MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .1
NỘI DUNG .9
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN.9
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội .9
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.9
1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX .12
1.2. Tiền đề tư tưởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử.15
1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham .15
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville .17
1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare.20
1.3. Khái quát về J.S. Mill và “Chính thể đại diện” .23
1.3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của J.S. Mill .23
1.3.2. Về “Chính thể đại diện”.28
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ
TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
VIỆT NAM HIỆN NAY.33
2.1. Hai nguyên tắc nền tảng cho quan niệm về bầu cử của J.S. Mill.33
2.1.1. Nguyên tắc công lợi.33
2.1.2. Nguyên tắc về quyền tự do .35
2.2. Quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”.37
2.2.1. Mối quan hệ giữa chính thể đại diện và bầu cử.37
2.2.2. Quan niệm về mở rộng quyền bầu cử.41
2.2.3. Quan niệm về quyền bầu cử cho phụ nữ .57
2.2.4. Quan niệm về quy trình bầu cử .62
2.2.5. Quan niệm về cách thức bỏ phiếu và nhiệm kỳ của Nghị viện.66
2.3. Những giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.
Mill trong “Chính thể đại diện” .682.3.1. Những giá trị chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill.68
2.3.2. Những hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill.73
2.4. Ý nghĩa quan niệm về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”
đối với Việt Nam hiện nay.76
2.4.1. Ý nghĩa lý luận.76
2.4.2. Ý nghĩa thực tiễn.80
KẾT LUẬN .87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.90
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan niệm về bầu cử của John Stuart Mill trong tác phẩm “chính thể đại diện” và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước hiện trạng giai cấp tư sản rào đất cướp ruộng của nông
dân để trồng cỏ nuôi cừu phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may đang khát nguyên
liệu đã khiến tình trạng di dân từ nông thôn lên thành thị ngày một nghiêm trọng.
Những người nông dân mất đất giờ đây không còn nơi để canh tác mưu sinh, không
còn nhà cửa, phiêu bạt khắp nơi, họ dồn lên các thành phố công nghiệp gây một sức
ép lớn về các điều kiện sống. Chỗ ở đông đúc, chật chội, không có đủ lương thực
hay nước sạch khiến dịch bệnh hoành hành ở nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm diễn ra
và các tệ nạn xã hội như nghiệp rượu, ma túy, mại dâm cũng tất yếu đi kèm.
Trong những công xưởng công nghiệp, tình trạng sống và điều kiện lao động
của tầng lớp công nhân cũng không có gì khả quan hơn. Điều kiện sống và làm việc
vô cùng cực khổ, bị các ông chủ tư sản bóc lột một cách tàn bạo, mỗi người phải
làm việc từ khoảng 12 đến 15 tiếng một ngày, thậm chí có khi lên tới 19 tiếng và
sáu ngày trong một tuần. Tình trạng thất nghiệp thêm nghiêm trọng và có xu hướng
12
tăng cao đã khiến cả phụ nữ và thậm chí là cả trẻ em cũng phải làm việc trong các
nhà máy để kiếm sống. Từ hiện thực vô cùng khắc nghiệt này dẫn đến những cuộc
đấu tranh của công nhân mà bắt đầu là phong trào đập phá máy móc, phong trào này
diễn ra bộc phát và không đạt được nhiều thành công. Đặc biệt, vị trí và quyền lợi
của phụ nữ trong xã hội rất thấp kém, họ bị đàn áp, bóc lột và không có quyền được
tham gia vào các công việc xã hội. Nhiều nhà tư tưởng đã lên tiếng bênh vực cho
phụ nữ, đòi quyền đi bầu cho họ. Ngoài ra, tình hình đất nước sau cách mạng cũng
gặp phải rất nhiều khó khăn cho công tác tổ chức nhà nước, quản lý xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội như vậy đã thôi thúc các nhà tư tưởng
lúc bấy giờ mong muốn tìm ra cách giải quyết những tình trạng đó và J.S. Mill là
một đại diện tiêu biểu. Với một nhà tư tưởng lớn, chưa bao giờ thỏa hiệp trong công
cuộc đấu tranh cho công bằng, tự do, dân chủ như J.S.Mill, ông suy tư, trăn trở cho số
phận những kiếp người khốn khổ, bị ức hiếp trong xã hội, những con người không có
những “quyền cơ bản” của một con người, để từ đó đã cho ra đời hàng loạt các tác
phẩm mang tính triết học, đạo đức, chính trị, xã hội vĩ đại của mình.
