MỞ ĐẦU . 1
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO . 9
1.1. Những khái niệm liên quan đến luận văn. 9
1.1.1. Mê tín, dị đoan, tín ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng. 9
1.1.2. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo . 11
1.1.3. Tín đồ và chức sắc tôn giáo. 20
1.1.4. Cơ sở tôn giáo và tổ chức tôn giáo . 20
1.1.5. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. 21
1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lí nhà nước về
hoạt động tôn giáo . 22
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo . 22
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lí nhà nước về hoạt động tôn
giáo . 24
1.3. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo . 28
1.3.1. Chủ thể và đối tượng quản lý. 28
1.3.2. Nội dung quản lý . 30
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo tại một số địa
phương . 35
1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương . 36
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk
. 39
Tiểu kết Chương 1. 41
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH
ĐĂK LĂK . 43
130 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 521 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
diễn ra đúng nội dung, chương trình đăng kí với UBND Thành
phố. Công tác củng cố tổ chức nhân sự cho các cơ sở tu viện cũng được Ban
trị sự hội Phật giáo Việt Nam thành phố không ngừng quan tâm, đề xuất để
Ban trị sự GHPGVN tỉnh xem xét thường xuyên.
Theo thống kê của Phòng Nội vụ Thành phố, toàn thành phố hiện có 03
hòa thượng, 18 đại đức, 14 sư cô, 3 ni sư, 3 cư sĩ. Trong đó, có 01 người là
Đại biểu HĐND thành phố, 02 người là đại biểu HĐND phường, 1 người là
đại biểu HĐND xã. Đa số các tăng ni có trình độ cơ bản Phật học với nguồn
51
gốc xuất thân từ nông dân.
Về cơ sở thờ tự, tính đến tháng 6/2018, cả thành phố có 45 cơ sở thờ tự.
Các phật tử chủ yếu sinh hoạt phật giáo tại đây với các hoạt động, nghi lễ của
đạo Phật.
2.2.2.2. Công giáo
Đạo Công giáo hay còn gọi là Thiên Chúa giáo là tôn giáo thuộc Kitô
giáo. Đây là một trong những tôn giáo có số lượng tín đồ và giáo sĩ lớn nhất
thế giới. Đạo Công giáo hình thành qua hai sự biến động.
Thứ nhất, sự ra đời của Kitô giáo gắn với cuộc đấu tranh chống Đế
quốc La Mã thế kỷ II-TCN. Sự ra đời của Kitô giáo là sự kế thừa, cải cách Do
thái kết hợp với các tư tưởng triết học duy tâm, thần học Hy Lạp, La Mã cổ
đại.
Đạo Kito ra đời với hai trung tâm lớn là Rome và Congstantino cùng
với các trung tâm khác như Antrot, Gerusalem,Mâu thuẫn giữa hai trung
tâm diễn ra trong quá trình đấu tranh giành sự độc tôn, chi phối toàn bộ Giáo
hội Kito. Mâu thuẫn dẫn đến năm 1054, trung tâm Congstantino tách ra thành
đạo chính thống. Lịch sử Kito giáo gọi là sự phân liệt lần thứ nhất.
Thứ hai, trong nội bộ Công giáo tiếp tục diễn ra cải cách (phân liệt lần
thứ 2), đã ra đời một tôn giáo mới tách rời khỏi Công giáo - đó là đạo Tin
lành vào thế kỷ XVI.
So với Phật giáo và Khổng giáo, Công giáo du nhập vào Việt Nam
muộn hơn, mang đậm nét văn hóa phương Tây nhưng cũng đã đóng góp
nhiều mặt tích cực tạo nên những nét văn hóa Công giáo rất riêng biệt. Nhiều
nhà nghiên cứu lịch sử Công giáo lấy năm 1533 là thời mốc đánh dấu việc
truyền Công giáo vào Việt Nam. Năm 1659, Giáo hoàng Alec-xăng-đrơ VII
đã thành lập 2 Giáo phái đầu tiên ở Việt Nam và phong 2 người Pháp là
Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giám mục phụ trách truyền đạo ở
52
Đông Dương đánh dấu chính thức việc cơ cấu Công giáo được thiết lập ở Việt
Nam.
