Luận văn quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh - Từ thực tiễn tỉnh An Giang

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

BẢNG TỪ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1 LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC

CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH.9

1.1. Khái niệm, nguyên tắc quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức. 9

1.1.1. Công chức và bồi dưỡng công chức. 9

1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức . 13

1.1.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức. 15

1.1.4. Chủ thể, đối tượng của quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức cơ quan

chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. 19

1.2. Nội dung quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức . 24

1.2.1. Xây dựng, ban hành thể chế quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức . 24

1.2.2. Tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức. 27

1.2.3. Kiểm soát quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức. 28

1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức . 29

1.3.1. Sự phát triển của kinh tế, xã hội . 29

1.3.2. Mức độ hoàn thiện của thể chế quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức

. 30

1.3.3. Năng lực tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức. 31

Tiểu kết chương 1. 32

Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI DƯỠNG

CÔNG CHỨC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN

TỈNH AN GIANG . 34

2.1. Phân tích tình hình thực hiện nội dung quản lý nhà nước về bồi dưỡng công

chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. 34

pdf107 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh - Từ thực tiễn tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc, ngoại ngữ giai đoạn 2016-2020 Nguồn: Học viên tổng hợp từ báo cáo của Sở Nội vụ An Giang Biểu đồ 18: Kết quả bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn và ngoại ngữ ở nước ngoài giai đoạn 2016-2020 Nguồn: Học viên tổng hợp từ báo cáo của Sở Nội vụ An Giang 46 Tổng kinh phí từ năm 2016 - 2019 là 139,82 tỷ đồng. Nguồn kinh phí tăng, giảm thực hiện không ổn định qua các năm (cụ thể năm 2017 tăng 1,27 lần so năm 2016, năm 2018 giảm 27% so năm 2017, số kế hoạch trong năm 2019 và 2020 đều là 17 tỷ đồng, số năm 2020 không dự trù tăng hơn so năm 2019. Số thực hiện năm 2019 gấp 2,15 lần so số kinh phí dự kiến (17 tỷ đồng). Sự biến động này xuất phát từ yêu cầu của Chương trình hành động số 09/TU về tăng cường đầu tư ngân sách và đổi mới cơ chế chính sách cho phát triển nguồn nhân lực cũng như khả năng cân đối ngân sách của tỉnh. Cụ thể: ST T Nội dung Tổng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng (tỷ đồng) 1 Năm 2016 20,91 2 Năm 2017 47,53 3 Năm 2018 34,70 4 Năm 2019 36,67 5 Năm 2020 17 (dự kiến) Nguồn: Báo cáo của Sở Nội vụ An Giang. 2.2.2.3. Về chủ thể bồi dưỡng Có nhiều cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tham gia bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang như: Trường Chính trị Tôn Đức Thắng, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trực thuộc, bộ ngành Trung ương (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, Trường/Học viện bồi dưỡng cán bộ của các bộ/ngành). Thứ nhất, về trường Chính trị Tôn Đức Thắng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy An Giang, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Trường được Tỉnh ủy xác định là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và trung tâm nghiên cứu khoa học chính trị của tỉnh. 47 Căn cứ Quy định số 09-QĐi/TW, ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang đã ban hành Quyết định số 1066- Qđi/TU, ngày 26/6/2019 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của Trường Chính trị Tôn Đức Thắng. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Trường gồm Ban Giám hiệu và 5 phòng, khoa, gồm: Phòng Tổ chức, Hành chính, Thông tin, Tư liệu, Phòng Quản lý đào tạo và Nghiên cứu khoa học, Khoa Lý luận cơ sở, Khoa Xây dựng Đảng và Khoa Nhà nước và Pháp luật. Tổng số viên chức, người lao động là 53, trong đó có 02 tiến sĩ, 23 thạc sĩ (02 nghiên cứu sinh), 14 cử nhân, 03 trung cấp. Trong BDCC cho công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Trường thực hiện bồi dưỡng trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh và tương đương về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức về một số lĩnh vực khác; đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương; bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương; kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch cán sự và tương đương, ngạch chuyên viên và tương đương, ngạch chuyên viên chính và tương đương. Qua khảo sát cho thấy, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Trường có những thuận lợi như: (i) Cơ cấu tổ chức của Trường đúng theo Quy định số 09-QĐ/TW của Ban Bí thư và Quy định số 1066-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của Trường; (ii) Nhân sự ở các phòng, khoa cơ bản đáp ứng tốt yêu cầu vị trí việc làm, đảm bảo được tiêu chuẩn về sức khỏe, năng lực, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; (iii) Số viên chức là giảng viên là 27 người, chiếm 64,28% tổng số nhân sự hiện có (42 người). Bên cạnh đó, Trường cũng gặp những khó khăn, bất cập: (i) Trường đang đối mặt với sự hụt hẫng về đội ngũ giảng viên, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Hiện tổng số nhân sự là 42/55, đến hết năm 2020 có 02 giảng 48 viên về hưu, sẽ thiếu 15 biên chế so chỉ tiêu được giao; (ii) Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Tỉnh ngày càng tăng trong khi năng lực giảng dạy, nghiên cứu chưa theo kịp; nguồn vốn đầu tư cho hiện đại hóa cơ sở vật chất của Trường có hạn. (iii) Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tuy được nâng lên nhưng còn chậm so với yêu cầu; (iv) Phương pháp giảng dạy, học tập tuy được quan tâm đổi mới nhưng còn chậm so với yêu cầu, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy mạnh mẽ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên; (v) Công tác phối hợp quản lý nội dung với quản lý hành chính; phối hợp giữa phòng quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học với chủ nhiệm lớp; phối hợp giữa chủ nhiệm lớp với khoa đang tác nghiệp; phối hợp giữa nhà trường với địa phương đôi khi chưa thật sự chặt chẽ, khoa học nên chưa tác động mạnh mẽ đến ý thức tự giác học tập, rèn luyện của học viên. Thứ hai, về các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành trung ương Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành trung ương thực hiện bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh thông qua việc phối hợp với địa phương mở các lớp/ khóa bồi dưỡng tại địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong đó, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia là những đơn vị có nhiều thuận lợi, thế mạnh về năng lực giảng dạy, nghiên cứu (nhiều giảng viên có trình độ chuyên môn cao), về năng lực biên soạn chương trình, tài liệu phục vụ bồi dưỡng. Tuy nhiên, hoạt động giảng dạy của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành trung ương tại địa phương cũng gặp những khó khăn, bất cập: (i) Một số giảng viên chưa am hiểu sâu thực tiễn, nhất là thực tiễn địa phương, chưa gắn kết được giữa lý luận và thực tiễn; (ii) Có không ít giảng viên chưa chú trọng sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng, nội dung bồi dưỡng, nặng về thuyết trình; (iii) Chi phí cho tổ chức lớp còn cao do phải cử giảng viên từ Hà Nội đến tỉnh để giảng dạy; iv) Sự phối hợp với Sở Nội vụ chưa chặt chẽ trong quá trình tổ chức, quản lý, đánh giá chất lượng khóa/lớp học. 49 2.2.3. Về kiểm soát bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang 2.2.3.1. Hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm tra công tác quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức được thực hiện thông qua chế độ báo cáo của đối tượng bị quản lý. Hàng năm, Sở Nội vụ tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan nhà nước cấp trên về công tác quản lý bồi dưỡng công chức của địa phương khi có yêu cầu. Sở Nội vụ An Giang kiểm soát hoạt động bồi dưỡng công chức thông qua hoạt động tham mưu cho Ủy ban nhân dân ban hành các quyết định về tổ chức các khóa bồi dưỡng công chức, quyết định cử công chức đi học các khóa bồi dưỡng; phối hợp với với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tổ chức các khóa bồi dưỡng. Qua đó, nắm bắt tình hình triển khai công tác bồi dưỡng công chức để có căn cứ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh về quản lý bồi dưỡng cũng như trao đổi, chia sẻ thông tin với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy, việc giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh đối với công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức chưa được chú trọng. Điều này thể hiện, trong báo cáo chung hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh trước Hội đồng nhân dân cũng như trong chương trình, kế hoạch giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân chưa có nội dung đề cập đến đánh giá, giám sát quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói chung, bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh nói riêng. Sở Nội vụ chưa tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện kiểm tra, thanh tra chuyên đề về quản lý BDCC trên địa bàn tỉnh. Bộ Nội vụ chưa tổ chức được việc kiểm tra, thanh tra công tác quản lý nhà nước về BDCC tại An Giang. 2.2.3.2. Hoạt động tự kiểm tra của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng Trong thời gian qua, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành thanh tra về việc thực hiện Quy chế quản lý đào tạo của trường chính trị 50 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Quy chế đào tạo cao cấp lý luận chính trị tại trường Chính trị Tôn Đức Thắng. Kết quả thanh tra cho thấy, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng thực hiện quy chế tương đối đầy đủ. Bên cạnh đó, còn một số vấn đề lưu ý thêm như: còn tình trạng số lượng học viên/lớp vượt quá quy định, việc quản lý học viên và chủ nhiệm lớp chưa thực hiện đầy đủ. Đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng khác, việc đánh giá chất lượng khóa học đã được thực hiện đối với một số khóa/lớp học thông qua một số hình thức như trao đổi, lắng nghe thông tin phản hồi từ các học viên, chủ nhiệm lớp, phát phiếu khảo sát, kiểm tra, đánh giá khi kết thúc khóa học. Căn cứ vào các thông tin thu thập được, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu, có giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng, khắc phục những tồn tại, yếu kém về chất lượng chương trình, chất lượng giảng viên, cơ sở vật chất, khóa bồi dưỡng và nâng cao hiệu quả học tập của học viên. Tuy nhiên, việc khảo sát, đánh giá này chưa thực hiện đầy đủ với các khóa học; kết quả đánh giá chưa được khai thác, sử dụng để phục vụ cho việc quản lý. Việc quản lý học viên, giảng viên, báo cáo viên còn chưa được chú trọng đúng mức, do đó, có không ít hiện tượng học viên tham gia không đầy đủ khóa học, chưa thực sự tích cực, chủ động, trách nhiệm, sáng tạo trong nghiên cứu tài liệu, giáo trình cũng như học tập trên lớp. Đồng thời, còn có giảng viên chưa thường xuyên cập nhật những kết quả nghiên cứu mới, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy (chủ yếu là thuyết trình, hỏi đáp); nội dung giảng dạy chưa được liên hệ với thực tiễn địa phương, vị trí việc làm của học viên. 2.2. Phân tích các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang 2.2.1. Khái quát về tỉnh An Giang An Giang là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính, gồm 2 thành phố, 1 thị xã, 8 huyện với 156 xã, phường, thị trấn. Tỉnh có gần 100km đường biên giới giáp 2 tỉnh Kandal và Tàkeo, Vương quốc Campuchia. An Giang có 02 cửa khẩu quốc tế (Tịnh Biên, Vĩnh Xương), 02 cửa khẩu chính (Khánh Bình, Vĩnh Hội Đông), 01 cửa khẩu phụ (Bắc Đai) và nhiều đường mòn, lối mở. 51 Là tỉnh nông nghiệp, An Giang có diện tích tự nhiên 3.536 km2, trong đó hơn 80% là diện tích đất sản xuất nông nghiệp (tương đương 297.000ha) và hơn 65% dân số là lao động nông thôn. Tính đến cuối năm 2019, dân số của tỉnh là 1.907,4 ngàn người (đứng thứ 8 cả nước và đứng đầu đồng bằng sông Cửu Long), trong đó nam 947,1 ngàn người - chiếm khoảng 49,65%, nữ 960,3 ngàn người - chiếm 50,35%. Tỷ số giới tính của dân số số nam/100 nữ là 98,62. Tuổi thọ trung bình 73,7. Lực lượng lao động từ 15 năm tuổi trở lên trên 1.002,49 ngàn người (chiếm 52,6% dân số), trong đó có 972,16 ngàn người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,18%. An Giang là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, trong đó, dân tộc Kinh chiếm trên 94,7% dân số toàn Tỉnh; dân tộc Khmer chiếm 4,2%, sống tập trung ở 02 huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên, hầu hết theo đạo Phật giáo Nam Tông; dân tộc Chăm chiếm trên 0,67%, sống tập trung ở thị xã Tân Châu và huyện An Phú, hầu hết theo đạo Hồi; dân tộc Hoa chiếm trên 0,38%, phần lớn theo đạo Phật giáo