1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
Muốn hiểu rõ và sâu sắc những tư tưởng và luận giải của Mill trong “Chính
thể đại diện” không thể không có cái nhìn khái quát về tình hình chính trị Anh ở
thời kỳ này.
Sau cách mạng, thắng lợi thuộc về liên minh giữa giai cấp tư sản và tầng lớp
quý tộc mới, hình thức chính thể Cộng hòa nghị viện được thiết lập mà quyền lực
tối cao được tập trung trong vào Hạ nghị viện. Nhưng chính thể này không tồn tại
được lâu do giai cấp tư sản sau cách mạng đã không giải quyết nhiệm vụ chia ruộng
đất cho nông dân dẫn đến mâu thuẫn xã hội phát triển thêm gay gắt giữa tư sản với
quần chúng nhân dân lao động.
Trước tình thế đó, giai cấp tư sản đã phải thoả hiệp với tầng lớp quý tộc mới
nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn xã hội.
Hai sự kiện quan trọng thể hiện rõ sự thỏa hiệp này là:
13
Thứ nhất, sau khi Oliver Cromwell – người lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản
qua đời vào năm 1658, kéo theo sự sụp đổ của nền Cộng hòa, Charles II đang lưu
vong ở nước ngoài đã được mời về nước lên ngôi vua năm 1660.
Thứ hai, vào tháng 2/1689, Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật mới có tên
là "Đạo luật thừa nhận ngôi vua và quyền hành của nghị viện". Đạo luật này là cơ
sở pháp lý cho sự ra đời nhà nước quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay. Nội
dung chủ yếu của đạo luật này là đề cao vai trò của Nghị viện và khẳng định ngôi vua
sẽ được giữ lại nhưng chỉ mang tính biểu tượng - nhà vua trị vì mà không cai trị.
Như vậy có thể khẳng định rằng chính thể quân chủ lập hiến ở Anh ra đời là
kết quả của sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới, là sản phẩm và biểu
hiện của cuộc cách mạng tư sản không triệt để.
Lúc bấy giờ, Thượng viện thuộc tầng lớp đại quý tộc chỉ định có uy lực hơn
Hạ nghị viện do quần chúng nhân dân bầu ra. Cuộc bầu cử Hạ nghị viện cũng được
tiến hành theo những quy tắc rất hạn chế quyền bầu cử. Phần lớn thành viên ở Hạ
nghị viện là những người được bầu ra từ những vùng đất ít dân cư sinh sống mà
việc bầu cử thường bị các chúa đất thao túng. Không chỉ có các ghế ở nghị viện
được mua bán bằng tiền mà cả đến các cử tri hay thậm chí là những lá phiếu bầu
cũng trở thành vật trao đổi của nhà giàu. Vấn đề này được Mill đề cập rõ nét trong
những lập luận của mình. Tầng lớp lao động và cả tầng lớp trung gian trong xã hội
cũng bị tước đoạt quyền chính trị.
Ở Thượng viện là sự tranh chấp quyền lực của Đảng Whig (nay là Đảng Dân
chủ tự do) và Đảng Tory (nay là Đảng Bảo thủ). Đảng Tory có quan hệ với giới
thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp
đoàn, tài chính và chủ đất. Hai đảng này thay nhau quản lý đất nước và tranh chấp
để giành đa số ghế trong nghị viện. Nhìn chúng, cả hai đảng đều bảo vệ quyền lợi
cho giai cấp tư sản và quý tộc thượng lưu, củng cố quyền thống trị của giai cấp tư
sản. Hình thức quân chủ lập hiến này khác hẳn so với hình thức nhà nước quân chủ
chuyên chế trước đây của Anh, ở hình thức mới, Thủ tướng và nội các chính phủ
14
thuộc về tay đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện do đảng có cử ra và ủng hộ.
