MỞ ĐẦU .1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ
DI TÍCH LỊCH SỬ .10
1.1. Di tích lịch sử và những khái niệm cơ bản .10
1.1.1. Khái niệm di tích .10
1.1.2. Khái niệm di tích lịch sử .12
1.1.3. Khái niệm Di sản văn hoá .13
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về di tích lịch sử.14
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử .15
1.2.1. Theo quy định chung của pháp luật.15
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước chính về di tích lịch sử từ thực tiễn của công
tác quản lý tại địa bàn tỉnh Quảng Trị .17
1.3. Sự cần thiết quản lý nhà nước về di tích lịch sử .18
1.3.1. Xuất phát từ vai trò quan trọng của di tích lịch sử đối với đời sống con
người và xã hội .18
1.3.2. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.19
1.3.3. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử góp phần phát triển kinh tế.21
1.3.4. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử góp phần phát triển xã hội.21
1.3.5. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử góp phần ổn định môi trường.22
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về di tích lịch sử của một số địa phương .23
1.4.1. Tại thành phố Huế .23
1.4.2. Tại tỉnh Ninh Bình.25
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Trị trong công tác QLNN về DTLS.27
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ.30
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị .30
107 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5].
Cồn Tiên - Dốc Miếu với tuyến hàng rào điện tử Mc. Namara - hệ thống
phòng thủ chiến lược có một không hai trên thế giới của Mỹ - ngụy được thiết
lập ở phía Nam vĩ tuyến 17 nhằm ngăn chặn sự chi viện của “Bắc Việt” đối
với “Việt Cộng” ở miền Nam. Nhưng không thể nào ngăn được khát vọng
thống nhất đất nước, đánh đuổi kẻ thù ra khỏi miền Nam, giải phóng tổ quốc
của hàng triệu người Việt Nam, trong đó quân và dân Quảng Trị giữ một vai
trò quan trọng. Do vậy, từ khi bắt tay xây dựng cho đến ngày bị bão lữa của
quân giải phóng cuốn phăng vào tháng 3/1972, tuyến hàng rào điện tử chưa
một ngày yên ổn và liên tục bị đánh tơi tả, từng bước bị vô hiệu hóa bởi chính
những con người mà vũ khí họ sử dụng không có gì khác hơn ngoài tinh thần
chiến đấu gan góc và ý chí quyết tử vì độc lập cho dân tộc [35, tr. 15].
Ðường 9 - Khe Sanh, con đường chiến lược huyết mạch, hành lang Ðông
Tây nối Quảng Trị/Việt Nam với nước bạn Lào được người Pháp khởi xướng
xây dựng và được quân đội Mỹ nâng cấp hoàn chỉnh để phục vụ cho mục đích
quân sự trong ý đồ xâm lược toàn bán đảo Ðông Dương đã trở thành con
đường kinh hoàng đối với chính những người đã làm ra nó. Những địa danh
trên đường 9 gắn với các cứ điểm, tập đoàn cứ điểm hỏa lực mạnh của Mỹ -
ngụy như: Ðông Hà, Tân Lâm, Ðầu Mầu, Phu Lơ, Ðồi Tròn, Khe Sanh, Ðộng
Tri, Tà Cơn, Làng Vây, Bản Ðông, Huội San... sau những cuộc đụng độ giữa
41
quân viễn chinh Mỹ và quân đội Sài Gòn với lực lượng quân giải phóng trong
các năm 1968, 1971, 1972 đã trở thành nổi kinh ngạc bất ngờ của Nhà Trắng,
thành nổi ám ảnh về sự tuyệt vọng của lính Mỹ và thành “Hội chứng Việt
Nam” của nước Mỹ những năm sau chiến tranh [35, tr. 39].