Sau bốn thế kỷ truyền giáo, tới nay Công giáo ở Việt Nam đã có hơn 6
triệu tín đồ. Thâm nhập vào Việt Nam giữa lúc chế độ phong kiến đang khủng
hoảng trầm trọng, nạn đói kém tràn lan, Công giáo đã trở thành chỗ dựa tinh
thần cho người dân đang cần niềm an ủi. Với truyền thống bao dung, người
Việt Nam dễ dàng chấp nhận mọi tôn giáo ngoại miễn là nó phù hợp và đến
với thiện chí hòa bình. Thêm vào đó, Công giáo là một tôn giáo mang đậm
tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây, do vậy mà trong
một thời gian dài mới hòa đồng với văn hóa Việt Nam. Công giáo ở Việt Nam
có số lượng tín đồ khá đông.
Công giáo ở TP. BMT có số lượng tín đồ lớn nhất so với các tín đồ theo
các tôn giáo khác với 52.412 tín đồ với 45 cơ sở thờ tự với tổng diện tích đất
sử dụng thờ tự là 330.877m². [52, tr.2]
Tín đồ Công giáo hoạt động bình thường theo chương trình của Tòa
Giám mục tỉnh Đắk Lắk, chủ yếu là rao giảng, truyền đạo tại nhà thờ để củng
cố đức tin, tăng cường xây dựng các hội đoàn, hoạt động của giới trẻ theo
chương trình; trong thời gian qua, hoạt động của các giáo xứ trong khuôn khổ
pháp luật, có thông báo, đăng ký và được sự chấp thuận của các cấp chính
quyền, cơ bản chấp hành nội dung đăng ký và thông báo.
Tòa giám mục và các giáo xứ ngày càng thể hiện xu hướng hành đạo
tích cực, các cuộc lễ, sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở đều tổ chức theo đúng nội
dung, chương trình đã đăng kí với chính quyền địa phương. Thông qua các
hoạt động thường niên như: Tổ chức các lễ trọng hàng tháng, lễ phục sinh,
việc thuyên chuyển chính sắc, cải tạo cơ sở thờ tự nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt của giáo hội diễn ra thường xuyên.
Đối với các dòng tu: sinh hoạt tôn giáo bình thường và tham gia các
53
công tác xã hội trong các lĩnh vực: giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, từ thiện
nhân đạo, hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật.
2.2.2.4. Tin lành
Đạo Tin lành ra đời ở Châu Âu vào thế kỷ XVI. Trước hết là sự xuất
hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính trị, xã hội, tư tưởng
tôn giáo. Từ thế kỷ XVII giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị,
tự khẳng định mình bằng một loạt các cuộc cách mạng tư sản (cách mạng tư
sản Anh - 1946, cách mạng tư sản Pháp - 1789). Nếu cuối thế kỷ XVII, mới
có 70 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có trên 200 triệu tín
đồ. [58]
Đến nay, chỉ gần năm trăm năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển
với tốc độ rất nhanh, trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi.
Công giáo với khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của
tất cả các châu lục, trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như
Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ. [58]
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin
lành theo tinh thần Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Kế
hoạch số 5372/KH-UBND, ngày 11/7/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk
Lắk và kế hoạch số 113/KH-UBND, ngày 10/09/2016 của UBND thành phố
Buôn Ma Thuột, công tác đối với đạo Tin lành luôn được chính quyền quan
tâm, tạo điều kiện.
Trên địa bàn thành phố có 23.169 tín đồ theo đạo tin lành với 27 cơ sở
thờ tự với 20 chức sắc, diện tích đất thờ tự là 23.169m2. Hiến chương của
tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam “Sống phúc âm phục sự Thiên
chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” và tuân thủ Pháp luật. Nhìn chung tình
hình đạo Tin lành trên địa bàn thành phố tương đối bình thường mặc dù tại
nhiều thời điểm có những diễn biến phức tạp.
