Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ. 9
1.1. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa
vụ pháp lý của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. . 9
1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong tố tụng hình sự. 9
1.1.2. Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự. 15
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự. 16
1.2. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong Luật
pháp quốc tế. 18
1.3. Sơ lược quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ . 21
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong giai đoạn
1945 – 1988. 21
1.3.3. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 1988. 25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI. 32
42 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c là chỉ
có bị can, bị cáo mới là người bị buộc tội theo luật TTHS Đan Mạch.
Pháp luật tố tụng Liên bang Nga có những đặc điểm gần với pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam nhất. Qua việc nghiên cứu BLTTHS của Liên bang
Nga tại Mục 7 quy định về các chủ thể tham gia tố tụng hình sự bên bào chữa
chúng ta thấy quy định về người bị tình nghi và bị can, bị cáo. Theo những
quy định tại Luật này thì người bị tình nghi được chỉ dẫn ra là tương đối rộng,
bao gồm cả người bị bắt và người bị tạm giữ trong pháp luật Việt Nam. Luật
TTHS Liên Bang Nga cũng cho nhóm người này có rất nhiều quyền như
quyền từ chối khai báo, quyền bào chữa, quyền gặp gỡ riêng và bí mật với
người bào chữa. Có thể thấy, người bị buộc tội trong TTHS Liên bang Nga
bao gồm cả những người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ở Việt Nam thuật ngữ người bị buộc tội là thuật ngữ mới, chưa có
11
trong BLTTHS năm 2003. BLTTHS 2003 cũng chỉ mới chỉ ghi nhận quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Điều này có thể cho rằng, theo BLTTHS 2003, người bị buộc tội bao gồm
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, trong thực tế, khi một người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo lệnh truy nã thì có nghĩa
là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có các căn cứ để
buộc tội những người này, đồng thời họ cũng là những người yếu thế, dễ bị
tổn thương trong TTHS. Chính vì vậy, cần phải coi cả người bị bắt là một
trong những loại người bị buộc tội. Thêm vào đó, trong BLTTHS năm 2015,
thuật ngữ người bị buộc tội đã được diễn giải như sau: “Người bị buộc
tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” [38,Điều 4]. Người
bị buộc tội là người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ
án, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế của
tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan vụ án. Những người này
có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và theo qui định của
pháp luật họ chưa bị coi là người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi
phạm tội. Vậy để làm rõ khái niệm người bị buộc tội, trước hết, ta cần đi vào
tìm hiểu các khái niệm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Người bị bắt: Cả BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 đều
không coi người bị bắt là người tham gia tố tụng. Chính bởi thế, cả hai bộ luật
này đểu không có khái niệm người bị bắt mà chỉ liệt kê những trường hợp bắt
người, đó là: BLTTHS năm 1988 quy định người bị bắt trong những trường
hợp sau: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; BLTTHS năm 2003 quy định
người bị bắt trong những trường hợp sau: người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết
định truy nã.
12
Đến khi BLTTHS năm 2015 ra đời, đã coi người bị bắt là một trong
những chủ thể người tham gia tố tụng (khoản 4 Điều 55). BLTTHS năm 2015
cũng đã liệt kê những trường hợp người bị bắt là: người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã và bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên, cả BLTTHS năm 2015 cũng chưa chính thức có sự định
nghĩa thuật ngữ người bị bắt, có chăng cũng chỉ là định nghĩa theo phương
pháp liệt kê, chưa thực sự có một định nghĩa khoa học, đầy đủ nội hàm của
khái niệm người bị bắt. Hiện nay trong các sách báo, tạp chí hay các công
trình nghiên cứu khoa học cũng rất ít đưa ra định nghĩa khoa học về người bị
bắt, do vậy cần có sự định nghĩa cụ thể hơn về người bị bắt để làm rõ hơn nội
hàm của khái niệm này. Cụ thể, tác giả xin đưa ra định nghĩa về người bị bắt
như sau: Người bị bắt trong tố tụng hình sự là người bị tình nghi là tội phạm
và với họ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn và cách ly ngay lập tức để họ
không thể tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn.