Thành cổ Quảng Trị làm chấn động dư luận thế giới và lương tri loài
người bởi cuộc chiến đấu giành giật sinh tử 81 ngày đêm của các chiến sĩ
quân giải phóng chống lại cuộc phản kích tái chiếm thị xã Quảng Trị của một
lực lượng lớn quân ngụy Sài Gòn từ ngày 28/6/1972 đến ngày 16/9/1972. Nơi
đây, trên một diện tích chưa đầy 2 cây số vuông của một thị xã nhỏ nằm bên
bờ sông Thạch Hãn đã phải hứng chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ mà
sức công phá của nó tương đương bằng 7 quả bom nguyên tử, loại mà Mỹ đã
ném xuống Hi rô si ma (Nhật Bản) vào năm 1945 [43, tr. 45].
Nhìn lại kho tàng văn hóa truyền thống của tỉnh Quảng Trị thể hiện qua
tiềm năng di tích, chúng ta sẽ nhận thấy đó là một tập hợp những giá trị vật thể
đồ sộ, to lớn và vô cùng quý báu được sản sinh ra từ quá trình đấu tranh và xây
dựng trong suốt chiều dài lịch sử. Ở đây, bên cạnh sự đa dạng về loại hình, sự
gối đầu chuyển tiếp về mặt thời gian, mật độ phân bố rộng rãi và khá dày trên
các địa bàn, cũng như có một quá trình liên tục về mặt lịch sử... thì vẫn có những
điểm nhấn tạo nên đặc trưng riêng. Tiêu biểu nhất là sự vượt trội, đông đảo của
hệ thống di tích chiến tranh cách mạng với nhiều di tích có tầm cỡ lớn không chỉ
trên phương diện quốc gia mà còn ảnh hưởng lớn tới các nước trên thế giới.
2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị
Di tích lịch sử cách mạng Quảng Trị đa dạng, phong phú về nội dung và
tầm cở. Nhiều năm qua, ý thức được tầm quan trọng của loại hình di tích này,
cơ quan chủ quản ngành Văn hoá cùng chính quyền địa phương các cấp và
nhân dân tỉnh Quảng Trị đã có nhiều nỗ lực cố gắng trong công tác nghiên
42
cứu, điều tra, bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách
mạng. Tuy nhiên, do những những đặc thù riêng vốn có của loại hình di tích
này nên công tác quản lý nhà nước nhằm phát huy giá trị di tích luôn tiềm ẩn
nhiều vấn đề thách thức từ trong lý thuyết đến thực tiễn.
Thực trạng từ công tác QLNN về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng
Trị được thể hiện qua những nội dung sau đây:
2.3.1. Công tác ban hành văn bản chỉ đạo; tuyên truyền, phổ biến kiến thức
về di tích, khuyến khích sự chung tay bảo vệ, gìn giữ di sản từ cộng đồng
2.3.1.1. Công tác ban hành văn bản chỉ đạo
Xác định việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử trên địa
bàn chính là bảo tồn và phát huy thế mạnh đặc thù của một tỉnh nghèo, bị ảnh
hưởng nặng nề bởi sự tàn phá của chiến tranh. Những năm qua, tỉnh Quảng
Trị đã chỉ đạo các ngành liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ, bám sát hệ
thống văn bản của Trung ương về quản lý DSVH, đặc biệt là Luật DSVH để
triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản của Trung ương và của tỉnh.
Trên cơ sở đó, kịp thời ban hành các văn bản nhằm tăng cường công tác
quản lý các DTLS từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố như: Nghị quyết
số: 17/2013/NQ-HĐND về đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, chống xuống cấp hệ
thống di tích lịch sử, văn hóa tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013-2020, Chương
trình hành động số 83-CTHĐ/TU ngày 25/7/2017 của Tỉnh ủy Quảng Trị về
"Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về
phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Kế hoạch số 4525/KH-
UBND về triển khai thực hiện Nghị quyết số 17/2013/NQ-HĐND ngày
31/7/2013 của HĐND tỉnh về đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, chống xuống cấp hệ
thống di tích lịch sử, văn hóa tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013-2020, Kế hoạch
số 1142/KH-UBND ngày 29/3/2018 của UBND tỉnh Quảng Trị về phát triển
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
43
2.3.1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về di tích, khuyến
khích sự chung tay bảo vệ, gìn giữ di sản từ cộng đồng
Sự tham gia của cộng đồng là một quá trình hợp tác giữa những người
dân trong cùng một cộng đồng và chính quyền để đạt được những mục tiêu
chung, tham gia trong việc ra quyết định và đạt được những kết quả lần lượt
đáp ứng những nỗ lực tập thể. Trong công tác quy hoạch, bảo tồn các di tích,
sự tham gia của cộng đồng thực chất là quá trình tham gia, đóng góp chung
của cộng đồng vào việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị của các di tích
trên địa bàn, bao gồm cả các giá trị vật thể (công trình kiến trúc, cảnh quan
truyền thống) và phi vật thể (giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội).
