LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN .ii
MỤC LỤC. 1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT. 3
DANH MỤC CÁC BẢNG . 4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ. 5
MỞ ĐẦU. 7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN. 9
1.1: TỔNG QUAN VỀ AFLATOXIN. 9
1.1.1: Khái niệm các loại aflatoxin . 9
1.1.1.1: Khái niệm aflatoxin . 9
1.1.1.2: Lịch sử phát hiện aflatoxin . 9
1.1.1.3: Điều kiện gây nhiễm bẩn của aflatoxin . 10
1.1.1.4: Các dạng aflatoxin và chuyển hóa của chúng . 12
1.1.2: Cấu tạo hóa học và tính chất của aflatoxin B1. 13
1.1.2.1: Cấu tạo hóa học của aflatoxin B1. 13
1.1.2.2: Tính chất của aflatoxin B1 . 14
1.1.3: Độc tính và cơ chế gây bệnh của aflatoxin B1. 15
1.1.3.1: Độc tính của aflatoxinB1. 15
1.1.3.2: Cơ chế gây bệnh của aflatoxin B1. 15
1.2: CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN AFLATOXIN . 17
1.2.1: Phương pháp sử dụng kít thử nhanh độc tố nấm mốc aflatoxin. 17
1.2.2: Phương pháp sử dụng sắc ký kết hợp phổ khối. 17
1.2.2.1: Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Thin layer chromatography –
TLC). 17
1.2.2.2: Phương pháp sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao (high ferformane
thin layer chromatography – HPTLC). 18
55 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sử dụng phương pháp quang phổ phát hiện độc tố aflatoxin trong thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất (chiếm khoảng 17% lượng aflatoxin của cơ thể) tiếp theo là ở thận,
cơ, mô mỡ, tụy, lách... Trong vòng 24 giờ có khoảng 80% bị đào thải theo
đường tiêu hóa qua mật, đường tiết niệu qua thận và đáng chú ý nó còn bài
tiết qua tuyến sữa gây bệnh cho thai nhi đang bú sữa mẹ.
Cho đến nay, các luận chứng khoa học công nhận khả năng tác động
lên tế bào gan của aflatoxin qua 5 giai đoạn sau:
- Ức chế các men polymerase mà chúng có vai trò tổng hợp DNA và
RNA.
- Làm chậm hoặc ngừng hẳn sự tổng hợp DNA.
- Ngăn cản cơ chế sinh tổng hợp RNA truyền tin.
- Biến đổi hình dạng nhân tế bào.
- Hạn chế quá trình sinh tổng hợp protein.
Hậu quả là gây ung thư biểu mô tế bào gan.
Như vậy, aflatoxin có khả năng gây độc cấp tính và mãn tính ở người
và động vật, nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất là khả năng gây ung thư
gan và xơ gan.
Do vậy vấn đề bảo quản lương thực thực phẩm, an toàn lương thực
thực phẩm, không sử dụng các thực phẩm đã bị hỏng, bị nấm mốc là một vấn
đề hết sức quan trọng có ý nghĩa trong việc hạn chế tần suất xuất hiện bệnh
ung thư gan nguyên phát.
17
1.2: CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN AFLATOXIN
1.2.1: Phương pháp sử dụng kít thử nhanh độc tố nấm mốc
aflatoxin
Cơ sở để kiểm tra là dựa trên sự miễn dịch trên que thử. Trên que thử có
chứa kháng nguyên- kháng thể (Enzyme-Linked Immunosorbent Assay)
(ELISA) [19]. Kháng thể đặc hiệu chống lại độc tố aflatoxin và nhận ra
aflatoxin trong các phân tử trong mẫu. Kết quả được đánh giá và đọc nhanh
bằng hiển thị màu sắc trên kit thử. Phương pháp này đơn giản dễ sử dụng, tuy
nhiên độ nhạy còn hạn chế và thường phải kết hợp với các phương pháp khác
để phân tích.
1.2.2: Phương pháp sử dụng sắc ký kết hợp phổ khối
Đây là phương pháp có độ chính xác rất cao cho phép phân tích rất
nhiều chất [17], [23], [25]. Các phương pháp như sắc ký khí, sắc ký lỏng, sắc
ký lỏng hiệu năng cao kết hợp phổ khối đều đáp ứng được yêu cầu và được
các cơ quan thẩm quyền của các nước nhập khẩu chấp nhận. Tuy nhiên những
phương pháp này đòi hỏi đầu tư, chi phí cao về thiết bị, chi phí vận hành, kỹ
năng và trình độ của kỹ thuật viên. Do vậy nó không phù hợp cho các phòng
kiểm nghiệm qui mô nhỏ hay những phòng kiểm nghiệm của địa phương.