54
Tuy nhiên, vẫn còn những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, việc
truyền đạo Tin lành trái phép ở một số địa phương đã gây chia rẽ, mất đoàn
kết, phương hại đến tình cảm dòng họ, gia đình. Mặt khác, các thế lực thù
địch đang tích cực lôi kéo móc nối các phần tử cực đoan trong nước để chống
phá Đảng và Nhà nước ta khiến tình hình đạo Tin lành ở địa phương vẫn còn
tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, có thể gây mất ổn định trở lại.
2.2.2.5. Đạo Cao đài
Đạo Cao Đài là một tôn giáo được hình thành ở Việt Nam vào đầu thế
kỷ XX, năm 1926 trong lúc tình trạng nước ta đang rất phức tạp, Tên gọi Cao
Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó
Thượng đế ngự trị. Cao Đài là một tôn giáo mới, có tính pha trộn rất nhiều các
tôn giáo lớn mà chủ yếu là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc
giáo và cả một số tôn giáo đa thần thời cổ đại.
Các tín đồ thi hành những giáo điều của Đạo như không sát sinh, sống
lương thiện, hòa đồng, làm lành lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu
nguyện, thờ cúng tổ tiên, và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn
chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi
người về với Thượng đế nơi Thiên giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại
thoát khỏi vòng luân hồi.
Hiện TP. BMT có hơn 2100 tín đồ theo đạo Cao đài, đứng thứ tư sau
Công giáo, Phật giáo và Tin lành. Tổng số nhà chức sắc, tu hành là 03 người,
có 13 chức việc tôn giáo với 03 cơ sở thờ tự đã được cấp phép, tổng diện tích
đất tôn giáo sử dụng là 3.027m2. [52, tr.3]
Trong những năm vừa qua, hoạt động của đạo Cao đài diễn ra bình
thường, vào thời điểm đầu năm các họ đạo trong thành phố thường tổ chức lễ
Khai đạo, với số tín đồ không đông nên các hoạt động của đạo Cao đài luôn
trầm lắng, không ồn ào náo nhiệt. Các lễ diễn ra ở các Thánh thất theo lịch
55
sinh hoạt thường xuyên có gửi báo cáo đến UBND phường, xã. Thực hiện chủ
trương của Hội thánh, Cao đài Tây Ninh đã tổ chức Đại hội Nhơn sanh cấp cơ
sở lần thứ VI, nhiệm kỳ 2017-2022.
2.2.2.6. Các hiện tượng tôn giáo mới
Hiện nay, hiện tượng phân rẽ những tôn giáo thành nhiều phái khác
nhau đang là hiện tượng phổ biến của hầu hết tôn giáo trên thế giới, đã và
đang xảy ra ở nước khác nhau, trong đó có Việt Nam. Trong những thập kỷ
gần đây, nhân loại đã và đang chứng kiến một trào lưu xuất hiện những “hiện
tượng tôn giáo mới” và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã
hội, trong đó qua ghi nhận cho thấy tác động tiêu cực là chủ yếu, rất ít các
hiện tượng có những dấu hiệu tích cực.
Tại Việt Nam, thống kê cho thấy có khoảng 80 “tôn giáo mới” hay
“hiện tượng tôn giáo mới”, “đạo lạ”, “tà đạo”... với nhiều tên gọi và nguồn
gốc khác nhau tồn tại bên cạnh các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống. Riêng
tại các tỉnh Tây Nguyên, có khoảng 17 “hiện tượng tôn giáo mới” có nguồn
gốc và mức độ ảnh hưởng khác nhau. [7]
Trên địa bàn TP. BMT trong thời gian qua xuất hiện nhiều hiện tượng
tôn giáo mới như “thờ Đức ngọc phật Hồ Chí Minh”, “thờ Mẫu”, “đạo Hà
Mòn”, “Thanh hải vô thượng sư", “Đức chúa trời” trong đó nổi bật nhất là
hoạt động của số đối tượng tham gia pháp luân công có xu hướng hoạt động
công khai và phát tán tài liệu tại một số xã, phường. Những hiện tượng tôn
giáo này là những “tà giáo” giả tôn giáo để hoạt động chống phá chế độ.