Về vai trò của cộng đồng, UNESCO đã khẳng định rõ ràng: "Không có văn
hóa nếu không có người dân và cộng đồng". Tuy nhiên, có một thực tế là hiện
đang tồn tại một lỗ hổng lớn trong việc giáo dục, tuyên truyền kiến thức về di
sản cho cộng đồng. Là chủ thể của di sản nhưng phần lớn người dân lại chưa
hiểu biết thấu đáo về "tài sản" của mình. Từ đó nảy sinh hành vi xâm hại, thậm
chí phá hỏng di sản. Hơn nữa, dù là chủ thể của di sản, nhưng vai trò của người
dân lại chưa được phát huy đúng mức. Vì vậy, tình trạng thờ ơ trước hành vi lấn
chiếm đất di tích, phá bỏ di tích của một bộ phận cộng đồng vì di tích không
đem lại lợi ích về kinh tế. Nhiều người dân còn lúng túng không biết vai trò của
mình đến đâu và cần phải làm gì để bảo vệ tài sản của cha ông để lại.
Thực trạng tại địa bàn tỉnh Quảng Trị, sự tham gia của cộng đồng trong
việc chung tay cùng tu bổ, sửa chữa, chống xuống cấp các di tích lịch sử tiêu
biểu đang ở trong tình trạng xuống cấp. Về nguồn lực, chúng ta chưa lôi kéo
nhân dân chủ động tham gia trực tiếp vào việc quản lý, sử dụng và phát huy di
tích. Tại các làng xã, nhiều đình chùa, đền miếu được tu tạo bằng vốn đóng
góp của nhân dân, các tổ chức xã hội, tuy nhiên, việc tu bổ di tích hiện nay
mới chỉ tập trung vào di tích nổi tiếng, hoặc là di tích gắn với dòng họ; chất
44
lượng tu bổ di tích, nhất là những hạng mục được thi công bằng nguồn vốn do
nhân dân đóng góp còn chưa đạt yêu cầu về chuyên môn. Các di tích lịch sử
hoặc những di tích đã xếp hạng lại trông chờ vào ngân sách nhà nước. Việc
vận động các tổ chức, cá nhân có năng lực tham gia đầu tư tôn tạo di tích
chưa được tổ chức thành một phong trào rộng lớn trong toàn dân. Khi nhân
dân còn chưa nhập cuộc thì sự nghiệp bảo tồn di tích khó có thể đạt được
những thành quả cao và phát triển theo xu thế bền vững.
Vai trò của cộng đồng còn được thể hiện trong việc khơi dậy tiềm năng
các di tích để phát triển kinh tế - xã hội: Các doanh nghiệp du lịch, khách sạn,
trung tâm lữ hành ở Quảng Trị và nhiều tỉnh, thành phố tích cực đầu tư cơ sở
vật chất, phương tiện triển khai chương trình du lịch “Hoài niệm về chiến
trường xưa và đồng đội”Tại các điểm tham quan, nhất là các di tích quan
trọng như địa đạo Vịnh Mốc, bảo tàng Tà Cơn, nghĩa trang quốc gia Trường
Sơn, nghĩa trang quốc gia Đường 9, Thành cổ Quảng Trị... các đơn vị tại chỗ
đã có nhiều cố gắng tổ chức các dịch vụ phục vụ khách. Người dân tham gia
vào các dịch vụ bán hàng lưu niệm, hương hoa tại các di tích, nghĩa trang nề
nếp, văn minh. Những việc làm đó có ý nghĩa tuyên truyền, quảng bá sâu
rộng về hình ảnh đất nước con người Quảng Trị và quảng bá giá trị to lớn của
hệ thống di tích lịch sử và chương trình du lịch hoài niệm hết sức sinh động.