1.2.2.1: Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Thin layer chromatography –
TLC)
Phương pháp sắc ký lớp mỏng được sử dụng rộng rãi để xác định hàm
lượng aflatoxin đầu tiên vào những năm 1960. Là một kỹ thuật sắc ký được
dùng để tách các chất trong hỗn hợp. Phương pháp sắc ký lớp mỏng bao gồm
pha tĩnh là một lớp mỏng các chất hấp thụ, thường là silicagel, aluminium
oxide được phủ trên một mặt phẳng chất trơ. Pha động bao gồm dung dịch
cần phân tích được hòa tan trong dung môi thích hợp và được hút lên bản sắc
ký bởi mao dẫn, tách dung dịch thí nghiệm dựa trên tính phân cực của các
thành phần trong dung dịch. Dung môi sử dụng cho dung dịch chạy bản mỏng
là cloroform: methnol và clroform: aceton. Việc thêm nước vào hệ thống
dung môi sẽ làm tăng khả năng hòa tan aflatoxin.
18
Một vệt nhỏ dung dịch chứa mẫu thử được thấm lên bản sắc ký, khoảng
1cm từ dưới lên. Bản sắc ký sau đó được nhúng vào một dung môi thích hợp,
như methanol hoặc nước, và được đặt vào một vật chứa có nắp. Dung môi di
chuyển lên bản sắc ký bởi mao dẫn, gặp phải mẫu thử và dịch chuyển mẫu thử
lên bản sắc ký. Các hợp chất khác nhau trong hỗn hợp mẫu thử dịch chuyển
với tốc độ khác nhau do chúng có sức hút khác nhau đối với pha tĩnh và độ
tan khác nhau trong dung môi. Các hợp chất được tách ra dựa trên sự cạnh
tranh của chất tan và pha động để có chỗ liên kết với pha tĩnh.
Nhược điểm của phương pháp là phụ thuộc vào người phân tích. Khi
làm sắc ký một số hợp chất có thể tương tự aflatoxin.
1.2.2.2: Phương pháp sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao (high ferformane
thin layer chromatography – HPTLC)
Do những khuyết điểm trong phương pháp sắc ký lớp mỏng đơn thuần
ở các khâu như chiết tách mẫu phân tích, chạy mẫu trong dung môi. Phương
pháp HPTLC có tính thuyết phục cao hơn ở 3 khía cạnh sau: Đưa mẫu lên bản
mỏng một các tự động, cải thiện được sự đồng nhất cả lớp hấp thụ, chạy ban
mỏng trong dung môi có kiểm soát.
Quá trình đưa mẫu vào bản mỏng được tự động hóa, do đó các vết được
định đúng vị trí và đo lường độ huỳnh quang của vết cũng bằng máy
densitimetess.
Thể tích mẫu được dùng trong HPTLC có thể bằng 1 l (so với 5 – 10
l mẫu trong phương pháp TLC) như vậy sẽ làm giảm đi rất nhiều diện tích
của vết (1mm). Nồng độ chất chuẩn có thể cần 5pg trong phân tích bằng
HPTLC, do đó có thể xácđịnh tới 30pg aflatoxin.
Sử dụng kỹ thuật HPTLC làm tăng tính thuyết phục của phương pháp
TLC như một phương pháp định lượng aflatoxin có hiệu quả nhất.
19
1.2.2.3: Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (high ferformane
liquid chromatography – HPLC)
Hệ thống phân tích high ferformane tự động HPLC là hệ thống phân
tích đắt tiền, chọn lọc dùng định lượng aflatoxin. Phương pháp HPLC sử dụng
cả hai pha: Pha bình thường và pha phản.
Hệ thống này dựa trên sự hấp thụ tia tím (uv) và xác định cường độ
huỳnh quang.
Mẫu phân tích được tách bằng chloroform: Nước. Ly tâm chất tác dụng
làm sạch qua silicagel pha bình thường sử dụng cột nhối silicagel 0,5 m và
pha động sử dụng benzen: acetonitrit: acid formic. Giới hạn xác định là 0,5
kgm / .