Chúng đội lốt tôn giáo, cấu kết với bọn Fulro phản động trong và ngoài nước
dụ dỗ, mua chuộc đồng bào có đạo. Với mục đích gây rối an ninh chính trị,
phá hoại khối đoàn kết dân tộc, chúng đã móc nối và có các hoạt động gây
chia rẽ giữa các tôn giáo trên địa bàn thành phố.
2.2.2.7. Đánh giá/ Nhận xét thực trạng hoạt động tôn giáo trên địa bàn
56
Thành phố Buôn Ma Thuột
- Ưu điểm
Nhìn chung, các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố diễn ra theo
đúng nội dung, chương trình sinh hoạt đã đăng ký với chính quyền địa
phương. Đại đa số chức sắc, chức việc, tu sỹ và tín đồ tin tưởng vào chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tham gia có hiệu quả
các phong trào ở các xã, phường, đặc biệt là công tác từ thiện nhân đạo dịp lễ,
Tết.
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo trên địa bàn thành phố đã được
các phòng ban, đơn vị liên quan triển khai đồng bộ và lãnh đạo, chỉ đạo tập
trung, hiệu quả. Ngay từ đầu năm, UBND thành phố và các xã, phường đã có
các văn bản chỉ đạo tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trên địa bàn; đồng thời, triển khai kế hoạch phổ biến, tuyên truyền
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ làm công tác tôn
giáo cơ sở và các chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn.
Thành phố đã phối hợp chặt chẽ với Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo) và các
cơ quan cấp trên trong công tác Quản lý Nhà nước về tôn giáo trên địa bàn
thành phố, nhất là trong việc thống nhất giải quyết nhu cầu kịp thời của các
tôn giáo nhờ đó đã làm ổn định cơ bản tình hình trên địa bàn thành phố. Việc
gặp gỡ, đối thoại giữa Lãnh đạo thành phố với các tôn giáo được thực hiện
thường xuyên, tạo mối quan hệ gần gũi, thiện chí giữa tôn giáo và chính
quyền Thành phố, đã và đang tạo được sự chuyển biến trong nhận thức về chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo trong
hàng ngũ chức sắc, tu sỹ tôn giáo.
Một tín hiệu đáng mừng nữa là đồng bào có đạo trên địa bàn thành phố
đã ngày một nâng cao nhận thức hơn, nắm rõ hơn các quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với tôn giáo, do đó ngày càng tự tin
57
hòa nhập và xây dựng cuộc sống theo hướng “tốt đời đẹp đạo”, kết hợp hài
hòa đời - đạo.
- Nhược điểm
Việc nắm tình hình tôn giáo ở một số địa bàn chưa sâu sát, xảy ra các
trường hợp xây dựng, tổ chức sinh hoạt trái phép. Ở một số xã, phường.
Thông tin báo cáo hai chiều giữa thành phố và tỉnh và giữa thành phố với các
xã, phường chưa đảm bảo theo quy định, dẫn đến một số trường hợp thiếu
thông tin hoặc thông tin bị chậm trễ, do đó việc phối hợp xử lý các sai phạm
trong tôn giáo gặp không ít các khó khăn. Công tác tranh thủ chức sắc, chức
việc của chính quyền thành phố và các cấp ở một số nơi chưa được đầu tư
đúng mức, chưa xây dựng được nhiều cơ sở, cốt cán trong quần chúng tín đồ.
Công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo, công tác vận động quần chúng, tranh thủ chức sắc tại
một số xã, phường chưa ngang tầm với yêu cầu đặt ra; công tác tuyên truyền
chủ yếu là phối hợp, lồng ghép, chưa chuyên sâu; chưa xây dựng kế hoạch
hàng năm để triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, việc tham mưu giải quyết nhu
cầu tôn giáo theo thẩm quyền của thành phố một số thời điểm chưa đảm bảo
thời gian theo quy định của bộ thủ tục hành chính.
