Việc thay đổi quy hoạch, thay đổi dự án, sử dụng đất sai mục đích dẫn đến việc người dân đã chấp nhân việc thu hồi đất nhưng sau đó lại phát sinh khiếu nại (thu hồi đất làm khu công nghiệp nhưng sau lại chuyển sang làm khu dân cư, diện tích thu hồi lớn hơn diện tích quy hoạch đã được phê duyệt ) trường hợp ở Tây Tựu là một trong những vụ việc khiếu nại nêu trên. Liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường thiệt hại có sự khác nhau trong việc giải quyết giữa các địa phương như “phải thỏa thuận” hay “không phải thỏa thuận” với người sử dụng đất, việc xác định đối tượng bồi thường về đất, việc xác định đối tượng được bồi thường về đất, diện tích đất được bồi thường (những trường hợp sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nà không có giấy tờ về đất, đất do ông bà, cha mẹ để lại nhưng hồ sơ về đất đai không còn do chiến tranh hoặc thiên tai, quy định hạn mức đất ở, hạn mức công nhận diện tích đất ở gắn với vườn, ao, đất cặp mé lộ, mé sông )
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. (Khoản 1, Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP)
Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. (Khoản 2, Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP)
Như vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính trong quản lý đất đai, hành vi hành chính của mình hoặc của cán bộ do mình quản lý trực tiếp.
Trong thời hạn không quá ba mươi (30) ngày kể từ ngày Sở Tài nguyên và Môi trường, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quyết định hành chính trong quản lý đất đai hoặc cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có hành vi hành chính trong giải quyết công việc về quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. (Khoản 1 Điều 164 Nghị định 181/2004/NĐ-CP)
Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.(Khoản 2 Điều 164 Nghị định 181/2004/NĐ-CP)
Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trưng ương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại tố cáo khi người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã.( Khoản 3 Điều 163)
Với quy định này thỉ Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở cả hai cấp: lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp; lần thứ hai đối với khiếu nại mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.
2.1.3 Pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nai đất đai của cơ quan hành chính nhà nước – những điểm tích cực và hạn chế
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính thuộc về Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước. Theo nguyên tắc này thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính bao gồm: Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp) và Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn (Bộ trưởng, Giám đốc sở). Người giải quyết khiếu nại lần đầu là Thủ trưởng cơ quan hành chính có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại (bao gồm cả hành vi của cán bộ trong cơ quan đó); Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám đốc Sở và cấp tương đương của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giảm quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính hành vi hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
Người giải quyết khiếu nại lần thứ hai là Thủ trưởng cơ quan cấp trên của cơ quan bị khiếu nại. Cá biệt có thể qua ba cấp giải quyết: khiếu nại phát sinh ở cấp xã thì lần đầu là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, lần hai là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, lần ba là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc khiếu nại phát sinh ở cơ quan cấp dưới của cơ quan thuộc Chính phủ thì lần đầu là Thủ trưởng cơ quan của cơ quan đó, lần hai là Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, lần ba là Tổng thanh tra nhà nước. Luật Khiếu nại năm 1998 quy định Thủ tướng Chính phủ - người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cụ thể. Ngày 5/06/2004 kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XI dã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998: sửa đổi thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại; giải quyết khiếu nại mà Giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại, giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình mà Chủ tịch UBND cấp tỉnh, giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại.
Tổng thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại; giúp Thủ tưởng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp; xử lý các kiến nghị của Tổng thanh tra theo quy định.
Ngày 28/11/2005 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Trong đó có sửa đổi cơ chế giải quyết khiếu nại: cấp giải quyết khiếu nại lần đầu là cơ quan hành chính có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, nếu không đồng ý hoặc quá thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Khi khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên, nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết hoặc quá thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc quyết định hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mà nội dung không thuộc quyền quản lý của bộ, ngành, nều người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của những người này hoặc quá thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Tuy nhiên Luật Đất đai quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh. Cụ thể tại khoản 2 Điều 138 quy định như sau:
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh thì quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng.
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân.
Bên cạnh đó, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai cũng chỉ đề cập đến thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài hai trường hợp nêu trên, việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được dẫn chiếu áp dụng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
* Những thành tựu
Thứ nhất, pháp luật khiếu nại hành chính nói chung và khiếu nại hành chính đất đai nói riêng đã thể chế hoá được những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền khiếu nại của công dân. Những tư tưởng, quan điểm trên đã được thấm nhuần và các chế định và quy phạm pháp luật cụ thể của pháp luật khiếu nại, pháp luật đất đai qua các thời kỳ cũng như pháp luật hiện hành. Yếu tố này là đảm bảo quan trọng để định hướng quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật khiếu nại – cơ sở để duy trì, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp chế trong hoạt động giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng.
Thứ hai, pháp luật khiếu nại, pháp luật đất đai, bảo đảm được tính hợp hiến, hợp pháp trong việc cụ thể hoá quyền khiếu nại của công dân. Hệ thống các quy phạm pháp luật về khiếu nại đã tuân thủ và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong quá trình cụ thể hoá quyền khiếu nại trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về đất đai.