Husst (1984) đã sử dụng pha phản kết hợp với TFA đồng phân để xác
định được các aflatoxin B1, B2,G1, G2 ở nồng độ 5pg.
Davis (1980) cũng sử dụng pha phản để xác định huỳnh quang của
đồng phân iot của aflatoxin B1. Kết quả dẫn đến việc phát triển phương pháp
đồng phân cột.
1.3: PHƯƠNG PHÁP QUANG PHỔ PHÁT HIỆN AFLATOXIN
Là phương pháp dựa trên đặc trưng vật lý của Aflatoxin như phổ hấp
thụ, huỳnh quang, hấp thụ hồng ngoại [9], [10], [13], [15]. Phương pháp này
cho phép phát hiện nồng độ tương đối cao, có thể tới ppM, trong khi đó vận
hành lại tương đối đơn giản và thời gian thực hiện nhanh. Gần đây phương
pháp truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang (FRET) được sử dụng
nhiều để xác định các độc tố có hàm lượng thấp bằng cách đưa vào mẫu thử
chất huỳnh quang tương thích với chất cần phát hiện. Khi có mặt của chất
độc, tính chất huỳnh quang sẽ thay đổi. Dựa vào sự thay đổi này người ta sẽ
xác định được hàm lượng chất cần phát hiện.
20
1.3.1: Khái niệm hiện tượng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh
quang (FRET)
Hiệu ứng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang (Fluorescence
Resonance Energy Transfer - FRET ) là một cơ chế truyền năng lượng xảy ra
ở cấp độ nano thông qua tương tác lưỡng cực – lưỡng cực, đây là một hiện
tượng vật lý quan trọng với nhiều lĩnh vực tiềm năng như lĩnh vực quang điện
tử và rất nhiều lĩnh vực khác. FRET được đưa ra từ thập kỷ 50 của thế kỷ
trước, hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực đặc biết
trong nghiên cứu y sinh học [4], [15]. FRET là hiệu ứng phụ thuộc vào
khoảng cách truyền năng lượng từ một chất cho huỳnh quang (donor) tới một
chất nhận huỳnh quang (acceptor) phù hợp, là một trong số ít các công cụ có
sẵn để đo khoảng cách nanomet và xác định những thay đổi trong khoảng
cách cả trong in vitro lẫn trong cơ thể. Do có độ nhạy với khoảng cách cao,
nên hiệu ứng FRET đã được sử dụng để nghiên cứu động học, tương tác
nguyên tử. [3], [20], [24].
Cơ chế truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang liên quan đến các
chất phát huỳnh quang mà ở đây là điện tử ở trạng thái kích thích (donor),
một phân tử huỳnh quang có thể truyền năng lượng kích thích của nó cho một
phân tử huỳnh quang khác (acceptor) không phát xạ gần đó thông qua các
tương tác lưỡng cực – lưỡng cực tầm xa. Lý thuyết truyền năng lượng được
dựa trên khái niệm về một chất huỳnh quang kích thích như một dao động
lưỡng cực có thể trải qua sự trao đổi năng lượng với một lưỡng cực thứ hai có
tần số cộng hưởng tương tự. Vấn đề này, truyền năng lượng cộng hưởng
tương tự như sự dao động cùng tần số. Ngược lại, năng lượng bức xạ yêu cầu
phát xạ và tái hấp thụ một photon phụ thuộc vào kích thước vật lý và tính chất
quang học của donor – acceptor, cũng như hình dạng của bề mặt và khoảng
cách của donor – acceptor. Không giống như các cơ chế bức xạ, truyền năng
lượng cộng hưởng có thể mang lại một lượng đáng kể thông tin về cấu trúc
liên quan đến các phân tử donor – acceptor [5], [20], [24].
Một cặp phân tử tương tác với nhau thông qua hiệu ứng FRET được gọi
là một cặp donor – acceptor. Hiện tượng FRET không qua trung gian là quá
21
trình phát xạ photon. Ngoài ra, nó thậm chí không yêu cầu chất màu nhận
được phát huỳnh quang. Mặc dù trong hầu hết các ứng dụng, các donor và
acceptor đều có khả năng phát huỳnh quang [3], [14].
Một cặp nguyên tử tạo ra một điện trường do sự tương tác lưỡng cực.