Việc nhận thức về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta của một bộ phận giáo chức, giáo việc và tín đồ còn hạn chế, chưa
thật sự cởi mở khi tiếp xúc hay làm việc với cơ quan nhà nước, còn dè dặt,
thận trọng. Ngoài ra còn xảy ra tình trạng cơi nới, sửa chữa nhà, biến nhà dân
thành cơ sở nhà nguyện là vấn đề nhạy cảm cần phải quan tâm xử lý. Bên
cạnh đó chủ nghĩa ly khai FULRO “Tin lành đề gar” vẫn còn tồn tại trong
một bộ bộ phận quần chúng có đạo.
Việc quản lý sinh hoạt của các tín đồ chưa chặt chẽ, một số tín đồ tại
các địa bàn khác tập trung về các điểm nhóm tham gia sinh hoạt, những người
58
đứng đầu các điểm nhóm chưa kịp thời báo cáo với chính quyền địa phương,
làm ảnh hưởng đến công tác quản lý của địa phương. Hoạt động của các điểm
nhóm chưa được đăng ký sinh hoạt vẫn diễn biến phức tạp. Tại các điểm
nhóm này, phần lớn các tín đồ mặc dù chưa đăng ký theo quy định của pháp
luật nhưng vẫn sinh hoạt đạo tại gia đình.
Một số chức sắc, tín đồ không chấp hành đúng quy định, đã tự ý tập
trung sinh hoạt theo từng nhóm nhỏ, truyền đạo trái phép; các Ban chấp sự
dùng giáo quyền để huy động, quyên góp tài chính trái phép đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhiều hộ dân; một số cốt cán
tiếp tục có hành vi tuyên truyền sai lệch một số chính sách của Nhà nước. Vẫn
còn tình trạng một số trường hợp lợi dụng uy tín của nhà Phật đế đi quyên góp
từ thiện mà không có giấy tờ, sổ sách làm ảnh hưởng đến uy tín của Phật giáo
đồng thời gây khó khăn trong công tác QLNN.
Những biểu hiện đáng chú ý như mua bán sang nhượng đất trái phép,
xây dựng cơ sở thờ tự, tố chức sinh hoạt ngoài địa điểm mà không xin phép,
đặc biệt là tình trạng tranh chấp đất đai giữa nhà thờ và trường học, tiếp tục
xin lại đất đai đã hiến tặng hoặc bị tịch thu sau giải phóng. Thực tế hiện nay
vẫn còn tồn tại những tiềm ẩn, cố tình gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo,
gây tác động xấu đến ổn định trật tự, an toàn xã hội
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Tổ chức thực hiện thể chế, chính sách quản lý nhà nước về
hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX nêu rõ một trong các nhiệm vụ của công tác tôn giáo là
“Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn
giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp
59
luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách
trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.” [2]
Từ khi có Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương,
Thành phố đã triển khai từng đến từng cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận
qua đó tiếp tục quán triệt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối
với các tôn giáo, xem xét giải quyết các nhu cầu tôn giáo theo quy định của
pháp luật.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018,
Thành ủy, HĐND-UBND Thành phố đã và đang nỗ lực trong việc tổ chức
triển khai thực hiện thể chế, chính sách, pháp luật đối với tôn giáo theo đúng
quy định của Luật, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưởng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Các cấp uỷ Đảng và chính quyền đã quán triệt đầy đủ và sâu sắc các
quan điểm của Đảng theo Nghị quyết 25/NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành ngày 29/6/2004,
Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2018 qua đó góp phần thống nhất quan điểm, trách
nhiệm của hệ thống chính trị và xã hội ở địa phương về công tác tôn giáo
đồng thời tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể, tổ chức xã hội, các chức sắc, nhà tu
hành, chức việc, tín đồ tôn giáo và toàn thể nhân dân.
