Luận văn Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Phú Yên

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .1

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn .1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .5

6. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của luận văn .5

7. Kết cấu của luận văn .6

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ KHOA

HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .7

1.1. Những vấn đề chung liên quan đến đề tài luận văn .7

1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ .11

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khoa học và công nghệ.22

1.4. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.23

1.5. Quan điểm của Đảng về phát triển khoa học và công nghệ.29

1.6. Kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với khoa học và công nghệ.30

Kết luận chương 1.35

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN.37

2.1. Đặc điểm, các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khoa học và công

nghệ tại Phú Yên .37

2.2. Phân tích thực trạng khoa học và công nghệ tỉnh Phú Yên .47

2.3. Phân tích thực trạng QLNN về Khoa học và Công nghệ tại tỉnh Phú Yên.50

2.4. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân .62

Kết luận chương 2 .69

pdf102 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nơi trong tỉnh, người Ê Đê chiếm 2,04 , Chăm Hroi chiếm 2,02 , dân tộc Ba Na chiếm 0,4% , còn lại là các dân tộc khác như: Tày, Hoa, Nùng, Thái, Mường, Gia Rai, Sán Dìu, Hrê, M Nông, H Mông... Nguồn lao động khá dồi dào, dân số trong độ tuổi lao động chiếm từ 56%- 57 dân số. Tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh quốc dân 484.015 nghìn người, chiếm 96% nguồn lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện qua các năm [12]. 2.1.2. Tình hình phát triển Kinh tế- xã hội tỉnh Phú Yên - Tốc độ tăng trưởng cao duy trì trong thời gian dài, giúp mở rộng qui mô kinh tế tỉnh. Kinh tế của Phú Yên luôn giữ vững được tốc độ tăng trưởng cao, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2016 đạt 11,57 năm. Trước đây, ngành công nghiệp-xây dựng là ngành đóng góp nhiều nhất, thì 6 năm gần đây, ngành dịch vụ lại là ngành có đóng góp cao nhất đạt 5,7 điểm phần trăm [1]. - Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước tăng đáng kể Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, các chương trình mục tiêu quan trọng, đã góp phần cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân [12]. 40 - Thu chi ngân sách tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước nhưng tỷ trọng bổ sung ngân sách Trung ương vẫn ở mức cao Tình hình thu chi ngân sách vẫn phát triển với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu thu chi ngân sách luôn phát triển theo hướng tích cực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư hoàn thiện từng bước, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, với quy mô nền kinh tế nhỏ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa có những đột biến, do vậy khả năng khai thác nguồn thu vào ngân sách nhà nước còn nhiều hạn chế. Tuy số thu ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm trước nhưng không lớn, không có nguồn phát sinh mới trong năm, các nguồn thu không vững chắc như thu tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng lớn nhưng chỉ bố trí chi xây dựng cơ bản, chưa đảm bảo nhu cầu chi của ngân sách địa phương, do đó phần lớn nhờ nguồn thu bổ sung từ ngân sách Trung ương[18]. Ngoài ra, Phú Yên là tỉnh còn nhiều khó khăn nên việc phát triển các dịch vụ của tỉnh còn khá khiêm tốn so với các tỉnh trong khu vực, nhất là các dịch vụ trong lĩnh vực ngành công thương. Ngành có lợi thế nhưng chưa phát triển đúng tiềm năng là dịch vụ từ cảng biển Vũng Rô, dịch vụ từ các trung tâm thương mại vì hiện nay cảng Vũng Rô là cảng nhỏ, cơ sở hạ tầng còn thô sơ, năng lực bốc dỡ còn hạn chế. Mặc dù cảng biển Vũng Rô có vị trí khá thuận lợi và được xem là tiềm năng của tỉnh. 2.1.3. Đặc điểm về khoa học và công nghệ và đặc điểm của quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại Phú Yên 2.1.3.1. Đặc điểm về Khoa học và công nghệ tại Phú Yên Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Cơ cấu lao động đang làm việc theo trình độ đại học và trên đại học - cao đ ng - trung và sơ cấp của tỉnh đang thể hiện sự mất cân đối rất rõ nét, phản ánh tình trạng “thiếu thợ”. 