Đầu tiên phân tử donor hấp thụ ánh sáng kích, các điện tử chuyển từ trạng thái
cơ bản lên trạng thái kích thích. Nếu không có mặt của phân tử acceptor, phân
tử donor có thể phát huỳnh quang và quay trở lại trạng thái cơ bản. Khi có
mặt phân tử acceptor một phần năng lượng ở trạng thái kích thích được truyền
cho lượng cho phân tử acceptor gần nhất có trạng thái năng lượng kích thích
thấp nhất qua sự trao đổi của một photon ảo. Phân tử donor trở về trạng thái
cơ bản còn phân tử acceptor chuyển lên trạng thái kích thích [19], [22], [24].
Như vậy phân tử acceptor được kích thích nhờ vào quá trình gián tiếp
nhận photon ảo, mặt khác đây cũng là hiện tượng xảy ra rất tự nhiên [5].
FRET là một hiện tượng tự nhiên đầy lý thú bởi vì nó không phụ thuộc vào sự
tiếp xúc vật lý cũng như truyền điện tử.
Hình 1.6. Mô hình hiệu ứng FRET
r
FRET
Hấp thụ chấp nhận
Donor Accepter
Huỳnh quang chất cho
Phát xạ
Hấp thụ
22
1.3.2. Cơ sở lý thuyết của hiệu ứng FRET [5], [24]
Khi cặp phân tử donor – acceptor thỏa mãn các điều kiện để xảy ra
FRET, cơ chế truyền năng lượng được minh họa bởi giản đồ năng lượng
Jablonski (Hình 1.7). Khi mẫu được kích thích các điện tử của donor chuyển
từ trạng thái cơ bản trong vùng hóa trị lên trạng thích kích thích trong vùng
dẫn. Tại đây, các điện tử sẽ hồi phục xuống trạng thái năng lượng thấp hơn
trong vùng dẫn (thời gian hồi phục trong khoảng từ pico giây tới femto giây),
thường khi hồi phục xuống trạng thái cơ bản trong vùng hóa trị và phát ra
huỳnh quang. Một phần năng lượng kích thích sẽ truyền cho phân tử acceptor
(không phát xạ) làm cho phân tử acceptor bị kích thích. Điện tử kích thích của
phân tử acceptor cũng hồi phục và tái hợp với lỗ trống trong vùng hóa trị và
phát ra huỳnh quang của acceptor.
Hình 1.7. Giản đồ Jablonski mô tả hiệu ứng FRET
Quá trình truyền năng lượng FRET làm giảm huỳnh quang của donor
(dập tắt) và tăng cường độ huỳnh quang acceptor đồng thời giảm thời gian
sống huỳnh quang donor [24].
23
D + h → D*+
D* + A → D +A*
A* → A + h’
D: donor; A: acceptor; Dấu “*” kí hiệu trạng thái kích thích
Một số điều kiện cần phải được thỏa mãn để cho FRET xảy ra đó là:
- Phổ phát xạ huỳnh quang của các phân tử donor phải chồng lên phổ
hấp thụ hoặc kích thích của chất màu nhận. Mức độ chồng chập lên nhau
được gọi là phổ chồng lên nhau tích hợp (J).
- Donor phải có cường độ huỳnh quang mạnh.
- Hai chất này (donor và acceptor) phải ở khoảng cách gần nhau
(thường 1 đến 10 nanomet).
- Các lưỡng cực điện (dipole) của các donor và acceptor phải gần như
song song với nhau.
- Thời gian sống huỳnh quang của các phân tử donor phải có khoảng
thời gian đủ để cho hiệu ứng FRET xảy ra.
Hình 1.8. Phổ hấp thụ và phổ huỳnh quang của một cặp chất Donor và
Acceptor
24
Hình1.8 mô tả phổ hấp thụ và phổ huỳnh quang của một cặp chất donor
và acceptor. Khu vực màu đậm là sự chồng quang phổ giữa quang phổ huỳnh
quang của các donor và phổ hấp thụ của acceptor [24].
Hiệu suất truyền năng lượng FRET tỉ lệ với nghịch đảo mũ 6 khoảng
cách donor – acceptor
)/( 660
6
0 rRREFRET (1.1)
Trong đó 0R là bán kính Förster – là khoảng cách mà ở đó năng lượng
truyền được 50%.