- Người bị tạm giữ: BLTTHS năm 1988 lần đầu tiên đưa ra định
nghĩa “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang và đối với họ đã có quyết định tạm giữ, nhưng chưa bị
khởi tố” [34, Điều 38]. BLTTHS năm 1988 là văn bản pháp lý đầu tiên định
nghĩa thế nào là“người bị tạm giữ”. Trước đó, nhà làm luật không hề đề cập
đến việc định nghĩa thế nào là người bị tạm giữ mặc dù trong các văn bản
pháp luật vẫn đề cập đến vấn đề này. Kế thừa và phát triển những quy định
của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã quy định: “Người bị tạm
giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị
bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” [36, Điều 48].
Đến BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định: “Người bị tạm giữ là người
13
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” [38, Điều 59]. So với BLTTHS năm 2003, khái
niệm này về cơ bản không có gì khác, có chăng chỉ là khác về cách phân loại
người bị bắt và người bị giữ.
Ngoài ra, theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015,
người bị tạm giữ còn được định nghĩa là người đang bị quản lý tại cơ sở giam
giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS
(khoản 1, Điều 3).
Tuy nhiên, các khái niệm nêu trên về người bị tạm giữ cũng chỉ được
định nghĩa theo phương pháp liệt kê, chưa có định nghĩa khoa học mang đầy
đủ nội hàm vấn đề. Cụ thể là: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự là người
bị tình nghi là tội phạm và với họ cần cách ly với xã hội trong một thời gian
cần thiết nhằm ngăn chặn việc họ tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác
định sự liên quan của người đó đối với tội phạm.
- Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng lần đầu tiên trong Sắc lệnh số
13 ngày 21/0/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán. Tuy nhiên trong
Sắc lệnh chỉ đề cập đến bị can như là can phạm hay người bị Tòa án xét xử
chứ không hề định nghĩa rõ ràng người như thế nào thì được gọi là bị can.
Phải đến khi BLTTHS năm 1988 ra đời, thuật ngữ pháp lý về bị can mới
chính thức được ghi nhận. Theo quy định của BLTTHS năm 1988: “Bị can là
người đã bị khởi tố về hình sự” [34, Điều 34]. Kế thừa BLTTHS năm 1988,
BLTTHS năm 2003 tiếp tục ghi nhận: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự” [36, Điều 49].
Khái niệm bị can trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới so với các Bộ
luật trước đây, đó là việc ghi nhận bị can là pháp nhân như sau: “Bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là
14
pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật này” [38, Điều 60]. Như vậy là theo những
định nghĩa này của Bộ luật thì một pháp nhân có thể bị khởi tố về hình sự khi
có đủ căn cứ xác định pháp nhân đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Một người
được coi là bị can khi và chỉ khi người đó bị khởi tố hình sự.
- Bị cáo: Thuật ngữ bị cáo là thuật ngữ đã xuất hiện từ rất lâu, ngay từ
khi nhà nước CHXHCN Việt Nam ra đời. Trong Sắc lệnh số 33C do Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày 13/9/1945 đã
chính thức đề cập tới thuật ngữ bị cáo, theo đó tại Điều V quy định: “Bị cáo
có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”. Tuy nhiên phải
đến năm 1974 trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự
kèm theo Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao mới đưa
ra định nghĩa pháp lý về bị cáo: “Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự trước tòa án nhân dân”. Sau đó, trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS
năm 2003 định nghĩa bị cáo đã được ghi nhận, theo đó cả hai bộ luật đều định
nghĩa “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
Tại BLTTHS năm 2015, tương tự như thuật ngữ bị can, với việc bổ
sung thêm trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nên khái niệm bị cáo được
điều chỉnh như sau: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện
thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ
luật này” [38, Điều 61].
