Nam, nhiều thuật ngữ đã được sử dụng
như “Bình dân học vụ”, “Bổ túc văn hoá”, “Giáo dục bổ túc”, “Giáo dục phổ
thông người lớn”, “Giáo dục thường xuyên“, “Giáo dục không chính quy” đã
phản ánh được sự tiến triển trong quan niệm về GDTX ở Việt Nam và xu thế
hòa nhập với các nước trong khu vực. Quan niệm về GDTX ngày càng mở
rộng, từ chỗ chỉ quan tâm đến xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, nay đã quan tâm
đến nhiều loại hình học tập khác nhau.
Điều 44 Luật Giáo dục nước ta năm 2009 chỉ rõ: “GDTX giúp mọi người
vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện
chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống
xã hội” 31.
Điều 3 luật giáo dục nghề nghiệp nước ta năm 2014 nêu rõ: “Giáo dục
nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo
trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào
tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp
trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo hai hình thức là
đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên”.
1.2.2. Quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và
phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một
nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa
12
nhận là chịu một sự quản lý nào đó. Các Mác đã viết: Tất cả mọi lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì
ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng.
Có thể nói, hoạt động quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nó điều
khiển một hệ thống hoạt động xã hội ở tầm vi mô cũng như vĩ mô. Vì vậy,
quản lý được tiếp cận với nhiều cách khác nhau.
Tâm lý học quản lý nhấn mạnh: Quản lý được coi là sự kết hợp của quản và lý.
Quản bao gồm sự coi giữ, tổ chức, điều khiển, trông nom, theo dõi; lý được
hiểu là lý luận về sự phân biệt phải trái, sự sửa sang, sắp xếp, thanh lý, sự dự
đoán cùng việc tạo ra thiết chế hành động để đưa hệ thống vào thế phát triển.
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng, bản chất của hoạt động quản lý gồm
hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau. Quá trình “quản” gồm sự coi
sóc, giữ gìn để duy trì tổ chức ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sự sửa
sang, sắp xếp, đổi mới đưa vào thế phát triển [3, tr.31].
Theo tác giả Trần Kiểm, quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực trong và ngoài tổ chức mà chủ yếu là nội lực, một cách tối ưu nhằm
đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất [23, tr.15].
Nhấn mạnh chức năng của hoạt động quản lý, tác giả Nguyễn Quốc Chí
và Nguyễn Thị Mỹ Lộc quan niệm: Quản lý là sự vận dụng các chức năng
quản lý như kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra để tác động đến tổ
chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra [10, tr.2].
Trên phương diện hoạt động của một tổ chức, tác giả Nguyễn Ngọc
Quang có cách tiếp cận, quản lý là những tác động có định hướng, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong tổ chức để vận hành tổ
chức đạt được mục đích nhất định [29, tr.130].
13
Các khái niệm trên có chung những dấu hiệu sau:
Quản lý bao giờ cũng là tác động có định hướng và hướng đến các mục
tiêu đã xác định;
Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận, đó là chủ thể quản lý (là
cá nhân hay tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý
(là bộ phận chịu sự quản lý);
Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người;
Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy
luật khách quan;
Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
Như vậy, quản lý chính là hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc đẩy sự
phát triển của tổ chức đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
Tóm lại, quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ
thể quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng quản lý,
nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt
mục tiêu đề ra.
1.2.3. Quản lý giáo dục
QLGD là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục
đích nhất định. Khái niệm QLGD được quan niệm có nhiều cấp độ, ít nhất có
hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Đối với cấp vĩ mô:
QLGD là những tác động của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của
hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển
giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục [23, tr.36].
QLGD là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức,
điều phối, điều chỉnh, giám sát, ... một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục
phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH
[23, tr.37].
Đối với cấp vi mô:
14
QLGD là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục
nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách HS theo mục tiêu đào tạo
của nhà trường [23, tr.38].
QLGD là những tác động của chủ thể quản lý đến các lực lượng trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo
của nhà trường [23, tr.38]. .
Theo nghĩa tổng quát, tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng, QLGD là hoạt
động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội [3, tr.31].
1.2.4. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, tạo ra “nhân cách”,
“sức lao động” cho xã hội. Vấn đề cơ bản của hoạt động QLGD là quản lý
nhà trường. Nhà trường là nơi tổ chức thực hiện và quản lý quá trình giáo dục.
Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể, người được giáo dục (người
học) và người giáo dục (người dạy). Trong quá trình giáo dục, hoạt động của
người học và hoạt động của người dạy luôn gắn bó tương tác hỗ trợ nhau, tựa
vào nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục theo yêu cầu xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là những hoạt
động của chủ thể quản lý nhà trường đến tập thể cán bộ GV, tập thể HS, phụ
huynh HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [29, tr.34].
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trâm cho rằng: “Quản lý nhà trường là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhà trường, làm cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục
của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, góp
phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” [36, tr.8].
Quản lý nhà trường là quản lý con người gồm GV và HS; quản lý hoạt
động dạy của GV và hoạt động học của HS, lấy hoạt động của HS làm trung
15
tâm. Ngoài ra cần có sự hỗ trợ của các lực lượng trong nhà trường như: nhân
viên, tài vụ, Đoàn, Đội nhằm thực hiện tốt quá trình dạy học trong nhà
trường đạt kết quả.
Như vậy, quản lý nhà trường là hệ thống các tác động có hướng đích của
hiệu trưởng đến con người (GV, cán bộ, nhân viên, HS), đến các nguồn lực
(Cơ sở vật chất, tài chính, thông tin) nhằm đẩy mạnh các hoạt động của nhà
trường theo nguyên lý giáo dục, tiến tới mục tiêu giáo dục hợp với quy luật.
1.2.5. Quản lý trung tâm GDNN - GDTX
Trung tâm GDNN - GDTX là một cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Cũng giống như trường học, trung tâm GDNN - GDTX là một đơn vị
hành chính sự nghiệp được hình thành, tổ chức và thực hiện chức năng nhiệm vụ
nhất định. Do vậy, quản lý trung tâm GDNN - GDTX cũng mang những đặc
điểm, nội dung và chức năng của quản lý nhà trường. Tuy nhiên, trung tâm
GDNN - GDTX có những đặc điểm riêng về mục tiêu, đối tượng, hình thức học
tập, cách thức tổ chức điều hành, cơ cấu tổ chức khác với các trường học trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, công tác quản lý đối với trung tâm GDNN -
GDTX cũng có những điểm khác với công tác quản lý trường học. Nếu áp dụng
một cách máy móc những yêu cầu của công tác quản lý đối với các cơ sở giáo
dục trường học sang các cơ sở của GDNN - GDTX thì hiệu quả của công tác
quản lý sẽ bị hạn chế, không đạt hiệu quả như mong muốn.
Quản lý trung tâm GDNN - GDTX về cơ bản cũng là quản lý trường học.
Tuy nhiên, với những đặc thù của mình, quản lý trung tâm GDNN - GDTX
cũng theo quy chế tổ chức và hoạt động riêng. Đặc thù riêng của trung tâm
GDNN - GDTX là HV đa dạng với nhiều đối tượng, nhiều lứa tuổi, nhiều
thành phần trong xã hội; thời gian tổ chức lớp học cũng đa dạng để đáp ứng
nhu cầu học tập, học suốt đời của người học.
1.2.6. Quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV
1.2.6.1. Bồi dưỡng
Khái niệm bồi dưỡng được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau:
16
UNESCO định nghĩa: Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề
nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu
cầu lao động nghề nghiệp.
Bồi dưỡng theo nghĩa rộng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành
nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục
đích đã chọn. Theo nghĩa hẹp là trang bị thêm kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích
nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong lĩnh vực cụ thể.
Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức, kỹ năng vận dụng
kiến thức để bù đắp kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu so với nhu cầu phát
triển của xã hội, thường được xác định bằng chứng chỉ. Do đó bồi dưỡng có
những yếu tố cơ bản là:
- Bổ sung kiến thức, kỹ năng, phương pháp để từ đó nâng cao trình độ
trong lĩnh vực chuyên môn qua hình thức học tập đào tạo nào đó.
- Bồi dưỡng có mục đích, mục tiêu, nội dung, chương trình và phương
thức thực hiện cụ thể:
- Đối tượng được bồi dưỡng phải có một trình độ chuyên môn nhất định,
cần được bồi dưỡng thêm về chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, tin học, ngoại
ngữ Để đáp ứng sự nghiệp giáo dục phục vụ CNH - HĐH đất nước.
- Mục đích bồi dưỡng là nhằm nâng cao phẩm chất chuyên môn để người
lao động có cơ hội củng cố, mở mang hệ thống tri thức, kỹ năng , kỹ xảo để
đạt được hiệu quả công việc đang làm.