Hình 1.9. Hiệu suất truyền năng lượng FRET được vẽ như hàm khoảng
cách cặp donor – acceptor, khoảng cách 0R là khoảng cách mà hiệu suất
truyền bằng 50%
6/1420 2108,0 JnKR D (1.2)
Bán kính Förster 0R phụ thuộc vào hiệu suất lượng tử huỳnh quang của
donor ( D ) khi không có mặt acceptor (fd), chiết suất của dung môi ( n ), góc
định hướng lưỡng cực của phân tử ( 2K ) và sự chồng chập phổ của donor –
acceptor (J)
a
AD dFJ
0
4 (1.3)
25
Hiệu suất truyền năng lượng cũng có thể xác định thông qua cường độ
huỳnh quang theo biểu thức:
D
DA
F
F
E 1 (1.4)
Trong đó DF là cường độ huỳnh quang của donor; DAF cường độ huỳnh
quang của donor khi có mặt acceptor
Hiệu suất truyền năng lượng cũng có thể xác định thông qua thời gian
sống huỳnh quang theo biểu thức
D
DAE
1 (1.5)
Trong đó DA là thời gian sống huỳnh quang của donor khi có mặt
acceptor; D là là thời gian sống huỳnh quang của donor khi không có mặt
acceptor.
Tóm lại, tỷ lệ FRET phụ thuộc vào mức độ chồng chập quang phổ giữa
các cặp donnor – acceptor (hình 1.8), hiệu suất lượng tử của các chất cho,
định hướng tương đối của các donor– acceptor, những khoảng cách chuyển
tiếp lưỡng cực và khoảng cách từ các donor tới acceptor. Bất kỳ quá trình nào
có ảnh hưởng đến khoảng cách giữa các cặp chất donor – acceptor cũng sẽ
ảnh hưởng đến hiệu suất của FRET.
Phát hiện hiệu ứng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang
(FRET):
Việc phát hiện và định lượng hiệu ứng FRET có thể được thực hiện
trong một số cách khác nhau. Đơn giản chỉ cần hiện tượng này có thể được
quan sát bởi một mẫu vật có chứa cả các donor và các phân tử acceptor khi đó
sẽ quan sát được sự thay đổi cường độ huỳnh quang cũng như thời gian sống
huỳnh quang của donor và acceptor, khi xác định tỷ lệ số liệu của hai tín hiệu
cường độ huỳnh quang hay thời gian sống huỳnh quang có thể phát hiện được
hiệu ứng FRET có xảy ra hay không [5].
Ưu điểm của phương pháp này là một thước đo của sự tương tác có thể
được thực hiện là độc lập với nồng độ tuyệt đối của cảm biến. Bởi vì không
phải tất cả các gốc acceptor đều phát huỳnh quang, nên chúng có thể được sử
dụng như một phương tiện để dập tắt huỳnh quang. Trong trường hợp này,
26
những tương tác mà kết quả trong một phân tử các chất huỳnh quang cho đến
gần phân tử như vậy sẽ dẫn đến một sự mất mát tín hiệu.
Hình 1.10. Quang phổ huỳnh quang của donor và acceptor và dung
dịch hỗn hợp của donor và acceptor
Trong hình 1.10, huỳnh quang của acceptor tăng gần sáu lần khi có sự
hiện diện của chất cho. Trong trường hợp, như huỳnh quang các donor trở
thành 1/3 huỳnh quang các chất cho. Sự thay đổi cường độ huỳnh quang là
bằng chứng hình ảnh rõ ràng của FRET. Các quang phổ huỳnh quang đã được
ghi nhận là sự phát huỳnh quang của donor và accepter. Đây là hiệu ứng
FRET sử dụng các chất 3 – octadecyl – 2[3 – octadecyl – 2(3H) –
benzothizolidene)metyl] benzoth) metyl] benzothiazolium perchlorate (chất
cho), Octadecyl rhodamine B (acceptor).
27
CHƯƠNG 2: KỸ THUẬT THỰC NGHIỆM
2.1: CHUẨN BỊ MẪU
2.1.1: Aflatoxin B1
Aflatoxin sử dụng để xác định đường chuẩn đo tương tác truyền năng
lượng cộng hưởng huỳnh quang là Aflatoxin B1, Sigma Aldrich, độ tinh khiết
98.5%. Aflatoxin B1 được pha trong dung môi methanol với nồng độ 20g/ml
sau đó pha trộn với chấm lượng tử CdSe/ZnS với tỉ lệ như trong bảng 2.1.