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể đi đến khái niệm:
Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn
cứ nghi ngờ họ thực hiện hành vi phạm tội và với họ đã bị bắt, tạm giữ, khởi
tố bị can hoặc bị Toà án đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội là tổng hợp các quyền
15
và nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được Nhà nước
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là các việc mà người bị buộc tội
phải làm hoặc được làm và những việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải
làm với họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc
tội trong tố tụng hình sự bắt nguồn từ việc bảo đảm thực hiện quyền con
người. Hiện nay, quyền con người là một trong những vấn đề được quốc tế
quan tâm và bảo vệ. Trong mỗi quốc gia, quyền con người lại có những giới
hạn và được bảo đảm theo những cách khác nhau. Trong nhà nước CHXHCN
Việt Nam, quyền con người luôn được nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Không
những vậy, không chỉ quyền con người, nhà nước ta đã và đang hoàn thiện
quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Quyền và
nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng được quy
định dựa trên những cơ sở của Hiến pháp và pháp luật về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn dựa
trên những quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người đã được cả thế giới công
nhận. Đó là sự tự do, sự công bằng, sự bình đẳng cho tất cả mọi người, ai
cũng có quyền được đối xử trong tình bằng hữu như tại Điều 1, Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra tự do và
bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với
nhau trong tình bác ái”.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn có cơ
16
sở là các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như: bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự; bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân; Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự; tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của
Tòa án; bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự; bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Cuối cùng việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc
tội còn bắt nguồn từ yêu cầu trong hoạt động tố tụng hình sự, phải có sự quy
định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội để làm cơ sở bảo vệ
quyền của người bị buộc tội, tránh sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng thời việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ
của người bị buộc tội sẽ làm căn cứ để công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử được thuận lợi, kịp thời xử lý mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Ý nghĩa về mặt lý luận: Chế định người bị buộc tội là chế định xuyên
suốt toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, chính vì vậy, việc quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận
bởi nó sẽ làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
những người này. Từ đó có thể đánh giá, nhìn nhận những điểm tích cực,
những hạn chế của các quy định pháp luật. Căn cứ vào những đánh giá, nhìn
17
nhận đó, các nhà làm luật có thể tìm ra các biện pháp để hoàn thiện pháp luật,
áp dụng pháp luật, đảm bảo tính ứng dụng trong thực tiễn của pháp luật.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi
trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc
khi quyền của những người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
được bảo đảm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà
còn gây ra tâm lý không tin tưởng vào pháp luật của người dân.
Thêm vào đó, việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế còn là việc đảm bảo cam kết về thực
thi quyền con người theo các Điều ước Quốc tế hiện nay.
Không chỉ có vậy, việc xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội còn tránh sự xâm hại từ phía các cơ quan tố tụng, góp phần định
hướng và chỉ đạo cho những người thực thi pháp luật, tránh những sai sót, vi
phạm quyền con người, đảm bảo sự khách quan, thận trọng trong việc nhận
thức vụ án hình sự một cách khoa học, không làm oan người vô tội, không
làm bỏ lọt tội phạm.
Ngoài ra việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
còn có ý nghĩa trong ngăn chặn kịp thời tội phạm, phòng ngừa tội phạm. Đây
là một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự, bởi vì người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy chưa bị coi là có tội nhưng họ có thể là
người đã thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có những biện pháp ngăn
chặn thì rất có thể hậu quả tiêu cực cho xã hội vẫn sẽ tiếp tục tiếp diễn. Việc
ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm còn có ý nghĩa tạo lòng tin trong nhân dân
về một Nhà nước pháp quyền, nơi pháp luật luôn tồn tại và công minh.
Ý nghĩa chính trị xã hội: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa trong việc bảo đảm
18
quyền con người. Quyền con người được thể hiện chủ yếu thông qua việc nhà
nước quy định các quyền này trong Hiến pháp và pháp luật, vì vậy, hoạt động
lập pháp của Nhà nước có tính quyết định trong việc bảo đảm thực hiện quyền
con người. Nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nơi mà quyền con người dễ
bị xâm phạm nhất, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội có
ý nghĩa vô cùng quan trong bởi quy định quyền của người bị buộc tội cũng
chính là quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, tạo ra sự bình đẳng trong quá trình tố tụng.