Tuy nhiên, trách nhiệm của cơ quan QLNN trong việc tuyên truyền là
chưa chuyển tải đến từng người dân ý nghĩa, tầm quan trọng của hệ thống di
tích; chưa khuyến khích, vận động được một bộ phận cộng đồng tham gia vào
việc bảo vệ, gìn giữ và phát huy những giá trị di tích để lại.
45
2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý nhà nước về di
tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
2.3.2 1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Hình 2.2. Sơ đồ bộ máy quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị
- Ủy ban nhân dân các cấp:
UBND tỉnh Quảng Trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất về trong việc
quản lý nhà nước tại địa theo phân cấp của Chính phủ. UBND cấp huyện, cấp
xã chịu trách nhiệm quản lý, xây dựng và tổ chức thực hiện bảo tồn và phát
huy giá trị di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong địa bàn quản lý.
Bộ VHTT&DL
(Thông qua Luật Di sản
Văn hóa)
Tổ chức UNESCO
(Thông qua Công ước
Quốc tế)
Các Bộ liên
quan
UBND tỉnh Quảng Trị
Sở VH, TT&DL (giúp
UBND tỉnh quản lý nhà
nước về DTLS trên địa
bàn toàn tỉnh)
Trung tâm QL Di tích và
Bảo tàng tỉnh (đơn vị sự
nghiệp, giúp Sở lập hồ sơ
di tích, tu bổ, bảo tồn, tôn
tạo và có một phần khai
thác DTLS
Phòng VHTT cấp huyện,
TP (tham mưu UBND cấp
huyện quản lý nhà nước
về DTLS )
Cấp xã (quản
lý nhà nước về
DTLS tại địa
bàn)
Các di tích lịch sử
UBND cấp huyện (quản
lý nhà nước về DTLS
cấp huyện
46
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Là cơ quan chuyên môn, tham mưu,
giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN trên địa bàn tỉnh về di sản văn
hóa với đơn vị trực thuộc là Ban Quản lý di tích tỉnh (nay là Trung tâm Quản
lý di tích và Bảo tàng tỉnh) là đơn vị chuyên môn của Sở.
Một số di tích Quốc gia, Quốc gia đặc biệt có thành lập BQL di tích để
trực tiếp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích đó (Di tích đôi bờ Hiền
Lương, hệ thống làng hầm địa đạo Vịnh Mốc, Thành cổ Quảng Trị...).
- Về cơ chế phối hợp của cơ quan quản lý các cấp: Việc quản lý di tích
được tổ chức theo cấp hành chính, theo chiều dọc từ tỉnh xuống đến các cấp
huyện, xã, phường.
Từ sơ đồ tổ chức bộ cho thấy số lượng làm công tác quản lý còn mỏng.
Thực tế từ việc thực hiện theo chức năng nhiệm vụ còn bộc lộ nhiều hạn chế
giữa các cấp. Tình trạng cấp này chờ cấp kia, một số kế chỉ triển khai ở mức
văn bản hành chính chưa thực sự đi vào thực chất của vấn đề (chưa có quy
chế cụ thể), nhất là chưa triển khai đến tận các xã, phường. Phân cấp phải đi
kèm với cơ chế quy định rõ những vấn đề liên quan và trách nhiệm của từng
cấp trong các vấn đề: bảo vệ, sử dụng đất đai và tiềm năng di tích; cơ chế đầu
tư tôn tạo; quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích... Từ đó, trách
nhiệm bảo vệ, sử dụng và khai thác cụ thể của các cấp chưa được phân định
rạch ròi, sự xâm hại di tích ngày càng có nguy cơ cao hơn; nhất là vấn đề vi
phạm đất đai.