Thủ tướng và nội các chỉ chịu trách nhiệm trước nghị viện chứ không thông qua
vương quyền.
Bối cảnh văn hóa tinh thần phương Tây thời Mill chứng kiến cuộc khủng
hoảng tinh thần hậu cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp. Hai cuộc cách
mạng to lớn đã thay đổi tận gốc rễ các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật,
nó xuất phát từ nước Anh rồi sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Bên cạnh những tiến bộ
xã hội không thể phủ nhận của một giai đoạn lịch sử sôi động, hai cuộc cách mạng
cũng để lại những nhiệm vụ to lớn không giải quyết được – chính những nhiệm vụ
này lại là căn nguyên dẫn đến đấu tranh, phản đối trong xã hội Anh.
Cuộc cách mạng tư sản diễn ra đã mở đường cho một bước phát triển ngoạn
mục của giai cấp tư sản khi chế độ phong kiến phản động đã bị lật đổ, mọi quyền lợi
giờ đã thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy nhiên lực lượng mạnh mẽ sát cánh và quyết
định sự thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Anh là giai cấp nông dân lại không có
được quyền lợi gì, nhiệm vụ đòi đất cày không thực hiện được mà tình hình rào đất
cướp ruộng còn diễn ra gay gắt hơn. Đời sống nông dân trở nên nghèo khổ, tha
hương cầu thực, phải di dân lên thành phố làm thuê, đói khổ.
Ngoài ra, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã đánh dấu một bước tiến
vượt bậc trong lịch sử về mặt cơ khí - kỹ thuật để tăng năng suất lao động và mở ra
một thời kỳ phát triển chưa từng thấy về mọi lĩnh vực đời sống xã hội Anh. Giai cấp
công nhân ra đời từ đây và nhanh chóng trở thành lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội. Trái lại với quy mô cũng như vai trò của mình, những người công nhân bị bóc
lột thậm tệ, là tầng lớp đông đảo nhất nhưng cũng là tầng lớp đói khổ vào bậc nhất.
Các cuộc tấn công, nổi dậy chống lại các ông chủ tư sản để đòi quyền lợi diễn ra ở
khắp nơi trên nước Anh.
Tất cả những hệ quả này đã đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi
những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến, dẫn đến phản kháng, đấu tranh
diễn ra khắp nơi. Đồng thời cũng giải phóng tư tưởng, con người ngày càng có ý
15
thức về các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng. Chính mâu thuẫn giai cấp
giữa tư sản và công nhân, nhân dân lao động, sự phân biệt đối xử bất công với phụ
nữ hay tham vọng tham chính bịp dân của các chính trị gia thời kỳ này đã làm cho
những học thuyết về quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình
thành, khiến cho những cá nhân mẫn tiệp như J.S. Mill không ngừng day dứt, trăn
trở. Và chính từ bệ phóng này, ông đã viết hăng say và tạo nên một hệ thống tác
phẩm đồ sộ và giá trị về các lĩnh vực triết học, chính trị, xã hội.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử
Nhìn chung, ảnh hưởng của các nhà tư tưởng đi trước đối với sự hình thành
hệ thống triết học chính trị - xã hội J.S. Mill có thể kể đến như: Jeremy Bentham,
James Mill, Wilhelm von Humboldt Đặc biệt, xem xét dưới hệ thống quan điểm
của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện” mà phạm vi nghiên cứu là quan niệm về
bầu cử của ông thì không thể không kể đến ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc của các nhà
tư tưởng: Jeremy Bentham (1748 – 1832), Alexis Tocqueville (1805 - 1859),
Thomas Hare (1806 – 1891). Trước hết, tác giả luận văn đi phân tích những nét tư
tưởng chính của những tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của J.S. Mill
về bầu cử.
1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham
Jeremy Bentham (1748 – 1832) là một triết gia kiêm nhà cải cách xã hội
người Anh, ông là cha đẻ của Thuyết Công lợi (Utilitarianism), ông cho rằng lợi ích
cá nhân hoàn toàn đồng nhất với lợi ích xã hội. Ông giữ một vị trí quan trọng trong
lịch sử văn hóa tinh thần của nước Anh.