2.1.2: Chấm lượng tử bán dẫn CdSe/ ZnS
Chấm lượng tử sử dụng trong phép đo truyền năng lượng cộng hưởng
huỳnh quang là chấm lượng tử cấu trúc lõi vỏ CdSe/ZnS có đỉnh huỳnh quang
tại 545 nm và hấp thụ mạnh vùng tử ngoại tới 520nm. Chấm lượng tử được
tổng hợp bằng phương pháp phản ứng hấp thụ từng lớp ion (Successive ionic
layer adsorption and reaction - SILAR).
Bảng 2.1. Chuẩn bị mẫu Aflatoxin B1- CdSe/ZnS
Tên mẫu M0 M1 M2 M3 M4 M5 M6
CdSe/ZnS
(l)
0 1000 1500 1900 1950 1990 2000
Aflatoxin
(l)
2000 1000 500 100 50 10 0
Aflatoxin trong thực tế được chiết suất từ ngô bằng cách lấy 25 g ngô
xay đồng nhất, chính xác đến 0,01 g, cho vào bình nón 250 ml. Thêm 5 g natri
clorid và 125 mL hỗn hợp methanol: nước (70:30, v/v) và đồng nhất bằng máy
trộn trong 2 phút ở tốc độ cao. Lọc hỗn hợp qua giấy lọc.
Dùng pipet lấy 15 ml dịch lọc cho vào bình nón 100 ml có nắp đậy thủy
tinh. Thêm 30 ml nước, đậy nắp bình và trộn. Lọc dịch chiết đã pha loãng
28
được lọc nhiều lần qua giấy lọc (có thể dùng ly tâm) để thu được dung dịch
trong.
Dùng pipet lấy 15 ml của dịch lọc cho vào phễu gắn với cột IAC
(Vicam Aflatest P 1 ml). Cho đi qua cột tách với tốc độ 1-2 giọt/giây. Rửa tạp
bằng 10 ml nước, tốc độ 1-2 giọt/giây. Rửa giải các Aflatoxin B1 bằng 1 ml
methanol.
Các mẫu aflatoxin trong ngô được chuẩn bị tại Viện Vệ sinh an toàn
thực phẩm với 4 nồng độ khác nhau xác định bằng phương pháp sắc ký lỏng
hiệu năng cao và không cho biết trước để so sánh với phương pháp FRET
Mẫu sau khi chuẩn bị được đo phổ hấp thụ trên thiết bị Shimazu
UV2600 (Shimazu), phổ huỳnh quang trên hệ phổ kế huỳnh quang Cary
Eclipse (Variant) và phổ huỳnh quang phân giải thời gian trên cở sở đếm đơn
photon tương quan thời gian (TCSPC) và được xử lý bằng phần mềm tính toán
chuyên dụng viết trên Matlab, OriginLab.
2.2. PHỔ HẤP THỤ UV – VIS
Phổ hấp thụ là một công cụ hữu ích trong việc nghiên cứu sự tương tác
của vật liệu với ánh sáng chiếu vào, qua đó, có thể biết được thông tin về các
quá trình hấp thụ xảy ra tương ứng với các chuyển dời quang học từ một số
trạng thái cơ bản in đến một số trạng thái kích thích jn , từ đó có thể xác định
được bước sóng kích thích hiệu quả cho quá trình quang huỳnh quang ( ij )
quan tâm . Môi trường vật chất hấp thụ ánh sáng tuân theo định luật Beer–
Lambert:
deII 0 (2.1)
trong đó: 0I và I là cường độ ánh sáng tới và cường độ truyền qua
mẫu vật chất, d là độ dày của mẫu và là hệ số hấp thụ vật liệu đối với
photon có năng lượng h (hay /hc , với c là vận tốc ánh sáng).