41 Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do các yếu tố: Tâm lý của người dân chuộng đại học. Nền kinh tế tỉnh phụ thuộc vào một số ngành công nghiệp chế biến, trong khi khả năng phát triển của các ngành này còn yếu. Khả năng cạnh tranh còn yếu, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất chưa cao. Những ngành lớn nhất như công nghiệp chế biến của Phú Yên hầu hết là những ngành có giá trị gia tăng thấp, đóng góp của năng suất và tiến bộ công nghệ còn thấp và chi phí trung gian cao, làm giảm hiệu suất của các doanh nghiệp. Thu ngân sách chưa đủ nhu cầu chi đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế- xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng của địa phương nói chung và KH&CN nói riêng. Nếu so với thành công của 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi thời gian qua thì Phú Yên chưa được Trung ương tập trung đầu tư, nếu như Quảng Ngãi nhận được quyết tâm chính trị của Trung ương là xây dựng nhà máy lọc dầu và Quảng Nam được đầu tư lớn để hình thành khu kinh tế Chu Lai, Ninh Thuận là điện hạt nhân, Hà Tĩnh là nhà máy thép, thì đầu tư của Trung ương vào Phú Yên còn thấp. Đa số các doanh nghiệp của Phú Yên hiện đang sử dụng phần lớn là các thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, nên chi phí đầu vào của quá trình sản xuất, chiếm tỷ lệ lớn trong giá thành sản phẩm và có xu hướng ngày càng tăng, do chậm đổi mới thiết bị, công nghệ. Hoạt động R&D của các tổ chức nghiên cứu vừa ít, vừa yếu, lại chưa gắn kết với thực tiễn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có đủ năng lực cho hoạt động này. Hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ và liên kết nghiên cứu - ứng dụng giữa các tổ chức nghiên cứu, triển khai (R&D) và doanh nghiệp chưa phát triển[12]. 42 - Đầu tư cho KH&CN tại Phú Yên còn thấp, giai đoạn 2011-2017 ngân sách chi cho KH&CN chỉ 0,62%, chưa đạt yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 2, khoá VIII và uật Khoa học công nghệ năm 2013, qui định đầu tư mức tối thiểu 2% so với tổng chi ngân sách[18]. - Đầu tư nước ngoài cho KH&CN chưa có, xã hội hóa KH&CN tại địa phương diễn ra còn chậm, chưa thu hút được nguồn vốn bên ngoài. - Chưa có chính sách thu hút cán bộ khoa học và kỹ thuật đầu đàn giỏi về địa phương để làm việc. Thiếu đội ngũ cán bộ KH&CN có năng lực nghiên cứu để triển khai thực tiễn, giữa đào tạo và sử dụng còn nhiều bất cập. - Hệ thống dịch vụ KH&CN còn yếu kém về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. - Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua bán công nghệ và kết quả nghiên cứu KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, đặc biệt là thiếu hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. 2.1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại Phú Yên Hệ thống quản lý nhà nước về KH&CN của tỉnh được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ. Sở Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN cấp tỉnh. Hoạt động quản lý nhà nước về KH&CN cấp huyện được giao cho Phòng kinh tế hạ tầng của các huyện và Phòng kinh tế của thành phố, thị xã. Hiện nay, đội ngũ cán bộ theo dõi KH&CN cấp huyện, thị xã, thành phố còn kiêm nhiệm, trình độ nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. 43 Cơ chế quản lý KH&CN chậm được đổi mới, quản lý hoạt động KH&CN chưa đi vào chiều sâu mang tính chiến lược. Các nhiệm vụ KH &CN chưa thật sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển KT– XH. Quản lý các đề tài, dự án còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến ứng dụng và chất lượng của sản phẩm đầu ra đối với thực tiễn sản xuất và xã hội. Hiệu quả đầu tư cho KH&CN chưa cao. Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học. Công tác quản lý KH&CN tại Phú Yên còn hạn chế do trình độ công chức làm công tác quản lý chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đặc biệt là công chức làm công tác quản lý nhà nước về KH&CN ở cấp huyện, đa số làm hợp đồng trong thời gian ngắn rồi chuyển sang công việc khác để được bố trí biên chế. Tình hình chất lượng sản phẩm của tỉnh nhìn chung vẫn còn thấp, chưa đồng đều, chủng loại nhiều mặt hàng còn đơn điệu. Ví dụ: các sản phẩm thuộc nhóm hàng vật liệu xây dựng của các doanh nghiệp Phú Yên vẫn đạt ở mức chất lượng thấp, không ổn định so với các sản phẩm cùng loại trong nước; đầu tư công nghệ nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nông sản thuộc thế mạnh của tỉnh còn hạn chế; nhiều sản phẩm thuộc nhóm hàng thực phẩm còn kém về vệ sinh, an toàn. Trong tiến trình hội nhập với khu vực và quốc tế, nhiều doanh nghiệp của tỉnh vẫn chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc áp dụng các mô hình quản lý chất lượng tiên tiến như ISO 9000, HACCP, TQM... để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường [12]. 2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại Phú Yên - Về thể chế chính trị: Đảng luôn quan tâm đến quá trình phát triển KH&CN, trong những năm qua, Tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng về lĩnh vực KH&CN, điển hình như: 44 Chương trình hành động số 14-CTr TU ngày 22 01 2013 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trên địa bàn tỉnh; Chương trình hành động số 07-CTr TU ngày 26/4/2016 của Tỉnh ủy Phú Yên về tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và thu hút nhân lực trình độ cao, gắn đào tạo với sử dụng giai đoạn 2016-2020; Chương trình hành động số 38-CTr TU ngày 21 9 2009 của Tỉnh ủy Phú Yên về nhiệm vụ, giải pháp phát triển KH&CN tỉnh Phú Yên đến 2020; Chương trình hành động số 08 CTr TU ngày 24 6 2011 của Tỉnh ủy Phú Yên về đầu tư phát triển nông nghiệp bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011- 2015; Điều đó đã thể hiện sự quan tâm rất lớn của Đảng về khoa học và công nghệ ở địa phương. - Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách: UBND tỉnh Phú Yên đã ban hành nhiều văn bản, kế hoạch về phát triển KH&CN, điển hình như: Kế hoạch số 51/KH-UBND tỉnh ngày 8 10 2009 của UBND tỉnh về phát triển KH&CN đến 2020; Kế hoạch số 60/KH-UBND ngày 02 7 2013 của UBND tỉnh về thực hiện Chương trình hành động số 14 CTr TU ngày 22 01 2013 của Tỉnh ủy Phú Yên về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hôi nhập quốc tế; Quyết định 2607 QĐ- UBND ngày 22 12 2015 về việc ban hành Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Phú Yên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cùng 10 văn bản quy phạm pháp luật và trên 30 văn bản pháp luật khác liên quan đến công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh. Đã triển khai thực hiện các Quyết định: số 144 2006 QĐ-TTg ngày 20 6 2006; số 45 118 2009 QĐ-TTg ngày 30 9 2009; số 19 2014 QĐ-TTg ngày 05 3 2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 vào các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước [26]. - Về Nguồn lực: chất lượng nguồn nhân lực trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp ngày một tốt hơn, chuyên nghiệp hơn, do kết quả đào tạo bồi dưỡng và kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình hình thành đội ngũ này. Tuy nhiên, còn một bộ phận không nhỏ hiệu quả hoạt động thấp, thiếu tính chuyên nghiệp, nhất là cán bộ cấp cơ sở, cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhỏ, các hợp tác xã. Nguồn lao động trong các khu công nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo hoặc đào tạo nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng. ực lượng lao động thừa trong khi thiếu những lao động có tay nghề cao và kỹ thuật viên có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực sản xuất [12]. + Về cơ sở vật chất, hạ tầng trang thiết bị phục vụ hoạt động KH&CN: Những năm gần đây, UBND tỉnh chú trọng đầu tư tăng cường tiềm lực KH&CN cho một số ngành, lĩnh vực, như trang thiết bị phục vụ chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, kiểm định, thử nghiệm đất, phân bón, giống, vật tư nông lâm nghiệp; chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ sinh học, lưu trữ gen; nâng cao năng lực giám định tư pháp kỹ thuật hình sự; trang thiết bị công nghệ cao phục vụ cho dạy học và đào tạo nghề: Trường Cao đ ng nghề, Trường Đại học Phú Yên; đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng: Ban Chăm sóc Bảo vệ sức khỏe Cán bộ, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh. Nâng cao năng lực kiểm định các loại phương tiện đo, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, an toàn bức xạ hạt 46 nhân; tăng cường tiềm lực KH&CN phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm; nâng cao năng lực bảo vệ môi trường..