Jeremy Bentham khai triển đạo đức công lợi, theo ông, tính chất tốt hay xấu
của một hành vi được đo lường theo tính lợi ích của nó, nghĩa là theo cái gì đem lại
cho chúng ta tối đa “khoái lạc” và tối thiểu “khổ đau”. Học thuyết đạo đức và chính
trị này của Bentham bắt nguồn từ việc ông không hài lòng với những cơ sở lý
thuyết về luật pháp hiện hành và cách áp dụng luật tại các tòa án. Ông cho rằng
những cơ sở bất hợp lý và hỗn loạn của những hệ thống pháp lý và cấu trúc xã hội
16
lúc bấy giờ là nguyên nhân gây ra bất ổn chính trị. Các tác phẩm chính của Bentham
có thể kể tới như “Những đối thoại của Chính phủ” (1776), “Về các nguyên tắc đạo
đức và pháp luật (xuất bản năm 1789), “Cải cách Nghị viện” (1817), “Đạo đức học
hay khoa học về đạo đức” (gồm hai tập, được công bố vào năm 1843).
Bentham mở đầu Về các nguyên tắc đạo đức và pháp luật với một tiền đề cơ
bản: “Thiên nhiên đã đặt nhân loại dưới sự cai quản của hai ông chủ tối cao là đau
khổ và khoái lạc. Chúng chỉ ra những gì chúng ta nên làm và quyết định những gì
chúng ta phải làm. Bên cạnh chúng, một mặt là tiêu chuẩn đúng và sai, mặt kia là
chuỗi các nguyên nhân và hậu quả”. Như vậy, theo Bentham, dưới góc độ tâm lý,
khi tìm hiểu cội rễ hành động của con người thì đều thấy tất cả chỉ để chạy theo lạc
thú và né tránh đau khổ. Hay nói cách khác, bàn về tư cách con người, sự đau khổ
và khoái lạc quyết định việc chúng ta phải làm. Ngoài tính chất tâm lý của chủ
nghĩa khoái lạc còn có khía cạnh đạo đức, trong đó, yếu tố đúng hay sai về mặt luân
lý phụ thuộc đau khổ hoặc sung sướng nhiều hay ít. Như vậy sự đau khổ và khoái
lạc chỉ cho chúng ta biết cái nên làm là gì.
Nếu đau khổ và khoái lạc là tiêu chuẩn của đạo đức thì các hành động phải
được đánh giá bằng hậu quả của chúng. Do đó, chủ nghĩa công lợi là “thuyết đạo
đức cứu cánh”. Chủ nghĩa công lợi là nguyên tắc của lợi ích, hữu dụng. Theo
Bentham, hành động phù hợp với nguyên tắc lợi ích khi nó có xu hướng làm gia
tăng hạnh phúc của cộng đồng nhiều hơn là làm giảm. Nói khác đi, hạt nhân của
Thuyết Công lợi là “Luôn luôn hành động để đem lại hạnh phúc lớn nhất cho nhiều
người nhất”, nó hướng hành động đúng phải theo là nhằm gia tăng tối đa sự sung
sướng hoặc giảm tới mức tối thiếu đau khổ. Học thuyết này trở nên quen thuộc với
tên gọi Thuyết Công lợi, những người ủng hộ thuyết này áp dụng chúng vào đời
sống đạo đức cá nhân cũng như vào chính sách chính trị, luật pháp và xã hội. Nó có
ảnh hưởng lớn đến đến đường lối cai trị nước Anh lúc đó.
Có thể nói, một mặt Bentham là người bảo vệ chủ nghĩa cá nhân bởi ông đề
cao vai trò của mỗi cá nhân trong sự thỏa mãn hay đau khổ của họ. Mặt khác, tính
17
công lợi theo quan niệm của Bentham không đồng nhất với mức độ thỏa mãn của cá
nhân trong sự gắn liền với các hoạt động xã hội rộng lớn. Những quan niệm số học
về khoái lạc hay coi sự thỏa mãn về thể chất cũng giống như tinh thần là những
điểm yếu ở Bentham mà sau này được Mill khắc phục. Khi còn trẻ, Mill ảnh hưởng
rất nhiều từ Bentham. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với các nhà tư tưởng Pháp và một số
nhà tư tưởng Anh tiền bối, ông đã có những ý nghĩ khác xa so với Bentham, đặc
biệt là trong quan niệm về chất lượng khoái lạc. Mặc dù tiến bộ về nhiều mặt so với
Bentham nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận ảnh hưởng mạnh mẽ từ
nhà tư tưởng này tới J.S. Mill.