Tóm lại. Khái niệm “Bồi dưỡng” thường chỉ cho hoạt động dạy học
nhằm bổ sung, bồi đắp thêm kiến thức, kỹ năng cho cả người dạy và người
học. Xét về mặt thời gian thì đào tạo thường có thời gian dài hơn, nếu có bằng
cấp thì bằng cấp chứng nhận về mặt trình độ, còn bồi dưỡng có thời gian ngắn
và có thể có giấy chứng nhận đã học xong khoá bồi dưỡng. Tuy nhiên khái
niệm đào tạo và bồi dưỡng chỉ là tương đối.
17
Xét một cách khác, bồi dưỡng được xác định như một quá trình làm biến
đổi hành vi, thái độ con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập.
Việc học tập nảy sinh trong quá trình tự học. giảng dạy, giáo dục và quá trình
lĩnh hội kinh nghiệm từ sách vở.
1.2.6.2. Bồi dưỡng giáo viên
Tác giả Trần Bá Hoành cho rằng: BDGV là việc nâng cao, hoàn thiện
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho các GV đang dạy học;
bên cạnh đó, BDGV là sự tiếp tục phát huy năng lực tự học, tự đào tạo đã
được tạo ra ở quá trình đào tạo ban đầu theo hình thức bồi dưỡng từ xa, theo
định hướng “Tự đào tạo để dạy HS tự học” [21].
Từ những quan niệm trên, tác giả nhận thấy rằng: BDGV là làm tăng
thêm trình độ hiện có của đội ngũ GV (cả về phẩm chất, năng lực, sức khỏe)
với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. BDGV không đòi hỏi chặt chẽ, chính
quy như đào tạo và được thực hiện trong thời gian ngắn. Bởi vì, chủ thể bồi
dưỡng là GV đã được đào tạo và đã có một trình độ chuyên môn nhất định;
BDGV là quá trình bổ sung kiến thức, kỹ năng (những nội dung liên quan đến
nghề nghiệp) để nâng cao trình độ trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn
nhất định, giúp GV có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả công việc đang làm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục.
1.2.6.3. Tư vấn nghề nghiệp
Tư vấn nghề nghiệp là một quá trình, không chỉ diễn ra ở một thời điểm
của cuộc đời mà diễn ra trong suốt đời người. Mục đích không chỉ giúp con
người lựa chọn nghề nghiệp phù hợp mà còn hỗ trợ con người vượt qua khó
khăn, thích ứng với hoàn cảnh của một xã hội phát triển và có nhiều thay đổi,
phát huy được tối đa năng lực của mình để đạt được thành công trong nghề
nghiệp, xây dựng được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân.
18
Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp đỡ người lao động tham gia làm
việc trong điều kiện phù hợp yêu cầu khả năng của họ. Quá trình bao gồm từ
lúc người lao động chọn nghề, giới thiệu việc làm chuẩn bị thích ứng với môi
trường làm việc, thay đổi việc làm cho đến khi về hưu.
Tư vấn hướng nghiệp được hiểu là hệ thống những biện pháp tâm lí, giáo
dục và một số biện pháp khác được chuyên viên tư vấn hướng nghiệp, thầy/cô
giáo hướng nghiệp, hoặc cha mẹ HS sử dụng nhằm phát hiện, đánh giá sở
thích nghề nghiệp, khả năng về thể chất, trí tuệ của HS, sinh viên hoặc con em
trong gia đình; đối chiếu các khả năng thực có của mỗi em với những yêu cầu
của bậc học cao hơn hoặc những yêu cầu của nghề đặt ra đối với người lao
động, có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội. Từ đó, đưa
ra lời khuyên về việc lựa chọn hướng học tập, chọn nghề có cơ sở khoa học.
Tùy theo đối tượng và nhu cầu, tư vấn hướng nghiệp có thể là:
Tư vấn hướng học để giúp các em lựa chọn ban, ngành học, trường học
phù hợp ở bậc học cao hơn, hoặc tư vấn chọn nghề để giúp các em lựa chọn
ngành nghề và cơ sở đào tạo nghề vừa phù hợp với nguyện vọng, sở thích,
khả năng nghề nghiệp của các em, vừa phù hợp với hoàn cảnh gia đình và nhu
cầu nhân lực của địa phương, xã hội.
1.2.6.4. Quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV
Quản lý hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV là việc thực hiện
các chức năng quản lý trong quá trình tổ chức hoạt động BD về tư vấn nghề
nghiệp cho GV, từ chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện đến
khâu kiểm tra đánh giá để hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV đạt
được mục tiêu và hiệu quả. BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV là yêu cầu
thường xuyên, liên tục đối với giáo dục nghề nghiệp. Nó có ý nghĩa quyết
định đối với chất lượng giảng dạy nghề của nhà trường và với bản thân GV.