Ðiều đáng quan tâm là ở một số địa phương, nhân dân đùn đẩy cho chính
quyền, trong khi nhận thức và sự quan tâm của lãnh đạo chính quyền các cấp
lại không được thấu đáo. Chính vì vậy, một số nơi đã cấp chồng dự án đầu tư,
cho thuê mặt bằng kinh doanh, cho dân xây nhà lên di tích, đến khi vỡ lẽ ra
thì phải tiến hành giải toả và mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc để xử
lý nhưng vẫn không dứt điểm.
47
2.3.2.2. Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Mục tiêu hướng tới của việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho bảo
tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đảm bảo
theo vị trí việc làm, có chuyên môn, một đội ngũ thợ lành nghề được trang bị và
nắm vững những quy định của Luật Di sản văn hóa và những văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan, cũng như những quy định của Công ước và Hiến chương
quốc tế về Di sản Thế giới; được trang bị các phương pháp khoa học về bảo tồn
truyền thống và hiện đại; có năng lực phối hợp và liên kết với các chuyên gia trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn để
quản lý và triển khai trên thực tế các hoạt động quy hoạch, thiết kế, bảo quản, tu
bổ, tôn tạo, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Nhận thức được điều đó, công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
quản lý, chuyên môn làm công tác văn hóa - xã hội được quan tâm. Hàng
năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức các lớp tập huấn để hướng dẫn
tổ chức thực hiện Luật DSVH và các văn bản hướng dẫn cho cán bộ lãnh đạo,
cán bộ công chức văn hóa từ cấp tỉnh đến cấp xã, phường, thị trấn. Đặc biệt
đã quan tâm mở các lớp nâng cao năng lực quản lý, bồi dưỡng, tổ chức tham
quan học tập, rút kinh nghiệm về việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di
tích nhằm trang bị tốt hơn về kiến thức quản lý cho cán bộ, công chức, viên
chức. Đồng thời, phối hợp với các ban, ngành chuyên môn, các tổ chức,
chuyên gia nước ngoài để tổ chức đào tạo tại chỗ về lĩnh vực bảo tồn di sản
để nâng cao năng lực cán bộ và phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; hoàn thiện các quy chế tổ chức
hoạt động để đề xuất với tỉnh quan tâm, đầu tư nguồn ngân sách, tăng kinh
phí phát triển sự nghiệp văn hóa. Đặc biệt là cải thiện chế độ, chính sách đãi
ngộ cán bộ, công nhân viên chức có thành tích cao trong công tác góp phần
nâng cao hiệu quả về quản lý di tích.
48
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay đó là: nguồn nhân lực tham gia hoạt động
quản lý, bảo tồn di còn chưa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; các lĩnh vực cần
được đào tạo cơ bản như: kiến trúc, xây dựng, sử học, văn hóa học, mỹ thuật,
nhân học, khảo cổ học... còn hạn chế; nghệ nhân, thợ lành nghề còn khan
hiếm trong hoạt động tu bổ, phục dựng di tích. Cán bộ làm việc trong các Ban
quản lý di tích, hướng dẫn viên du lịch còn thiếu kỹ năng Đối với các khu
di tích hiện có dân cư sinh sống, thì cộng đồng dân cư còn thiếu những kiến
thức cơ bản về bảo vệ, gìn giữ di tích, thiếu kinh nghiệm thực tiễn tham gia
vào cùng chung tay với cơ quan QLNN phát triển kinh tế từ di tích.
Việc cơ cấu tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân lực quản lý nhà nước
về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị là việc làm cần thiết; việc huy
động được đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư, nghệ nhân, công nhân lành nghề...
phục vụ tu bổ di tích là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay tại tỉnh Quảng Trị.
2.3.3. Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học cho các di tích
Hoạt động này được thực hiện tập trung trong những năm thập niên cuối
của thế kỷ XX và được liên tục thực hiện trong nhiều năm qua. Bằng nguồn
lực tại chỗ cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ của các nhà nghiên cứu, các cơ quan
nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, nhiều đợt nghiên cứu, thăm dò,
điều tra, khảo sát, phát hiện về các vấn đề khảo cổ, lịch sử và văn hoá đã được
tiến hành tại nhiều nơi trên địa bàn Quảng Trị. Kết quả các đợt nghiên cứu
này không chỉ khám phá ra được nhiều điều mới mẻ, lý thú về lịch sử, tạo tiền
đề để ra đời các công trình nghiên cứu, các ấn phẩm xuất bản có giá trị khoa
học và thực tiễn cao về vùng đất Quảng Trị.