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville
Alexis de Tocqueville (1805 – 1859) sinh ra ở Pháp nhưng dấu ấn cuộc đời
và sự nghiệp lại gắn chặt với nước Mỹ. Cho đến tận ngày nay, ông vẫn được coi là
“một huyền thoại” của nước Mỹ - đất nước mà ông thông hiểu hơn chính quê hương
Pháp. Tocqueville từng đảm đương những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà
nước Pháp như đại biểu Quốc hội (1839 – 1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Pháp (1849).
Sau những biến cố khi cách mạng Pháp nổ ra (1848 – 1849), Tocqueville tìm
đường sang nước Mỹ với niềm mong mỏi lớn lao sẽ học tập được nhiều điều về mô
hình chính trị kiểu mẫu của Mỹ để giúp xây dựng nền chính trị Pháp.
Không chỉ ở Mỹ, Tocqueville còn đến Anh để nghiên cứu hệ thống chính trị
ở quốc gia này. Ông đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hệ thống chính trị của
Hoa Kỳ và cho ra đời rất nhiều khảo luận về lĩnh vực này. Tác phẩm “Nền dân trị
Mỹ” (Nguyên bản có tên: Democracy in America) là một trong những khảo luận
đầu tiên, sâu sắc nhất và nổi tiếng nhất về lĩnh vực này. Tác phẩm được xuất bản
phần 1 vào năm 1835 và phần 2 vào năm 1840. Trong tác phẩm này, Tocqueville đã
thẳng thắn chỉ ra những nguy cơ của nền dân chủ Hoa Kỳ. Ông lo ngại ý kiến của
quần chúng có xu hướng tạo ra tình trạng chuyên chế và chế độ cai trị theo số đông số
học có thể cũng có tính chất đàn áp không khác gì một kẻ chuyên quyền (Nền dân trị
18
Mỹ phân tích hệ thống lập pháp và hành pháp của Hoa Kỳ) cùng ảnh hưởng của những
định chế xã hội và chính trị đối với thói quen và cách hành xử của dân chúng.
Tocqueville đã cố gắng đem những gì mình học hỏi được và những ý tưởng,
mong muốn thay đổi đến Pháp song không được toại nguyện, nước Pháp không ghi nhận
những điều đó. Những tư tưởng của ông trong tác phẩm được hưởng ứng tại nước Anh,
trong đó, J.S. Mill là người thừa nhận và nghiên cứu một cách vô cùng nghiêm túc.
Những tư tưởng có giá trị mà Mill sử dụng sau này trong các luận thuyết của
mình được học tập từ Tocqueville là nguyên tắc “nhân dân tối thượng” và nguyên
tắc “tự do và bình đẳng”. Với nguyên tắc “nhân dân tối thượng” giống như các bậc
tiền bối Montesquieu và Rousseau, Tocqueville cho rằng nguồn gốc của quyền lực
xã hội nằm bên trong xã hội, nó thuộc về nhân dân và mục tiêu của nó cũng hướng
tới nhân dân, “nhân dân là nguồn gốc và mục tiêu của mọi thứ. Tất cả đều từ nhân
dân mà ra và tất cả đều tích tụ vào nhân dân” [39, tr. 113]
Theo Tocqueville sự bình đẳng chính là nguồn gốc của nguyên tắc “nhân dân
tối thượng”, bình đẳng ở đây là “bình đẳng trong những điều kiện”. Để có thể tạo
được sự bình đẳng này, thì hoặc là trao quyền lực cho mỗi công dân hoặc là không
trao cho bất kỳ ai. Việc không trao quyền cho ai đồng nghĩa với việc xóa bỏ xã hội
bởi vì con người không còn ở trong xã hội nữa, không quan tâm đến vấn đề xã hội
mà chỉ quan tâm đến những vấn đề cá nhân. Sự bình đẳng bằng cách trao quyền cho
mỗi công dân sẽ giúp thoát khỏi nạn quyền lực chuyên chế và xây dựng thành công
nguyên tắc “nhân dân tối thượng”. Chính ở tư tưởng này Mill chịu ảnh hưởng của
Tocqueville, Mill thẳng thắn chỉ ra những hệ quả của chính quyền chuyên chế khi
quyền lực không thuộc về nhân dân, nhân dân theo Mill hiểu là toàn thể chứ không
phải là số đông số học. Mill đã trăn trở rất nhiều về mối nguy hiểm của dân chủ, đó
là sự đàn áp của đa số lên cá nhân hay thiểu số. Trong “Chính thể đại diện” Mill đã
dành một dung lượng đáng kể để phân tích về vấn đề này.