Muốn xác định hệ số hấp thụ , người ta lấy ln hai vế (2.1), được:
ddII /ln 0 (2.2)
29
Phổ hấp thụ biểu diễn đồ thị hệ số hấp thụ (hay độ hấp thụ A) theo
bước sóng hay năng lượng của photon đi qua vật chất. Như vậy, hệ số hấp thụ
lớn tại một bước sóng nào đó cho thấy photon có năng lượng tương ứng bị vật
chất hấp thụ mạnh, phần ánh sáng truyền qua có cường độ yếu. Ý nghĩa của
hệ số hấp thụ bằng 1 là khi ánh sáng truyền qua một môi trường có độ dày
1cm, cường độ sẽ bị suy giảm đi e (~2,7) lần. Hai đại lượng 0I và I đo
được bằng thực nghiệm.
Phương pháp đo phổ hấp thụ trong từng vùng phổ đòi hỏi nguồn sáng
phát xạ liên tục trong vùng phổ đó, một phổ kế hoặc là máy đơn sắc lựa chọn
bước sóng hay tần số, thiết bị thu tín hiệu để đo sự truyền qua của ánh sáng
đơn sắc. Nguồn sáng thường được sử dụng là đèn hydrogen và deuterium đối
với vùng tử ngoại và đèn dây tóc (volfram + halogen) cho vùng nhìn thấy và
vùng gần hồng ngoại. Trong thí nghiệm đo phổ hấp thụ, chúng tôi dùng đèn
halogen phát xạ trong vùng nhìn thấy. Bằng cách ghi phổ trải trong vùng năng
lượng photon rộng, có thể biết được các quá trình hấp thụ xảy ra tương ứng
với các chuyển dời quang học.
Nguyên lý hoạt động của hệ đo: Một chùm ánh sáng được phát ra từ
nguồn sáng, là đèn phát sáng trong vùng tử ngoại UV hoặc phát trong vùng
nhìn thấy VIS , được đưa qua hệ máy đơn sắc là hệ lăng kính hoặc cách tử
nhiễu xạ , để được tách ra thành các bước sóng đơn sắc. Mỗi tia sáng đơn sắc
này sẽ lần lượt được chia thành hai tia để so sánh, có cường độ như nhau nhờ
một gương phản xạ bán phần. Một trong hai tia sáng trên truyền qua một
cuvet trong suốt bằng thạch anh chứa dung dịch mẫu cần nghiên cứu, cường
độ của tia sáng sau khi truyền qua mẫu là I . Tia sáng còn lại là tia sáng so
sánh truyền qua một cuvet tương tự nhưng chỉ chứa dung môi không chứa
chấm lượng tử, cường độ của nó sau khi truyền qua dung môi là 0I . Cường độ
của các tia sáng sau đó được các detector ghi lại và so sánh trực tiếp trong
cùng điều kiện đo.
30
Hình 2.1. Sơ đồ nguyên lý của hệ đo hấp thụ quang học UV-VIS
Hình 2.2. Máy đo quang phổ UV – VIS
Nếu mẫu không hấp thụ ánh sáng ở một bước sóng đã cho thì 0II .
Tuy nhiên nếu mẫu hấp thụ ánh sáng thì 0II . Các phổ có thể được vẽ
dưới dạng phổ truyền qua :
0/ IIT (2.3)
hoặc phổ hấp thụ :
IIA /log 010 (2.4)
31
2.3: PHỔ HUỲNH QUANG
Hệ đo phổ huỳnh quang Cary Eclipse phân giải cao được đặt tại Viện
Vật Lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Nguyên tắc hoạt
động của phổ kế Cary Eclipse được cho trên hình 2.3.
Nguyên lý hoạt động của hệ đo: Nguồn kích thích của Cary Eclipse là
đèn Xenon flash có thể phát bước sóng từ 200 đến 1000nm, nguồn sáng từ
đèn xenon đi qua một máy đơn sắc để chọn bước sóng đơn sắc kích thích.
Ánh sáng đơn sắc này được đưa vào buồng mẫu và hội tụ lên mẫu đo. Tín
hiệu huỳnh quang phát ra từ mẫu được hội tụ lên lối vào của máy đơn sắc thứ
hai và thu nhận ở lối ra bằng đầu thu quang điện. Một phần của ánh sáng kích
thích được trích ra đưa vào đầu thu quang điện thứ hai để đồng bộ với tín hiệu
thu. Xeno flash hoạt động ở chế độ xung nên Cary Eclipse cò có thể đo thời
gian sống huỳnh quang của mẫu có thười gian sống dài (lân quang)
Nguồn sáng
đèn Xê-non
Máy đơn sắc kích
thích hai cách tử
Cửa sập
Kính lọc
Tấm chia chùm
Tấm phân cực
Ref - Cell
Môđun
quang học Máy đơn sắc
phát xạ
Buồng đựng mẫu
Điều khiển
máy đơn
sắc
Máy tính
Hiển thị
Hình 2.3. Sơ đồ nguyên lý của máy phổ kế huỳnh quang Cary
Eclipse
32
Với cấu hình này Cary Eclipse cho phép đo phổ huỳnh quang, phổ kích
thích huỳnh quang, thời gian sống huỳnh quang và phổ thời gian sống huỳnh
quang (với mẫu có thời gian sống huỳnh quang lớn). Toàn bộ hệ thống được
điều khiển bằng phần mềm chuyên dụng.