[12] Nhìn chung, các trang thiết bị máy móc được đầu tư chưa tập trung, phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của địa phương. - Trình độ dân trí: Công tác xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo, dạy nghề đạt được một số kết quả quan trọng. Mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được đầu tư phát triển. Chất lượng giáo dục ở các cấp học được tăng cường, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở tiếp tục được giữ vững và nâng cao chất lượng. Giáo dục đại học, cao đ ng có bước phát triển về quy mô và chất lượng đào tạo. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 210 sinh viên vạn dân (năm 2010 có khoảng 183 sinh viên vạn dân). Mạng lưới cơ sở dạy nghề, công tác đào tạo nghề được quan tâm thực hiện và đạt được nhiều kết quả, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55,01 (tăng 17,01 so với năm 2010), trong đó đào tạo nghề đạt 41 (tăng 15 so với năm 2010); trình độ học vấn, chuyên môn của người lao động từng bước được nâng lên. Cơ cấu lao động của tỉnh có sự chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp-xây dựng tăng, chiếm 21,9 (năm 2010 là 13,4 ); khu vực dịch vụ 27,5 (năm 2010 là 21,7%); khu vực nông-lâm-thủy sản 50,4% (giảm 14,5% so với năm 2010). Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mà trọng tâm là đào tạo, bồi dưỡng gắn với tuyển dụng, thu hút trí thức, quy hoạch, bố trí, sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được đẩy mạnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cán bộ. Đã đưa đi đào tạo, bồi dưỡng hàng nghìn cán bộ; thu hút 40 người. Toàn tỉnh hiện có 43 tiến sĩ (có 02 phó giáo sư) và 1.169 thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa I, II [21]. Tuy nhiên, Phú Yên hiện còn thiếu đội ngũ cán bộ KH&CN trình độ cao, rất cần cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn từ nay đến 47 năm 2020. Vào giai đoạn này, thực tiễn yêu cầu một bước chuyển biến mạnh mẽ về chất trong sự phát triển của đất nước nói chung và của Phú Yên nói riêng. Vì lẽ đó, cần đặt vấn đề về sự phát triển theo chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực. Báo cáo chính trị của Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI cũng đã xác lập vấn đề phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế Phú Yên. Phát triển cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho cán bộ KH&CN có cơ hội tham gia phát triển năng lực nghiên cứu KH&CN. Có chính sách thích đáng để thu hút cán bộ KH&CN và công nhân kỹ thuật giỏi, kể cả cộng đồng KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài về hợp tác nghiên cứu tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Như vậy, nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh cũng đòi hỏi một sự phát triển mạnh trong thời gian tới, cả về số lượng lẫn chất lượng[23]. - Văn hóa, phong tục, tập quán: Đa số các địa phương trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn khó khăn, ngành nghề chính của người dân vẫn là chăn nuôi, trồng trọt, các doanh nghiệp ở Phú Yên đa số là nhỏ lẻ; các đề tài, dự án thực hiện trong những năm gần đây chủ yếu tập trung lĩnh vực nông nghiệp và xã hội nhân văn. - Toàn cầu hóa: quá trình toàn cầu hóa chưa diễn ra mạnh mẽ tại Phú Yên vì Phú Yên có rất ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vì thế công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ chưa bị ảnh hưởng bởi yếu tố này. 2.2. Phân tích thực trạng khoa học và công nghệ tỉnh Phú Yên 2.2.1. Về hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ - Các tổ chức nghiên cứu và phát triển dịch cụ khoa học và công nghệ Các tổ chức nghiên cứu và phát triển dịch vụ KH&CN của tỉnh còn ít, một số cơ sở chính như: Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn- đo lường- chất lượng thuộc Sở Khoa học và công nghệ; Trung tâm công nghệ thông tin, Trung tâm tích hợp dữ liệu thuộc 48 Sở Thông tin và truyền thông; Trung tâm kỹ thuật giống vật nuôi, Trung tâm kỹ thuật giống cây trồng, Trung tâm giống và kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, Trung tâm khuyến nông, lâm, ngư thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn; Trung tâm khuyến công thuộc Sở Công thương; Trung tâm quan trắc môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường; một