Bên cạnh nguyên tắc “nhân dân tối thượng”, nguyên tắc “tự do và bình
đẳng” chính là tư tưởng nổi bật của Tocqueville có ảnh hưởng đến Mill. Tự do và
19
bình đẳng là giá trị căn bản của con người nó dành cho tất cả mọi người trên thế
giới không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị, văn hóa. Tự do theo
nghĩa truyền thống là các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm nên còn gọi tự do Hiến
định nhằm bảo tính độc lập tự chủ và nhân phẩm của con người trước những chèn
ép về chính trị, xã hội, tôn giáo... J.S. Mill hiểu tự do theo nghĩa “tự do của mỗi
người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác và tự do xã hội là ranh
giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc lập cá nhân” [35, tr. 9]. Tocqueville phân
loại ra làm hai loại là tự do quý tộc và tự do dân chủ. Nếu xã hội tồn tại tự do quý
tộc, thì sự tự do này được xem như một đặc quyền dành cho một số người chứ
không thuộc về toàn bộ thành viên trong xã hội. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng
giữa người tự do và người không tự do. Còn trong xã hội tồn tại tự do dân chủ, sự tự do
đó có mối quan hệ mật thiết với bình đẳng, phục tùng những nguyên tắc của bình đẳng.
Ngoài hai nguyên tắc trên, Mill cũng thấm đẫm những tư tưởng độc đáo khác
của Tocqueville trong tác phẩm “Nền dân trị Mỹ”. Mill đã sử dụng khá nhiều cụm từ
mà Tocqueville đã nhắc đến trước đó là “chuyên chế của đa số”. Quyền tự do trong xã
hội dân chủ được ủng hộ mạnh mẽ, khác hẳn so với ở chế độ độc tài. Tuy nhiên, nó
cũng có mặt trái, vì không bị áp đặt dưới sự chuyên quyền nên dễ xảy ra nhiều tranh
cãi, bất đồng ý kiến mà phần thắng thường thuộc về đa số. Chính ở điểm này Mill chịu
ảnh hưởng từ Tocqueville. Bên cạnh đó, Tocqueville cũng cho rằng, những truyền
thống và sự chuyên nghiệp trong lập pháp một mặt bảo vệ vững chắc những lý do để
hình thành luật. Mặt khác, khi nó được lan rộng và thừa nhận sâu rộng trong xã hội thì
nó lại trở thành yếu tố gây trở ngại đối với những suy nghĩ độc đáo, khác biệt so với
những bộ óc bình thường và gây khó khăn để áp dụng những ý tưởng mới mẻ. Do ảnh
hưởng tử những phân tích của Tocqueville về nền văn hóa Mỹ mà sau này, Mill đã suy
nghĩ một cách nghiêm túc về mối nguy hiểm của dân chủ chính là sự khác biệt của đa
số sẽ đàn áp cá nhân hay thiểu số.
Như vậy, lập trường dân chủ với những phân tích sắc sảo của Tocqueville trong
“Nền dân trị Mỹ” đã ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến Mill. Không chỉ hứng thú, đam mê
20
với những vấn đề Tocqueville gợi ra mà Mill còn đưa ra lập trường riêng thể hiện
những suy nghĩ của cá nhân ông về những vấn đề cả Tocqueville và Mill cùng lưu tâm.