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hoạt động tôn giáo ở
TP. BMT gồm có:
- Những văn bản áp dụng chung trên lãnh thổ Việt Nam:
1. Hiến pháp 2013;
60
2. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo – Pháp lệnh số 21/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 18/6/2004 (đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2018);
3. Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo;
4. Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 về một số công tác đối
với Tin lành;
5. Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ Quy
định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Thay thế
Nghị định số: 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005);
6. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng
11 năm 2016, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
7. Thông tư số 04/2016/TT-BNV ngày 10/06/2016 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn một số nội dung về Thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực Tôn
giáo
8. Nghị định 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ ngày
01/01/2018.
Kể từ ngày 01/01/2018, khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thì
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chính thức hết hiệu lực. Ngoài các văn bản
trên, còn có các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động
tôn giáo như: Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2009), Bộ luật Dân sự 2005, Luật xử
phạt vi phạm hành chính.
- Những văn bản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk:
1. Quyết định số 237/QĐ-UBND ngày 17/04/2011 của UBND tỉnh Đắk
Lắk về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh Đắk Lắk;
2. Quyết định số 764/QĐ-UBND ngày 22/1/2013 của UBND tỉnh Đắk
Lắk về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh
61
tỉnh Đắk Lắk;
3. Quyết định số 1014/QĐ-UBND ngày 19/11/2015 của UBND tỉnh
Đắk Lắk về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo
tỉnh Đắk Lắk;
4. Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 09/07/2017 của UBND tỉnh Đắk
Lắk về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh;
5. Công văn số 7546/UBND-KGVX ngày 25/9/2017 của UBND tỉnh
Đắk Lắk về việc triển khai thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
- Những văn bản đã và đang áp dụng riêng trên địa bàn TP. BMT, tỉnh
Đắk Lắk:
1. Quyết định số 561/2007/QĐ-TU ngày 10/9/2007 của Thành ủy Buôn
Ma Thuột về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo TP. BMT
2. Quyết định số 67/2015/QĐ-TU ngày 03/10/2015 của Thành ủy Buôn
Ma Thuột về việc kiện toàn Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo TP. BMT.
2.3.2. Xây dựng kế hoạch quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột
Kế hoạch là một nội dung và là chức năng quan trọng của quản lý. Bởi
lẽ, kế hoạch gắn liền với việc lựa chọn và tiến hành các chương trình hoạt
động trong tương lai của cơ quan quản lý. Kế hoạch cũng là việc lựa
chọn phương pháp tiếp cận hợp lý các mục tiêu định trước. Thông thường kế
hoạch được hiểu như là một khoảng thời gian cho những dự định sẽ hành
động và thông qua đó ta hy vọng sẽ đạt được mục tiêu. Nói đến kế hoạch là
nói đến những người vạch ra mà không làm nhưng họ góp phần vào kết quả
đạt được như bản kế hoạch đề ra.
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng cơ bản của
quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là chức
năng rất quan trọng vì nó gắn liền với việc lựa chọn mục tiêu và chương trình
62
hành động trong tương lai, giúp nhà quản lý xác định được các chức năng
khác còn lại nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra. Kế hoạch có thể
được thực hiện một cách chính thức hoặc không chính thức, bằng văn bản,
văn kiện hoặc bất thành văn, công khai minh bạch hoặc bí mật. Kế hoạch
chính thức được phổ biến và áp dụng cho nhiều người, có nhiều khả năng xảy
ra trong các dự án; như: ngoại giao, công tác, phát triển kinh tế, các kế hoạch
về thể thao, trò chơi, hoặc trong việc tiến hành kinh doanh khác.
Thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa
bàn trong bối cảnh phải quản lý một cách có hiệu quả nhất hoạt động tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân thành phố trong thời kỳ đổi mới, UBND TP.