Để hoạt động BD về tư vấn nghề nghiệp cho GV có hiệu quả, nhà quản lý cần
đánh giá đúng tình hình thực trạng đội ngũ GV về năng lực, yêu cầu bồi
dưỡng của GV về nội dung, mức độ cần thiết. Trên cơ sở đó, nhà QLGD xây
19
dựng kế hoạch BD về nội dung, thời gian, đối tượng; nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục nhà trường, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1.2.7. Năng lực, tiếp cận năng lực
1.2.7.1. Năng lực
Theo các nhà tâm lý học năng lực là sự tổng hợp những phẩm chất tâm
sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một
loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. Năng lực là đặc điểm cá nhân thể
hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thành thực và chắc
chắn - một hay một số dạng hoạt động nào đó. Năng lực gắn liền với những
phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân.
Có nhiều khái niệm về năng lực, trong đề tài “Nghiên cứu việc bồi
dưỡng cán bộ giảng dạy đại học và giáo viên dạy nghề” Mã 94-0716 Viện
nghiên cứu Đại học và giáo dục chuyên nghiệp của Phạm Thành Nghị có
nhiều khái niệm về năng lực cụ thể nhất đó là:
Năng lực con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội “Sự hình
thành năng lực đòi hỏi cá thể phải nắm được các hình thức hoạt động mà loài
người đã tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử xã hội. Vì vậy, năng lực con
người không những do hoạt động của bộ não quyết định mà trước hết do trình
độ phát triển lịch sử mà loài người đạt được”[ 28, Tr 21].
Năng lực là “Tổng hợp các tính độc đáo của cá nhân cách phù hợp với
yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho một hoạt động đó đạt kết
quả” [28, Tr 22].
Năng lực là “Tập hợp các tính chất hay phẩm chất tâm lý cá nhân, đóng
vai trò là điều kiên bên trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt
một dạng hoạt động nhất định. Người có năng lực là người đạt hiệu suất và
chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như
nhau” [ 28, Tr 24].
20
Điểm chung trong các khái niệm trên: Năng lực là khả năng hoàn thành
nhiệm vụ đặt ra, gắn với một loại hoạt động cụ thể nào đó. Năng lực là một
yếu tố của nhân cách nên mang dấu ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong
hành động và được hình thành theo quy luật hình thành và phát triển nhân
cách, trong đó giáo dục, hoạt động và giao lưu có vai trò quyết định. Mặt
khác, về bản chất, năng lực được tạo nên bởi các thành tố: Kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, các yếu tố này không tồn tại riêng lẻ mà chúng hòa quyện, đan
xen vào nhau. Do vậy, năng lực ở mỗi con người có được nhờ vào sự bền bỉ,
kiên trì học tập, ôn luyện, rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm của bản thân
trong hoạt động thực tiễn.
Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh
lý của con người với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Năng lực nghề
nghiệp được cấu thành bởi 3 thành tố: tri thức chuyên môn, kỹ năng hành
nghề và động cơ thái độ đối với nghề. Ở mỗi nghề nghiệp khác nhau sẽ có
những yêu cầu cụ thể về tri thức, kỹ năng và thái độ khác nhau.
1.2.7.2. Năng lực giáo viên
Năng lực giáo viên là người có kiến thức sâu sắc và các kỹ năng cần
thiết để thực hiện vai trò của người GV. Một GV có năng lực là biết tổ chức
hoạt động của nhóm học sinh, quan tâm đến sự tiến bộ của các em. Tổ chức
học tập hướng đến mực tiêu đặt ra; biết đào sâu một nội dung; biết giao tiếp
với đồng nghiệp; biết đặt câu hỏi về việc mình làm và biết đánh giá chất
lượng bản thân. Nói một cách đơn giản, năng lực GV là những kiến thức, kỹ
năng và thái độ giúp đáp ứng thỏa mãn những yêu cầu xã hội và nghề nghiệp.
Về lĩnh vực kiến thức bao gồm: kiến thức môn học; kiến thức phương
pháp giảng dạy môn học; kiến thức về mục tiêu, mục đích, giá trị; kiến thức
về chương trình, tài liệu, SGK; kiến thức về người học; kiến thức về môi
trường giáo dục (đặc điểm lớp học, nhà trường, cộng đồng, nền văn hóa)
Các kiến thức sư phạm, gồm: các nguyên tắc, phương pháp quản lý, tổ
chức lớp học.