Ý nghĩa pháp lý: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự là cơ sở cho hoạt động tố tụng đúng pháp
luật; đảm bảo hoạt động tố tụng nhanh chóng, khách quan. Quy định các thủ
tục tố tụng hình sự không chỉ để xác định chính xác, khách quan sự thật vụ án,
mà còn đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền,
cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ. Việc quy
định đầy đủ, chặt chẽ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội sẽ
hạn chế đến mức thấp nhất việc lạm dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với người bị buộc tội.
1.2. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong Luật
pháp quốc tế
Luật pháp quốc tế cũng có những chuẩn mực cơ bản liên quan đến
quyền của người bị buộc tội. Đó là: Quyền tự do và an toàn cá nhân, không
bị bắt, giam, giữ trái pháp luật, không bị tra tấn, dùng nhục hình trong tố
tụng hình sự; Quyền được thông báo kịp thời lý do bị buộc tội và chứng cứ
chống lại họ bằng ngôn ngữ mà họ biết; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa; Quyền thu thập chứng cứ, quyền kiểm tra chứng cứ và đối
chất với nhân chứng chống lại mình; Quyền được có người phiên dịch miễn
phí v.v “Về cơ bản, các quyền này được ghi nhận trong Công ước quốc tế
19
về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR - Việt Nam là thành viên từ
năm 1982), trong các Bình luận chung của cơ quan giám sát Công ước này,
cũng như trong một số hướng dẫn, nguyên tắc đã được cộng đồng quốc tế
thừa nhận liên quan” [9, tr.69]. Có thể chia những quyền này thành hai nhóm
chính: những quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm và quyền được
đối xử công bằng.
Thứ nhất, quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị
tước tự do. Các quyền cơ bản của người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện khác như “Tập hợp các nguyên
tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào”
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày
9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc
về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990 Về cơ bản, những
người bị tước tự do được bảo đảm các quyền sau đây:
a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Quyền này đầu tiên được đề cập trong Điều 5
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR), trong đó nêu rằng, không ai bị tra
tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
Điều 7 ICCPR cụ thể hóa, trong đó nêu rõ, không ai có thể bị tra tấn, đối xử
hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể
bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự
nguyện của người đó.
b) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện. Quyền này đầu
tiên được quy định trong Điều 9 UDHR, trong đó nêu rằng, không ai bị bắt,
giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện.
20
c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do. Quyền này được quy định trong Điều 10 ICCPR. Theo
Điều này, những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn
trọng nhân phẩm vốn có của con người. Khoản 2 Điều này quy định trừ
những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với
những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với
quy chế dành cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên
phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng
sớm càng tốt.
d) Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài;
e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu.
Thứ hai, quyền được xét xử công bằng. Quyền được xét xử công bằng
là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong
vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà án), được
pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể
(như được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi
toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công
bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân. Nội dung cơ
bản của quyền được xét xử công bằng là: Quyền bình đẳng trước tòa án và
được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền được suy
đoán vô tội; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người
chưa thành niên; Quyền kháng cáo và một số quyền khác.
Việt Nam đã là thành viên của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự
và Chính trị từ năm 1982, dù luật tố tụng hình sự của chúng ta còn nhiều vấn
đề cần thay đổi. Một trong ba định hướng cơ bản của hoàn thiện pháp luật
TTHS nước ta đã được khẳng định là “tuân thủ tuyệt đối các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã là thành viên”. Việc Hiến pháp 2013 được ban hành với
21
nhiều điểm mới trong việc bảo vệ quyền con người cũng đã khẳng định nội
dung trên. Việc đưa ra các quyền của người bị buộc tội trong luật pháp quốc
tế ở trên cũng nhằm để pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam cần nghiêm
túc xem xét, học hỏi và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng tố tụng ngang
tầm với các nước không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn thế giới.