Theo số liệu từ Trung tâm Bảo tồn di tích và danh thắng tỉnh Quảng Trị,
cho đến tháng 9/2018, trên toàn địa bàn tỉnh Quảng Trị có 533 di tích được
công nhận (hay còn gọi là xếp hạng); trong đó, có 453 di tích được công nhận
cấp tỉnh, 35 di tích được công nhận cấp Quốc gia, 45 di tích được công nhận di
49
tích Quốc gia đặc biệt. Trong số 533 di tích toàn tỉnh, có 465 di tích thuộc loại
hình lịch sử (chiếm 87%); 45 di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật; 23 di
tích thuộc loại hình khảo cổ, danh lam thắng cảnh (gọi tắt là danh thắng).
Từ năm 2012 đến 2017, số di tích được nghiên cứu, kiểm kê, lập hồ sơ
công nhận là 155 di tích; trong đó có 45 di tích cấp Quốc gia đặc biệt, 15 di
tích cấp quốc gia, 95 di tích cấp tỉnh. Trong số 155 di tích được công nhận, có
140 di tích thuộc lịch sử (chiếm hơn 90%).
Công tác nghiên cứu lập hồ sơ khoa học để công nhận và bảo vệ di tích
đã được Trung tâm Quản lý di tích và Bảo tàng tỉnh thực hiện nhưng chất
lượng và hiệu quả chưa cao. Từ năm 1996, theo Quyết định số 707/QĐ-UB
ngày 12-7-1996 của UBND tỉnh Quảng Trị thì đến năm 2010, số di tích dự
kiến lập hồ sơ công nhận Quốc gia là 42 di tích. Nhưng từ đó đến nay, di tích
được công nhận Quốc gia, Quốc gia đặc biệt là 80 di tích, cấp tỉnh là 453 di
tích. Điều này cho thấy các ngành chức năng chưa tập trung chú trọng đến
công tác nghiên cứu khoa học về di tích.
Ðồng thời, khi nghiên cứu, sử dụng, phát huy giá trị di tích, chúng ta
cũng còn rất phiến diện, chỉ tập trung sự quan tâm đến những giá trị văn hoá
vật thể của di tích mà ít (hoặc không) chú ý đến những giá trị văn hoá phi vật
thể; trong khi giá trị vật thể mới chỉ là phần xác còn chính các giá trị phi vật
thể mới là phần hồn. Vì thế, một mặt, nhiều di tích có giá trị vẫn nằm ngoài
danh mục quản lý; có di tích đã đưa vào danh mục dự kiến xây dựng hồ sơ
khoa học, pháp lý đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận quốc
gia từ hàng chục năm nay nhưng vẫn chưa được triển khai thực hiện.
Mặt khác, di tích đã được công nhận phải có đầy đủ các thành phần hồ
sơ khoa học và pháp lý theo quy định. Hồ sơ này phải được lưu trữ một cách
cẩn trọng vì liên quan đến nhiều vấn đề. Vậy nhưng, một thực tế bất cập đang
tồn tại ở Quảng Trị là đến nay, ngoại trừ các di tích Quốc gia được công nhận
50
từ sau năm 1990 và các di tích công nhận cấp tỉnh từ sau 1995 thì tương đối
đầy đủ, đảm bảo tính khoa học, còn phần lớn các di tích khác đều hoặc không
có hồ sơ hoặc hồ sơ đã bị thất lạc (chủ yếu là do ý thức bảo quản).
Các di tích công nhận Quốc gia trước năm 1990 một phần do cách làm
chưa đảm bảo nguyên tắc và khoa học nên có nhiều thiếu sót, nhưng dù thế thì
hiện tại, cơ quan chức năng cũng không lưu trữ được một cách đầy đủ các thành
phần ít ỏi của hồ sơ các di tích này. Đó là chưa kể đến 301 di tích công nhận cấp
tỉnh và 42 di tích dự kiến đề nghị Bộ VHTT công nhận cấp Quốc gia từ 1996 -
2010 theo Quyết định số 707/QĐ-UB của UBND tỉnh ngày 12-7-1996 mà hồ sơ
khoa học và pháp lý chỉ có duy nhất tờ quyết định của UBND tỉnh.