Hình 2.4. Máy đo phổ huỳnh quang Cary
2.4: PHỔ HUỲNH QUANG PHÂN GIẢI THỜI GIAN SỐNG
2.4.1. Quang phổ phân giải thời gian và thời gian sống phát quang
Trong khi phép đo huỳnh quang trạng thái dừng là đơn giản, phép đo
phân giải thời gian thông thường yêu cầu thiết bị đo đạc phức tạp và tốn kém.
Tuy nhiên phép đo phân giải thời gian cung cấp nhiều thông tin hơn là từ dữ
liệu huỳnh quang trạng thái dừng. Một ví dụ điển hình của phép đo phân giải
thời gian cung cấp những thông tin mà phép đo huỳnh quang trạng thái dừng
không thể thực hiện được đó là thống kê phân biệt và quá trình dập tắt động
học trạng thái kích thích sử dụng phép đo thời gian sống [18].
Thời gian sống hay thời gian suy giảm phát quang là một thông số động
học có ý nghĩa quan trọng. Giả sử một mẫu phát quang được kích thích bằng
một xung ánh sáng, kết quả là có một độ tích lũy ban đầu 0n trên trạng thái
33
kích thích. Độ tích lũy trên trạng thái kích thích sẽ giảm dần với tốc độ suy
giảm: nrk [4]:
tnk
dt
tdn
nr (2.5)
với tn là độ tích lũy trạng thái trên trạng thái kích thích tại thời điểm t .
là tốc độ phát xạ
nrk là tốc độ suy giảm không phát xạ
Sự phát xạ là ngẫu nhiên và mỗi trạng thái kích thích cho cùng xác suất
phát xạ trong cùng thời gian. Độ tích lũy trạng thái trên trạng thái kích thích
do đó giảm dần theo hàm exponential:
t
ntn exp0 (2.6)
Với 1 nrk là thời gian sống tổng cộng trên trạng thái kích thích.
Trong thực nghiệm, chúng ta không thể quan sát được độ tích lũy trên
trạng thái kích thích nhưng chúng ta có thể quan sát thông qua cường độ phát
xạ tương ứng tỷ lệ với tn . Bởi vậy phương trình trên có thể viết lại dưới
dạng sự phụ thuộc vào thời gian của cường độ phát xạ tI :
t
ItI exp0 (2.7)
Trong đó 0I là cường độ phát quang tại thời điểm ban đầu, chúng ta
thường biểu diễn thang cường độ theo thang logarit cơ số 10, tIlog :
0loglog
1
log ItetI
(2.8)
Theo đó ta có thể tính được thời gian sống phát quang . Thời gian
sống phát quang được tính tại thời điểm cường độ phát quang cực đại giảm
đi e lần eI /0 hoặc từ độ dốc của đường thực nghiệm theo thang logarit cơ
số 10 (phương trình 2.8). Tuy nhiên thời gian sống phát quang đo được
không phải khi nào cũng có dạng đơn hàm e mũ (single exponential) như
34
phương trình 2.7, nó có thể có dạng đa hàm e mũ (multi exponential function)
hay dưới dạng không phải đơn hàm e mũ (non-single exponential). Do đó từ
giá trị thực nghiệm chúng ta phải đưa ra các giả thuyết phù hợp và khớp dữ
liệu thực nghiệm theo nó [18].
Thời gian sống là tổng số thời gian trung bình trên trạng thái kích thích
sau khi mẫu được kích thích. Điều này có thể được thấy được bằng cách tính
thời gian trung bình t trong trạng thái kích thích. Giá trị này được tính bằng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_su_dung_phuong_phap_quang_pho_phat_hien_doc_to_afla.pdf