1.3. Sơ lược quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong giai
đoạn 1945 – 1988
Từ sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến trước
năm 1988, hệ thống pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam được điều chỉnh chủ
yếu bằng các sắc lệnh, nghị định, thông tư hoặc các bản hướng dẫn của
TAND tối cao. Việc quy định như vậy không tạo thành một hệ thống thống
nhất mà mỗi văn bản lại điều chỉnh một khía cạnh khác nhau của tố tụng hình
sự. Chính bởi vậy, thời kỳ này không có một BLTTHS riêng biệt quy định
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội mà các quy định này nằm rải rác ở
rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Trong suốt thời gian dài trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành,
các thuật ngữ có liên quan đến người bị buộc tội như bị can, bị cáo đã được sử
dụng nhiều trong các văn bản, các sắc lệnh. Tuy nhiên, chỉ có thuật ngữ bị cáo
được định nghĩa chính thức. Các văn bản thời kỳ này phần lớn không phân
biệt bị can, bị cáo và dùng lẫn lộn nhau, vì vậy pháp luật tố tụng hình sự thời
kỳ 1945 – 1988 không có thuật ngữ người bị buộc tội một cách rõ ràng.
Tuy còn có sự lẫn lộn trong thuật ngữ, không rành mạch trong cách quy
định nhưng nhìn chung, vẫn có những điều khoản bảo vệ quyền và nghĩa vụ
của người bị buộc tội. Như Sắc lệnh số 33C do Chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày 13/9/1945, tại Điều V đã quy
22
định:“Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho”. Việc
quy định quyền bào chữa của bị cáo trong những văn bản đầu tiên khi thành
lập đất nước có giá trị rất lớn bởi nó không chỉ là quyền cơ bản của bị cáo mà
nó còn khẳng định sự quan tâm của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền
của người bị buộc tội, khẳng định tư tưởng lập pháp tiến bộ, dân chủ của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quy định trên chính là tiền đề để bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam ra đời năm 1946 đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo
được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”[31, Điều 67]. Bản hiến pháp
này cũng ghi nhận quyền “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi
những bị cáo và tội nhân” [31, Điều 68]. Trong các bản hiến pháp sau đó là
Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 cũng tiếp tục ghi nhận quyền
này của người bị cáo.
Ngoài quyền bào chữa là quyền quan trọng và được đề cập nhiều nhất, bị
can, bị cáo còn có quyền kháng án lên Tòa cấp cao hơn, điều này được quy
định tại Sắc lệnh 13 do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng
hòa ban hành ngày 24/01/1946 tại Điều thứ 34: “Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông
Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm.”.
Thêm vào đó, tại phiên toà, bị cáo được trình bày ý kiến, quyền bào chữa:
Sau khi nghe các bị can, các người chứng, cáo trạng của ông
Chưởng lý, và sau cùng, nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai
Hội thẩm và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử đề cùng
quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường
hợp tăng tội và trường hợp giảm tội (Điều thứ 31).
Các văn bản quy định về trình tự, thủ tục phiên toà cũng tiếp tục ghi
nhận quyền này của bị cáo.
Ngoài ra tại phiên toà, bị can còn có quyền đề xuất lời thỉnh cầu, nói lời
23
sau cùng, được giải thích quyền và nghĩa vụ, được quyền chống án. Điều này
thể hiện lần đầu tiên tại mục II, Thông tư số 2225/HCTP ngày 21/10/1956 của
Bộ Tư pháp về việc chấn chỉnh thực hiền quyền bào chữa của bị can:
Nói chung người bị can có quyền tham gia tất cả quá trình
điều tra xét xử. Cụ thể là: - Bị can có quyền trình bày lời lẽ bào chữa,
khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin mời người làm chứng mới, mời
người giám định v.v; - Bị can được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu
nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh cầu nào của người khác trong
quá trình vụ án; - Bị can lại có quyền trình bày viết những lời thanh
minh và những điều chỉnh thỉnh cầu của mình. - Bị can phải được
biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một thời gian
cần thiết để bị can có đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên
tòa.- Trong phiên tòa, bị can được viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ
để chứng minh rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình
huống giảm nhẹ tội mà không bị ai cản trở. - Sau khi cuộc thẩm vấn
kết thúc, bị can được nói lời cuối cùng. Bị can có quyền chống án
trong thời hạn luật địn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008261_9449_2002952.pdf