Hơn 20 năm sau khi quyết định công nhận, hồ sơ khoa học của một hệ
thống di tích này về cơ bản là lý lịch vắn tắt được in trong tập sách “Di tích
lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị” (xuất bản năm 1995,
tái bản năm 2005), còn hồ sơ pháp lý về đất đai, về các vấn đề liên quan đến
di tích chỉ hoàn thành 15% tổng số di tích (88/553). Quản lý di tích phải dựa
vào hồ sơ khoa học và pháp lý, khi tính khoa học và pháp lý bị coi nhẹ thì
việc giữ gìn di tích chắc chắn sẽ rất khó khăn, việc quy hoạch, đầu tư, tôn tạo,
sử dụng và phát huy di tích sẽ gặp nhiều vướng mắc. Đó chính là nguyên
nhân để xảy ra tình trạng di tích luôn bị xâm hại, biến dạng, bị xoá dấu vết và
vì sao di tích không được cộng đồng, người dân bảo vệ. Đây cũng là vấn đề
lớn đang được đặt ra trong công tác quản lý di tích cần được giải quyết một
cách nhanh chóng và thấu đáo.
51
Bảng 2.4. Tổng hợp số lượng di tích đã hoàn thiện hồ sơ khoa học, hồ sơ
pháp lý
Nội dung Số lƣợng di tích đã
hoàn thành
Số lƣợng di tích chƣa
hoàn thành
Hồ sơ khoa học và
hồ sơ pháp lý
88 445
Hồ sơ pháp lý 07 438
Hồ sơ khoa học 04 441
(Nguồn: Trung tâm quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị)
2.3.4. Quản lý đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử
Bảo vệ di tích, phát huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh chống vi phạm đã trở thành
nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Quảng Trị đã thể hiện những nỗ lực to lớn để tu bổ, bảo vệ, gìn giữ di tích.
Xác định công tác bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng là việc làm
thường xuyên, liên tục và cũng là nhiệm vụ hàng đầu. Công tác tổ chức
nghiên cứu khoa học, những biện pháp để khắc phục khó khăn, phát huy hiệu
quả các dự án tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp các di tích lịch sử trên địa bàn
tỉnh được quan tâm thực hiện. Về công tác bảo tồn, đã huy động các nguồn
lực xã hội hóa di tích, kêu gọi các tổ chức, cá nhân, các đơn vị từng chiến đấu
trên địa bàn Quảng Trị ủng hộ tôn tạo di tích. Lập hồ sơ công nhận nhiều di
tích cấp tỉnh và cấp quốc gia; nghiên cứu và hoàn thành hồ sơ khoa học, pháp
lý. Hoạt động tôn tạo di tích ngày càng giữ một vị thế chủ đạo.
Từ những năm cuối thế kỷ XX, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện dự án về
“Quy hoạch, đầu tư, tôn tạo hệ thống di tích lịch sử văn hóa Quảng Trị (1996
- 2010)” của Chính phủ và các dự án đầu tư tôn tạo di tích bằng các nguồn
vốn của Bộ Văn hóa thông tin, của tỉnh Quảng Trị và nhiều nguồn khác, hoạt
52
động tôn tạo di tích đã chuyển sang một bước ngoặt mới, làm cho bộ mặt di
tích thực sự khởi sắc. Ðến nay, các di tích như: Thành cổ Quảng Trị, Ðịa đạo
Vịnh Mốc, Ðôi bờ Hiền Lương, Sân bay Tà Cơn, Nhà tù Lao Bảo... đã hoàn
thành, đưa vào sử dụng, khai thác và dần dần khẳng định được vị trí của mình
trong hệ thống di tích quốc gia đặc biệt, trở thành các điểm tham quan du lịch
kỳ thú và hấp dẫn của Quảng Trị.