Đại Thừa, đạo Khổng và tín ngưỡng dân gian. Toàn tỉnh có 11 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận5. Trong những năm qua, tình hình tôn giáo ở An Giang cơ bản ổn định, các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật; chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo phấn khởi, đồng thuận với những chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; sinh hoạt tôn giáo đúng phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, tích cực hưởng ứng tham gia các phong trào thi đua yêu nước do địa phương phát động. 2.2.2. Tình hình kinh tế- xã hội của An Giang (2016- 2020) 2.2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế An Giang (2016 - 2020) 5 Bao gồm: (1) Phật giáo Hòa Hảo; (2) Phật giáo Việt Nam (Bắc Tông, Nam Tông Khmer và Khất sĩ); (3) Cao Đài (Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao Đài Chơn Lý, Cao Đài Tiên Thiên); (4) Công giáo; (5) Tin Lành (Hội thánh Tin Lành Việt Nam - Miền Nam, Giáo hội Báp - tít Việt Nam); (6) Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô Việt Nam; (7) Tịnh độ Cư sĩ; (8) Tứ Ân Hiếu Nghĩa; (9) Bửu Sơn Kỳ Hương; (10) Hồi giáo; (11) Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn. 52 Trong giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh đã tập trung nguồn lực thực hiện đạt và vượt 8/15 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, 5/15 chỉ tiêu đạt trên 80%. Tốc độ tăng trưởng GRDP An Giang giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,25%, cao hơn giai đoạn 2010 - 2015 (đạt 5,07%), nhưng thấp hơn so với giai đoạn 2000 – 2005, 2006 – 2011 (8,5%, 9,66%)6. Xét về quy mô kinh tế, quy mô kinh tế của An Giang cả 2 giai đoạn 2011 - 2015, 2016 - 2020 vẫn trụ hạng 5/13 tỉnh thành. So sánh quy mô của giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2011 - 2015 thì quy mô giai đoạn sau tăng gấp 1,36 lần so giai đoạn trước7. Đời sống người dân được cải thiện, GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 46,8 triệu đồng (tăng gần 16 triệu đồng so năm 2015). {16} 2.2.2.2. Kết quả phát triển văn hóa, xã hội chủ yếu của tỉnh (giai đoạn 2016- 2020) Mặc dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng tỉnh luôn quan tâm kết hợp nhiều nguồn lực ngân sách và xã hội triển khai đồng bộ các chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, như giáo dục, y tế, việc làm, giảm nghèo, bảo hiểm, nhà ở, tập trung 6 So với các tỉnh trong khu vực, tốc độ tăng trưởng GRDP của An Giang khá thấp, giai đoạn 2016-2020 đứng thứ 11/13 tỉnh thành, dẫn đầu là Trà Vinh 10,6%, Long An 9,6%, cao hơn Sóc Trăng 4,9%, Cà Mau 4,5%. 7 So với mức tăng quy mô của các tỉnh khác thì An Giang đứng thứ 11/13 tỉnh ĐBSCL, tỉnh có quy mô tăng cao nhất là Trà Vinh, Long An (tăng gấp hơn 1,635 lần), cao hơn chút so Vĩnh Long (1,36), Sóc Trăng (1,33). 53 cho vùng khó khăn, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, sạt lở, hộ chính sách, hộ khó khăn, hộ nghèo, góp phần tạo nên nét văn hóa riêng cho tỉnh – nét văn hóa về an sinh xã hội vì cộng đồng. Ngành giáo dục triển khai nhiều giải pháp đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo ở các bậc học. Trong 4 năm liền, tỷ lệ đỗ kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học quốc gia nằm trong nhóm 10 cả nước và đứng đầu khu vực ĐBSCL (năm 2017, 2018, 2019, 2020). Mạng lưới, quy mô phát triển ở tất cả bậc học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp phủ khắp các xã, phường, thị trấn, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Mạng lưới y tế phát triển theo hướng chuyên khoa hóa tuyến tỉnh và y tế phổ câp tuyến cơ sở. Nâng cao năng lực y tế dự phòng, ngăn chặn nhiều dịch bệnh nguy hiểm, nhất là phòng, chống dịch Covid-19. Cải thiện các mục tiêu về sức khỏe cộng đồng. Thực hiện tốt công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh được tăng cường; nguồn nhân lực y tế phát triển về số lượng và chất lượng, đạo đức nghề nghiệp, thái độ ứng xử, phục vụ nhân dân tốt hơn. Nhận thức toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh được nâng cao. Công tác thi đua yêu nước gắn với thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới và văn minh đô thị làm cho phong trào ngày càng khởi sắc và phát huy hiệu quả. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc, các giá trị văn hóa đặc trưng; tập trung xây dựng, phát triển thiết chế văn hóa cơ sở. Các hoạt động văn hóa dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng quan tâm, chú trọng, phục vụ tốt nhu cầu hưởng thụ của đồng bào các dân tộc, góp phần củng cố khối đoàn kết các dân tộc trên địa bàn tỉnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, giữ vững an ninh biên giới, lãnh thổ. Nhìn nhận tổng quan, cho thấy, An Giang có những lợi thế chính sau: 54 - Lợi thế về nguồn lợi về thủy sản, trữ lượng nước ngọt (do là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long (nằm giữa sông Tiền sông Hậu, và chạy dọc theo hữu ngạn sông Hậu thuộc hệ thống sông Mê Công, một phần phía sau trong tứ giác Long Xuyên). - Lợi thế về phát triển du lịch (cả ở phương diện kinh tế và văn hóa) do sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo, di tích lịch sử, di tích văn hóa (có 26 di tích cấp quốc gia, 42 di tích cấp tỉnh). - Lợi thế về phát triển kinh tế biên mậu (do có hơn 100km đường biên với Campuchia). - Lợi thế về nhân lực (tỉnh có dân số trẻ nên có thể cung cấp lao động cho phát triển kinh tế, xã hội). - Truyền thống đoàn kết của Đảng bộ, sự tin tưởng, đồng thuận của Nhân dân cùng với khát vọng phát triển mạnh mẽ sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của Tỉnh thời gian tới. {16} Bên cạnh đó, tỉnh cũng có những thách thức nhất định {16}: - Chất lượng quy hoạch, quản lý quy hoạch chưa sát nhu cầu phát triển, nhất là quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch ngành còn chồng chéo gây khó khăn cho phát triển và hiệu quả quản lý. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của còn chậm, năng suất trong các ngành còn thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch và nông nghiệp- hai ngành được xác định là kinnh tế mũi nhọn của tỉnh; Việc đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa rõ nét; năng suất lao động thấp; cơ cấu kinh tế theo loại hình sở hữu phụ thuộc phần lớn vào kinh tế hộ và cá thể (khoảng 84%) với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Nông nghiệp vẫn còn sản xuất nhỏ, đất đai manh mún, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa hình thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, sức cạnh tranh cao. {16}. - Lĩnh vực công nghiệp chậm phát triển, đóng góp của ngành công nghiệp vào ăng trưởng kinh tế còn thấp. Tỷ trọng nông nghiệp còn cao, nên thu ngân sách của tỉnh thấp. 55 - Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là giao thông, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn; Diễn biến nhanh chóng của biến đổi khí hậu, sạt lở bờ sông luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với quá trình phát triển của địa phương. - Dân số đông song chất lượng dân số chưa cao. - Quốc phòng, an ninh (trong đó có an ninh nguồn nước sông Mê Kông) còn tiềm ẩn những rủi ro do có đường biên giới và là địa phương đa dân tộc, tôn giáo, đòi hỏi cần phải tiếp tục đầu tư nhiều. Với sự phát triển kinh tế, xã hội cũng như những lợi thế, thách thức của tỉnh đã có những tác động thuận lợi đến quản lý nhà nước về BDCC của tỉnh, thể hiện trước hết ở việc tỉnh đã có bố trí được nguồn ngân sách để đáp ứng được phần nào nhu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh nói chung, bồi dưỡng cho công chức thuộc cơ quan chuyên môn Ủy ban nhân dân tỉnh nói riêng, với tổng kinh phí ước tính là 155 tỷ (cho giai đoạn 2016- 2020). Đồng thời, quá trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh cũng đặt ra cho quản lý nhà nước về BDCC những đòi hỏi đó là: Thứ nhất, công chức của tỉnh nói chung, công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh nói riêng cần phải được bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật, bổ sung kịp thời kiến thức, kỹ năng cần thiết về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, hội nhập quốc tế) nhằm bảo đảm họ được trang bị, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời có được kỹ năng ở mức độ thuần thục trong thực thi nhiệm vụ, công vụ được giao. Xuất phát từ vị trí, vai trò của công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (như đã nêu ở chương 1), từ thực tế của An Giang, công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cần được bồi dưỡng những kỹ năng mềm như: phân tích, hoạch định chính sách, quản lý chiến lược, quản lý sự thay đổi, quản lý sự xung đột, quản lý các tình huống bất thường, quản lý dân tộc, tôn giáo, làm việc trong môi trường số hóa...