1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare
Thomas Hare (1806 – 1891) là một người đề xuất cải cách bầu cử ở Anh.
Hare Trong tác phẩm của mình, Mill đã nhắc rất nhiều lần đến Hare và hệ thống bầu
cử của ông.
Nói về hệ thống của Thomas Hare, ông cho rằng “đơn vị của sự đại diện, chỉ
tiêu của các cử tri được quyền có một đại biểu cho mình, sẽ được xác định bằng quá
trình lấy trung bình thông thường” [34, tr. 218]. Và như vậy, mỗi cử tri có quyền tự
do bỏ phiếu cho bất cứ ứng viên nào mặc dù ứng viên đó tranh cử ở địa phương
khác nhau trong cả nước. Vì vậy mà, có thể cử tri không ủng hộ và không muốn
ứng viên tại địa phương của họ làm đại diện cho họ thì họ vẫn tìm kiếm được người
đại diện cho mình trên địa bàn cả nước. Mill nhiệt thành ủng hộ và coi đó như một
phương cách giảm thiểu chuyên chế của đa số: “trong mức độ như vậy, điều này có
thể đem lại quyền bầu cử cho nhóm thiểu số mà nếu không thế thì những quyền ấy
đã bị tước đoạt thực sự” [34, tr. 218].
Một lợi ích khác nữa mà hệ thống của ông Hare đem lại, đó là, kể cả cử tri
bầu cho ứng viên địa phương của họ mà ứng viên đó không đủ số lá phiếu để được
đại diện thì lá phiếu của họ vẫn có thể đem lại sự đại diện đối với ứng viên nào đó ở
một địa phương khác. Bởi vì, trong lá phiếu của họ được ghi tên những ứng viên họ
bầu cho theo thứ tự ưu tiên, và “cần thiết phải để cho số phiếu được tính cho người
đắc cử không vượt quá chỉ tiêu, dù cho ứng viên có thể thu được nhiều đến đâu đi
nữa: số phiếu còn lại bầu cho anh ta có thể có phiếu bầu tính cho người tiếp theo
trong những danh sách tương ứng cần đến những phiếu ấy, và nhờ số phiếu còn lại
ấy mà người đó hoàn tất được chỉ tiêu” [34, tr.219]. Bằng cách này, bất kể cử tri nào
cũng sẽ tìm được cho mình người đại diện. Ngoài ra, tính minh bạch của bầu cử
cũng được đề cao “những lá phiếu và tất cả các yếu tố tính toán có thể đặt ở nơi lưu
trữ mà tất cả những ai quan tâm đều có thể tiếp cận được; và nếu bất cứ ai thu được
21
chỉ tiêu mà không đắc cử một cách sai trái thì người ấy dễ dàng có thể chứng minh
được điều đó” [34, tr. 220].
Trích dẫn cuốn “Luận thuyết về Bầu cử các Đại biểu” của ông Hare, Mill
đánh giá rất cao: “Càng nghiên cứu những công trình này sâu hơn, càng có ấn tượng
mạnh mẽ hơn về tính khả thi hoàn hảo của kế hoạch và những lợi thế phi thường
của nó, tôi xin mạnh dạn dự đoán như thế” [34, tr. 221]. Mill đánh giá “kế hoạch
của ông Hare thuộc loại những cải tiến vĩ đại nhất từng được tạo nên trong lý thuyết
và thực hành chính quyền” [34, tr. 221], bởi nó đảm bảo cho sự đại diện tỷ lệ theo
số đông của bất cứ cấp bầu cử nào dựa trên các nguyên tắc công lý và bình đẳng.