số trung tâm thực hiện chức năng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe thuộc Sở y tế; các trung tâm, công ty tư vấn khảo sát, thiết kế, quy hoạch trên các lĩnh vực xây dựng, giao thông, thủy lợi, lâm nghiệp, nông nghiệp, quy hoạch,thuộc các Sở và một số đơn vị tư nhân. Hiện nay, mạng lưới tổ chức nghiên cứu và phát triển còn chưa được quy hoạch đầy đủ ở các ngành các cấp, cần thiết phải tiến hành quy hoạch hệ thống tổ chức này trong thời gian tới [12]. - Các viện, trường đại học, cao đẳng, cơ sở đào tạo Toàn tỉnh hiện có 02 trường đại học, 03 trường cao đ ng, 01 Phân viện- Học viện Ngân hàng, 01 Trường Trung cấp Nghề Thanh niên dân tộc. Trường Đại học Phú Yên đang liên kết với các trường thuộc Đại học Huế, trường ĐH Điện lực đào tạo thạc sĩ các ngành Khoa học máy tính, Văn học Việt Nam, Quản lý Giáo dục, Quản trị kinh doanh, Quản lý năng lượng, Kỹ thuật điện, Tài nguyên-Môi trường [21]. - Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, giai đoạn 1 có diện tích 480 ha, giai đoạn tiếp theo có tổng diện tích 1080 ha. Hiện nay, Ban quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên đã đi vào hoạt động nhưng chưa thu hút nhiều đơn vị quan tâm đầu tư. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có 08 tổ chức KH&CN và 02 doanh nghiệp KH&CN đã được cấp giấy chứng nhận hoạt động. Nhìn chung, các tổ 49 chức KH&CN có qui mô nhỏ, tiềm lực nghiên cứu - triển khai còn hạn chế [12]. 2.2.2. Đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ của Tỉnh Chi cho nghiên cứu khoa học từ ngân sách sự nghiệp của tỉnh 15-16 tỷ/ năm. Giai đoạn 2011-2017 tỷ trọng chi cho KH&CN là 0,62 chi ngân sách, chưa đạt yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 2, khoá VIII và uật Khoa học công nghệ năm 2013 qui định đầu tư mức tối thiểu 2% so với tổng chi ngân sách [18]. 2.2.3.Về tình hình triển khai các nhiệm vụ Khoa học và công nghệ bằng vốn ngân sách trên địa bàn Tỉnh Về sử dụng vốn hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, Tỉnh ủy đánh giá: Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực sản xuất và đời sống được đẩy mạnh, từng bước nâng cao chất lượng. Song hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trên địa bàn tỉnh còn phân tán, hiệu quả chưa cao, chưa sát thực tế, gây lãng phí. Việc quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho các đề tài, dự án chưa chặt chẽ, có trường hợp gây lãng phí, vi phạm các qui định của Nhà nước [23]. - Trong giai đoạn từ 2011 đến quý 2 năm 2017 đã triển khai 14 nhiệm vụ cấp quốc gia, trong đó 06 nhiệm vụ thuộc Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ; 03 nhiệm vụ thuộc Chương trình ứng dụng tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển KT-XH nông thôn miền núi giai đoạn 2011-2015; 02 đề tài thuộc nhiệm vụ cấp thiết địa phương; 01 nhiệm vụ thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020; 02 nhiệm vụ thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước. Trong đó đã tổng kết, bàn giao và đưa vào áp dụng thực tế 07 đề tài, dự án. 50 - Triển khai 62 đề tài, dự án cấp tỉnh, gồm 18 đề tài thuộc lĩnh vực xã hội nhân văn, 44 đề tài, dự án trong lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ. Trong đó đã tổng kết, bàn giao và đưa vào áp dụng thực tế 30 đề tài, dự án. - Triển khai 54 dự án cấp huyện (cấp huyện không thực hiện đề tài) bao gồm các nhiệm vụ nhân rộng kết quả các đề tài thực hiện thành công, ứng dụng tiến bộ KH&CN mới vào địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu của tỉnh. Trong đó đã tổng kết, bàn giao và đưa vào áp dụng thực tế 39 mô hình, dự án nhân rộng [26]. 2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về Khoa học và Công nghệ tại tỉnh Phú Yên 2.3.1. Ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về khoa học và công nghệ UBND tỉnh Phú Yên đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, điển hình như: - Quyết định số 62 2015 QĐ-UBND, ngày 22 12 2015 Về việc Ban hành Quy định trình tự, thủ tục xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh sử dụng ngân sách nhà nước; - Quyết định số 02 2016 QĐ-UBND, ngày 01 2 2016 về việc ban hành quy định về quản lý và thực hiện đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Yên v.v. Bên cạnh đó, Tỉnh cũng tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo về lĩnh vực khoa học và công nghệ trên địa bàn, như: Hội nghị kết nối cung cầu công nghệ, Hội nghị tổng kết ngành Khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2015 v.v. Nhìn chung, Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để triển khai áp dụng tại địa phương, tuy nhiên việc triển khai vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 ra đời vào ngày 18 6 2013, hiệu lực ngày 01 01 2014, nhưng đến cuối năm 2015, UBND tỉnh Phú Yên 51 mới ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để triển khai tại địa phương; hệ thống văn bản quản lý KH&CN còn thiếu, hoặc chưa đồng bộ, chưa nhất quán, có nhiều bất cập, nhiều giải pháp đưa ra nhưng chậm được triển khai; việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật thiếu kiên quyết, không tập trung nên kết quả còn hạn chế; thiếu cơ chế triển khai và chính sách phát triển, mở rộng trong lĩnh vực nông nghiệp dẫn tới một số kết quả vẫn chỉ dừng lại ở “mô hình”, chưa áp dụng nhiều trong thực tiễn v.v. Chưa kịp thời tổng kết, đánh giá việc triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật về KH&CN trong thực tiễn để bổ sung lý luận làm cơ sở hoạch định các chính sách, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. Ngoài cách hướng dẫn, phổ biến triển khai các văn bản quy phạm pháp luật truyền thống lâu nay như tập huấn, hội nghị, hội thảo thì chưa có nhiều hình thức tuyên truyền, hướng dẫn qua các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, chưa xây dựng chương trình thông tin KH&CN với những mục tiêu, nội dung cụ thể để qua đó lãnh đạo các cấp tập trung nguồn lực và giải pháp trong điều hành; chưa xây dựng cơ sở dữ liệu về các hoạt động KH&CN như cơ sở dữ liệu dự án, đề tài đã triển khai trên địa bàn tỉnh, qua đó để đánh giá lại hiệu quả ứng dụng và đề xuất các giải pháp trong quản lý; chưa tích hợp cơ sở dữ liệu về các dự án, đề tài của cả nước đã nghiệm thu đạt kết quả cao, có khả năng ứng dụng và nhân rộng trên địa bàn tỉnh Phú Yên; việc thống kê KH&CN chỉ mới bắt đầu, chưa có nhiều hệ thống biểu mẫu và các chỉ tiêu về KH&CN. Việc đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp chưa thu hút được sự quan tâm đúng mức của các doanh nghiệp do công tác tuyên truyền chưa hiệu quả. 2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Sở Khoa học và Công nghệ là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công 52 nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội; tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm; sở hữu trí tuệ; an toàn bức xạ và hạt nhân trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật Sở Khoa học và Công nghệ chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND Tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Khoa học và Công nghệ. ãnh đạo Sở KH&CN gồm Giám đốc và 02 Phó Giám đốc (thiếu 01 phó giám đốc vì theo cơ cấu là 03 Phó Giám đốc), các tổ chức tham mưu, tổng hợp và chuyên môn, nghiệp vụ gồm: - Văn phòng Sở (8 công chức, thiếu 01 công chức phụ trách pháp chế); - Thanh tra (03 công chức; chủ yếu thanh tra chuyên ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu công nghiệp và an toàn bức xạ; chưa triển khai thanh tra các đề tài, dự án; chưa triển khai thanh tra hành chính đối với các đơn vị trực thuộc); - Phòng Kế hoạch - Tài chính (05 công chức); - Phòng Quản lý khoa học (04 công chức, đang tuyển thêm 01 hợp đồng); - Phòng Quản lý công nghệ và thị trường công nghệ (03 công chức); - Phòng Quản lý chuyên ngành (03 công chức, thiếu 01 công chức); - Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (10 công chức). - Các đơn vị sự nghiệp công lập: + Trung tâm Thông tin và Thống kê khoa học và công nghệ; + Trung tâm kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng; + Trung tâm Ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ hiện nay trên địa bàn tỉnh Phú Yên vẩn còn thiếu và yếu, chưa đảm bảo số lượng công chức cần thiết từ lãnh đạo sở cho đến các phòng, đơn vị thuộc Sở theo cơ cấu đã được phê duyệt do một số công chức đã nghỉ hưu hoặc 53 chuyển công tác khác; do cơ chế mới về tuyển dụng công chức nên phải chờ đến đợt thi tuyển công chức mới bổ sung được. Các đơn vị sự nghiệp KH&CN vẩn chưa chuyển đổi theo cơ chế tự chủ, tự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_khoa_hoc_va_cong_nghe_tren_dia.pdf
Tài liệu liên quan