Bảng 2.5. Tổng hợp số lượng di tích được tu bổ theo từng địa phương trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị
(Từ năm 2016 đến năm 2018)
STT Tên đơn vị Tổng số
di tích
Trong đó
Loại hình DTLS Loại hình khác
1 Thành phố Đông Hà 07 07 0
2 Huyện Gio Linh 05 04 01
3 Huyện Vĩnh Linh 06 05 01
4 Huyện Triệu Phong 03 03 0
5 Huyện Hải Lăng 04 04 0
6 Thị xã Quảng Trị 03 03 0
7 Huyện Cam Lộ 03 03 0
8 Huyện Đakrong 02 02 0
9 Huyện Hướng Hóa 02 02 0
Tổng cộng 35 33 02
(Nguồn: Trung tâm Quản lý di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị)
Hoạt động xã hội hóa bảo tồn, tôn tạo di tích đã được chú trọng và mang
lại nhiều hiệu quả thiết thực. Với ý thức trách nhiệm đối với lịch sử, nêu cao
tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, tri ân đồng đội... nhiều tổ chức, cá nhân đã
có những đóng góp tích cực trong hoạt động đầu tư tôn tạo di tích. Các đơn vị
53
như: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam,
Ngân hàng Thương mại CP Ngoại thương Việt Nam, Ban liên lạc Trung đoàn
27, các đơn vị thuộc binh chủng Tăng - Thiết giáp, Đoàn 126A Hải quân và
nhiều đơn vị từng tham chiến trên chiến trường Quảng Trị đã tích cực đầu tư
nhiều khoản kinh phí để xây dựng các hạng mục bia đài ghi dấu chiến công,
tượng đài, khu hành lễ, đền thờ liệt sỹ với nguồn kinh phí lên đến hàng trăm
tỷ đồng. Nhiều di tích gắn liền với lịch sử các địa phương đã được các tổ chức
đoàn thể, cán bộ và nhân dân đã hưởng ứng đóng góp tiền của để xây dựng,
tạo thêm được nhiều điểm văn hóa nhằm tôn vinh và giáo dục truyền thống
cho các thế hệ con cháu mai sau.
Theo số liệu từ Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng Quảng Trị (nay
là Trung tâm Quản lý di tích và Bảo tàng tỉnh) thì từ năm 2010 đến năm 2018,
nguồn vốn đầu tư cho các dự án tôn tạo di tích mà chủ yếu là loại hình di tích
lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ chương trình quốc gia là 492,8 tỷ đồng.
Trong đó, vốn thuộc các dự án đã thực hiện là: 143,6 tỷ; vốn các dự án đã phê
duyệt chuẩn bị đầu tư là 218,2 tỷ; vốn dự án chuẩn bị phê duyệt: 131 tỷ. Nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách địa phương là 3,460 tỷ. Nguồn vốn huy động từ các cơ
quan, doanh nghiệp:143 tỷ. Hàng năm các địa phương đã giành nguồn hỗ trợ
để cùng nhân dân, các tổ chức đoàn thể tôn tạo, tu bổ các di tích như nơi thành
lập Chi bộ, nơi ghi dấu chiến thắng... ở mức bình quân 10 tỷ/8 năm.
Trong số các công trình đầu tư tôn tạo bằng sự huy động nguồn lực xã
hội hóa có quy mô lớn đáng kể như: Tháp chuông Thành Cổ và Bến thả hoa
bờ Nam do Ngân hàng Công thương Việt Nam tài trợ (40 tỷ); Tháp chuông
bờ Bắc do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (20 tỷ); Tượng đài chiến thắng bờ
Bắc do các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong cả nước đóng góp (59 tỷ
vốn); Đền tưởng niệm liệt sỹ Trường Sơn Bến Tắt do Ngân hàng Thương mại
CP Ngoại thương Việt Nam (10 tỷ); Đài chiến thắng bờ Bắc Cảng quân sự
54
Cửa Việt do Đoàn 126A Hải quân (1,6 tỷ); Chiến thắng Làn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_di_tich_lich_su_tren_dia_ban_ti.pdf