BMT đều giao cho Ban chỉ đạo công tác thành phố, Phòng Nội vụ chủ động
xây dựng kế hoạch quản lý nhà nước dài hạn đối với hoạt động tôn giáo theo
từng giai đoạn tương ứng với nhiệm kì của Ủy ban 2011 – 2016 và giai đoạn
2016 – 2021, trong đó có định hướng cho các giai đoạn tiếp theo.
Trên cơ sở những văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh, của Sở Nội vụ, Ban
Tôn giáo, Thành ủy, UBND Thành phố đã ban hành các chương trình, kế
hoạch nhằm triển khai việc thực hiện công tác QLNN về hoạt động tôn giáo
trên địa bàn Thành phố đó là:
- Kế hoạch số 23/KH-TU ngày 17/07/2003 của Thành ủy Buôn Ma
Thuột về việc triển khai Chương trình số 19-Ctr/TU ngày 15/05/2003 của
Tỉnh ủy về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Chỉ thị số 07/CT-TU ngày 22/6/2007 của Thành ủy Buôn Ma Thuột
“về đẩy mạnh việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuột”.
- Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 01/07/2007 của UBND TP. BMT về
việc thực hiện chỉ thị số 07/CT-TU ngày 22/6/2007 của Thành ủy Buôn Ma
63
Thuột “về đẩy mạnh việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột”.
- Kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 31/01/2014 của UBND TP. BMT
“về việc rà soát và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn
giáo trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột”.
2.3.3. Tổ chức bộ máy Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn
thành phố Buôn Ma Thuột
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị định
số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh , UBND TP. BMT là cơ quan chịu trách nhiệm về việc thực hiện
chức năng QLNN về hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố, Phòng Nội vụ
là cơ quan tham mưu cho UBND Thành phố, Chủ tịch UBND Thành phố
trong việc giải quyết các vấn đề về hoạt động QLNN về tôn giáo trên địa bàn.
Hiện nay, bộ phận làm công tác tôn giáo thuộc Phòng Nội vụ thành phố
có 02 đồng chí. Để tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo của
Thành phố, Ban thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban chỉ đạo Công tác tôn
giáo thành phố, gồm 09 đồng chí, công tác ở các cơ quan Thành phố, do đồng
chí Phó bí thư Thành ủy trực tiếp làm trưởng ban; đồng thời chỉ đạo Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể Thành phố và các phường, xã có phân công cán bộ
phụ trách công tác tôn giáo của đơn vị mình (79 đồng chí). Dưới các xã,
phường, Thành phố cũng đã quán triệt đến UBND các cấp về việc tăng cường
công tác QLNN về hoạt động tôn giáo qua các Bí thư chi bộ, Trưởng thôn,
buôn, tổ dân phố.
Bộ máy làm công tác tôn giáo của Thành phố đã thực hiện tốt công tác
tham mưu cho cấp ủy, UBND các cấp; chủ động nắm bắt tình hình hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo và tham mưu, giải quyết kịp thời các nhu cầu sinh hoạt
64
tôn giáo của các cơ sở tôn giáo và tín đồ; Có biện pháp đấu tranh ngăn chặn
và xử lý nghiêm các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật, các phần tử lợi
dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Công tác phối hợp giữa cơ quan làm công tác QLNN về hoạt động tôn
giáo với các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận, tổ chức chính trị được quan tâm.
Xác định nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng nên UBND Thành phố đã chủ động phối hợp với Ban Dân vận, Mặt
trận và các đoàn thể trong thực hiện công tác QLNN về tôn giáo ở địa
phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Thành ủy, từ
đó cơ bản tạo nên sự chặt chẽ trong công tác phối hợp tham mưu, tạo sự thống
nhất trong công tác QLNN về hoạt động tôn giáo và trong xử lý, giải quyết
các vấn đề tôn giáo ở Thành phố.
2.3.4. Tổ chức bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác tôn giáo trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
UBND thành phố đã cử cán bộ tham gia lớp lớp tập huấn bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác tôn giáo cho cán bộ làm công tác tôn giáo c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_hoat_dong_ton_giao_tren_dia_ban.pdf