Đồng thời, tập trung bồi dưỡng quản lý nhà nước về nông nghiệp, du lịch, đô thị, chuyển đổi số, quản trị địa phương hiệu quả. 56 Công chức của tỉnh cũng cần được chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về pháp luật, văn hóa và đạo đức công vụ nhằm góp phần xây dựng đội ngũ công chức có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ nhân dân. Đây là tiền đề chủ quan quan trọng quyết định đến chất lượng thực thi công vụ của công chức. Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước về BDCC cần được triển khai có kế hoạch, khoa học, thiết thực, hiệu quả. Các sở phải chủ động trong tham mưu về công tác bồi dưỡng công chức thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Sở Nội vụ chủ động nắm bắt kịp thời nhu cầu bồi dưỡng để tham mưu kịp thời cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh. 2.2.2. Mức độ hoàn thiện của thể chế quản lý nhà nước về bồi dưỡng công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Như trên (mục 2.1.1.) đã nêu, theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành một số văn bản quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh. Các văn bản này đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu quản lý BDCC của tỉnh. Tuy nhiên, nghiên cứu thực tế cho thấy, còn có một số bất cập, thiếu hụt sau: Một là, theo khoản 5, Điều 19, Nghị định 101/2017/NĐ- CP, Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý các chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý. Có nghĩa là, theo nhu cầu địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng các chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh và phê duyệt, ban hành, hướng dẫn thực hiện. Trong thực tế, các chương trình bồi dưỡng cho công chức đang được thực hiện tại tỉnh An Giang đều là những chương trình được các Bộ/ngành trung ương ban hành. Tỉnh chưa tổ chức biên soạn, phê duyệt được chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đây là nguyên nhân làm cho các các chương trình bồi dưỡng chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với thực tiễn quản lý nhà nước ở tỉnh. 57 Thứ hai, theo Quyết định số 163/QĐ-TTg, ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016- 2025 thì các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy chế quy định trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp tham gia giảng dạy cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp và trao đổi kinh nghiệm quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ phù hợp với bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, An Giang chưa ban hành quy chế này. (Đây cũng là tình trạng chung của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; có một số địa phương đã ban hành như: tỉnh Ninh Bình (Quyết định số 21/2018/QĐ-UBND, ngày 20/8/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình Ban hành Quy chế quy định trách nhiệm đối với cán bộ, lãnh đạo, quản lý tham gia giảng dạy các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 26/2018/QĐ-UBND ngày 23/02/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Ban hành Quy chế quy định trách nhiệm đối với cán bộ, lãnh đạo, quản lý tham gia giảng dạy các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại tỉnh Lạng Sơn). Vì vậy, các khóa/lớp bồi dưỡng cho công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (bồi dưỡng chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, lãnh đạo quản lý cấp phòng, cấp sở, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh), chủ yếu sử dụng đội ngũ giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để thực hiện giảng dạy, chưa thu hút được sự tham gia của đội ngũ lãnh đạo, quản lý của địa phương tham gia vào việc giảng dạy, để qua đó, có thêm những trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý cũng như giải quyết các vấn đề thực tiễn của tỉnh An Giang. Điều này cũng phần nào làm giảm tính hiệu quả các khóa/lớp bồi dưỡng tổ chức tại tỉnh An Giang. Thứ ba, các quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh chưa đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng công chức trong việc khảo sát, nắm bắt nhu cầu bồi dưỡng cũng như cử công chức đi học. Việc cử công chức đi học chủ yếu theo chỉ tiêu và đáp ứng nhu cầu nâng ngạc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_boi_duong_cong_chuc_co_quan_chu.pdf
Tài liệu liên quan