21
Lĩnh vực kỹ năng hành động, bao gồm: Sử dụng các phương pháp, biện
pháp dạy học, giáo dục hiệu quả; tìm hiểu quá trình học của HS; sử dụng công
nghệ thông tin vào dạy học; giám sát đánh giá kết quả dạy học, giáo dục.
Theo cấu trúc tri thức nghề nghiệp, năng lực giáo viên gồm hai lĩnh vực:
năng lực chuyên môn và năng lực nghiệp vụ. Thực ra hai lĩnh vực đó khó
phân biệt nhau trong trạng thái hoạt động nghề nghiệp.
1.2.7.3. Tiếp cận năng lực
Tiếp cận năng lực giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà
còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học
được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải
gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu người
học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu
hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết. Nói cách khác, nói đến năng lực là phải
nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm (know-how), chứ không chỉ biết
và hiểu (know-what).
Năng lực của người học có thể chia thành hai loại chính: Đó là
những năng lực chung và năng lực cụ thể, chuyên biệt:
Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống
và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát
triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Đây là loại năng lực
được hình thành xuyên chương trình. Một số nước có thể gọi dạng năng lực
này với các tên khác nhau như: năng lực chính, năng lực nền tảng, năng lực
chủ yếu, kĩ năng chính, kĩ năng cốt lõi, năng lực cơ sở, khả năng, phẩm chất
chính, kĩ năng chuyển giao được.
Theo quan niệm này mỗi năng lực chung cần góp phần tạo nên kết quả
có giá trị cho xã hội và cộng đồng, giúp cho các cá nhân đáp ứng được những
đòi hỏi của một bối cảnh xã hội rộng lớn và phức tạp. Dạng năng lực chung
này có thể không quan trọng với các chuyên gia, nhưng rất quan trọng với tất
cả mọi người.
22
Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát
triển do một lĩnh vực/môn học nào đó. Đây là dạng năng lực chuyên sâu, góp
phần giúp mọi người giải quyết các công việc chuyên môn trong lĩnh vực
công tác hẹp của mình.
1.3. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện
1.3.1. Vị trí của Trung tâm GDNN - GDTX
Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm GDNN - GDTX quy định:
Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên là đơn vị sự
nghiệp công lập cấp huyện có chức năng đào tạo nghề nghiệp ở trình độ sơ
cấp và dưới 3 tháng; giáo dục thường xuyên; hướng nghiệp và giới thiệu việc
làm; có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; có
tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
1.3.2. Chức năng của trung tâm GDNN - GDTX
Trung tâm GDNN - GDTX huyện, thị xã, thành phố có hai chức năng:
Chức năng tổ chức các hoạt động giáo dục; tạo cơ hội học tập nhằm thỏa
mãn nhu cầu học tập đa dạng, phong phú của mọi người, trong đó có những
người không có điều kiện tiếp tục học ở các trường lớp chính quy.
Chức năng tư vấn về GDNN - GDTX trong phạm vi huyện, thị xã, thành
phố. Với chức năng này trung tâm GDNN - GDTX giữ vai trò như một bộ
phận nghiệp vụ của cơ quan QLGD cấp huyện, thị xã, thành phố.
Trên cơ sở nghiên cứu phương hướng, mục tiêu phát triển KT-XH ở địa
phương; điều tra phát hiện các nhu cầu học tập của từng loại đối tượng người học,
trung tâm GDNN - GDTX đề xuất với cơ quan QLGD về kế hoạch tổ chức dạy
học, phương pháp, nội dung, thời gian học đối với từng loại đối tượng.
1.3.3. Nhiệm vụ của trung tâm GDNN - GDTX
Tổ chức đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ
ở trình độ sơ cấp, đào tạo nghề nghiệp dưới 03 tháng; đào tạo theo hình thức
kèm cặp nghề, truyền nghề, tập nghề; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng
nghề cho người lao động trong doanh nghiệp; bồi dưỡng hoàn thiện kỹ
23
năng nghề nghiệp cho người lao động; đào tạo nghề cho lao động nông thôn
và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo
dưới 03 tháng.
Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên bao gồm:
chương trình xóa mù chữ và tiếp tục sau khi biết chữ; chương trình giáo dục
đáp ứng yêu cầu người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công
nghệ; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ; chương trình giáo dục để lấy bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình, giáo trình, học liệu
trình độ sơ cấp, dưới 03 tháng đối với những nghề được phép đào tạo; chương
trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật
kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ.
Tổ chức lao động sản xuất và dịch vụ kỹ thuật phục vụ đào tạo.
Nghiên cứu ứng dụng các đề tài khoa học về giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp, thử nghiệm, ứng dụng và chuyển
giao công ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05050002897_8767_2002928.pdf