Thêm nữa, các cử tri không còn bị đại diện bởi một người mà họ không lựa chọn
như thực tế ở Anh lúc đó. Với thiểu số ở địa phương không đủ để bầu cho một đại
diện thì “sẽ để ý chờ đợi xem có ứng viên nào tại đâu đó có vẻ như sẽ thu được số
phiếu bầu khác thêm vào số phiếu bầu của họ” [34, tr. 223]. Chính kiểu cách bầu cử
này sẽ có thể đánh giá đúng tài năng và trí tuệ của các ứng cử viên, nó có ích hơn
hẳn tình trạng đương thời khi một ai đó có tài năng và cá tính cũng rất khó được vào
Nghị viện. Lý do bởi “Chỉ có những người có ảnh hưởng địa phương, hay là những
người tiến thân bằng cách chịu chi tiền rộng rãi, hay là những người được một trong
hai đảng lớn cử xuống” [34, tr. 223] mới có thể đắc cử. Với những ý tưởng của ông
Hare, nếu một ai đó không được đại diện bởi người mà họ mong muốn vì sự khắt
khe trên thì họ “đều có thể điền vào lá phiếu của mình trong danh mục các ứng viên,
những người được chọn từ tất cả những người danh tiếng trong quốc gia, có nguyên
tắc chính trị chung mà họ có thiện cảm” [34, tr. 223]. Điều này mở rộng cơ hội vào
Nghị viện cho các ứng viên có tài năng và cá tính mà không chi tiền hay là người
của đảng phái nào.
Có thể đánh giá, hệ thống bầu cử theo ông Hare đáp ứng được tính đại diện
cho những nhóm thiểu số. Mặt khác, “những nhóm đa số hẳn cũng bị bắt buộc phải
chú ý tìm kiếm các nghị sĩ có tầm cỡ cao hơn nữa” [34, tr. 224]. Thêm một lợi ích
từ hệ thống này là, “một khi người được các nhà lãnh đạo đề cử cũng sẽ phải đọ sức
cạnh tranh không phải chỉ với ứng viên của nhóm thiểu số mà còn với tất cả những
22
người đã thành danh trong nước mong muốn được phục vụ” [CT, tr. 224]. Theo đó
các cử tri không còn bị áp lực từ tiền hay từ các đảng nữa. Hơn nữa, sự cạnh tranh
công bằng giữa các địa phương cũng được thực hiện, “các đơn vị bầu cử sẽ trở
thành những người cạnh tranh nhau để có được ứng viên tốt nhất và sẽ ganh đua
nhau lựa chọn trong số người ở địa phương có kiến thức và quan hệ, tìm ra những ai
nổi bật nhất về mọi phương diện khác” [34, tr. 225].
Bằng cách phân tích hệ thống bầu cử của ông Hare, J. S. Mill đã gián tiếp chỉ
ra cách thức duy trì một nền dân chủ chính hiệu chứ không như “trong nền dân chủ
giả hiệu, thay vì đem lại sự đại diện cho tất cả, lại đưa đến sự đại diện riêng cho
những nhóm đa số địa phương, tiếng nói của nhóm thiểu số có kiến thức có thể
không có được cơ quan ngôn luận nào hết trong hội đồng đại biểu” [34, tr. 225-
226]. Cũng bằng phương pháp này, chất lượng các đại biểu được cải thiện rõ rệt.
Bởi “Nhóm thiểu số có kiến thức phân tán ở khắp các khu vực bầu cử có thể hợp
nhất lại để làm đắc cử một số đại biểu tỷ lệ theo số đông của chính họ, là những
nhân vật có tài năng nhất mà đất nước có được” [34, tr. 226]. Và chính những đại
biểu của số đông lúc này sẽ phải tìm cách đáp trả lại những lý lẽ hay luận cứ của
những vị đại diện của thiểu số có kiến thức, tài năng khác.
Như vậy, luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare đã có ảnh hưởng lớn đến
những đề xuất về cải cách bầu cử của J.S. Mill. Bằng cách chắt lọc những tinh hoa
tư tưởng, phát triển và hệ thống hóa những tri thức tiếp thu được, Mill đã cho ra đời
quan niệm về bầu cử mang tính kế thừa, khách quan và độc đáo.
Tóm lại, tác giả luận văn đã trình bày vài nét về những nhà tư tưởng có ảnh
hưởng lớn đến quá trình hình thành tư tưởng về bầu cử của J.S. Mill. Trong suốt
cuộc đời của Mill, có rất nhiều bậc tiền bối cũng như rất nhiều các học thuyết tư
tưởng có tác động đến hệ thống tư tưởng của ông nói chung và quan niệm về bầu cử
nói riêng, tuy nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004798_1_2282_2002889.pdf