Thứ ba, pháp luật khiếu nại là một trong những phương thức bảo đảm về pháp lý đối với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.Trên cơ sở những nguyên tắc chung được quy định trong Luật Khiếu nại, Luật đất đai đã quy định cụ thể thẩm quyền, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại, tạo ra cơ sở pháp lý để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.Những quy định này là bảo đảm pháp lý quan trọng để nhân dân thực sự là người chủ của quyền lực nhà nước và đây cũng là mục tiêu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tư, pháp luật khiếu nại ở Việt Nam đã được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện, thật sự trở thành công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm. Pháp luật khiếu nại được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức. Về hình thức, các văn bản quy phạm pháp luậtcụ thể hoá quyền khiếu nại của công dân được hình thành từ thập đến cao:từ hình thức văn bản là sắc lệnh, nghị định đến pháp lệnh và cao nhất là Luật Khiếu nại hiện hành và luật đất đai. Về nội dung các chế định, các quy phạm pháp luật khiếu nại ngày càng hoàn thiện, đầy đủ hơn từ những quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại …
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính được quy định ngày càng hợp lý, phù hợp với phương hướng cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước và bảo đảm quyền khiếu nại của công dân.Thẩm quyền giải quyết khiếu nại được Luật quy định cho người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước từ cấp cơ sở đến cấp cao nhất.Quy định này phù hợp chế độ thủ trưởng trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Một khiếu nại hành chính về nguyên tắc được xem xét giải quyết qua hai cấp: lần đầu là thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, lần thứ hai là Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp của người giải quyết lần đầu. Pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là nhằm tạo điều kiện và cơ hội để người bị khiếu nại tự xem xét lại quyết định, hành vi của mình, kịp thời sửa chữa những sai lầm khi khiếu nại là đúng. Cấp giải quyết khiếu nại tiếp theo là Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết khiếu nại lần đầu. Quy định này phù hợp với phương thức tổ chức đặc thù của nền hành chính là theo thứ bậc, hoạt động liên tục, thông suốt để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, quy định như vậy nhằm xác định và tăng cường trách nhiệm của cấp trên trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cấp dưới.
* Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, pháp luật khiếu nại về đất đai còn có những hạn chế sau:
Thứ nhất, Pháp luật khiếu nại chưa thiết lập được một cơ chế để giải quyết có hiệu quả những khiếu nại hành chính. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khiếu nại hành chính được giải quyết bở cơ quan hành chính nhà nước và Toà án nhân dân với hai phương thức, thủ tục khác nhau. Tuy nhiên quy định của pháp luật tố tụng hành chính và pháp luật khiếu nại còn có nhiều điểm chưa thống nhất, chưa tạo được cơ chế hữu hiệu, thuận lợi để giải quyết khiếu nại của dân.
Thứ hai, Pháp luật khiếu nại hiện hành chưa quy định trình tự, thủ tục, cơ chế thi hành và xử lý trách nhiệm những người không thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại và kết luận tố cáo đã có hiệu lực pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại sẽ không đạt được kết quả, sẽ trở lên vô nghĩa nếu như quyết định giải quyết khiếu nại không được tổ chức thực hiện triệt để và nghiêm chỉnh. Trong thực tế các quyết định giải quyết khiếu nại và kết luận tố cáo đã có hiệu lực pháp luật không được tổ chức thực hiện kịp thời, nghiêm minh làm cho việc giải quyết kéo dài, ảnh hưởng đến tình trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa và hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ ba, Hệ thống các quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo còn bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thống nhất . Luật khiếu nại chưa đáp ứng được yêu cầu là đạo luật “luật khung” xác định những nguyên tắc để các pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Giữa quy định của Luật Khiếu nại với luật đất đai chưa tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, nhất quán, thậm chí tạo ra mâu thuẫn nhau trong việc quy định thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại.
Luật Đất đai năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã quy định rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 65 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP). Tuy nhiên, theo quy định tại điều 65 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP: Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định này được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại và tố cáo. Như vậy, trong cùng thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trường hợp áp dụng quy định của Luật Đất đai, Nghị định số 84/NĐ-CP; có trường hợp lại áp dụng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, trong khi đó chính hai hệ thống văn bản này lại không có sự thống nhất. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền khiếu nại của công dân mà còn gây khó khăn rất lớn trong việc vận dụng pháp luật, mỗi nơi vận dụng một kiểu, làm tăng thêm tính chất phức tạp của các vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai.
2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính nhà nước tại Thành phố Hà Nội
2.2.1 Trên lĩnh vực bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư tại thành phố Hà Nội:
Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội đất nước, Nhà nước đã tiến hành thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án phát triển. Tuy nhiên vấn đề bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho những diện tích bị thu hồi đất ở nhiều địa phương gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
“Vào năm 2004, UBND Thành phố Hà Nội đã phê duyệt dự án khu trồng hoa chất lượng cao với diện tích khoảng hơn 500ha nằm trên địa bà xã Tây Tựu và Liên Mạc (Từ Liêm). Dự án này liên quan đến 252 hộ dân bị thu hồi đất.
Từ năm 2009, đến nay, UBND Thành phố cũng đã chỉ đạo ráo riết công tác giải phóng mặt bằng để chủ đầu tư khỏi công, nhưng đến nay, qua 4 lần chi trả với 168 hộ có quyết định thì chỉ có 100 hộ dân chịu nhận tiền đền bù, bàn giao đất. Gần 70 hộ còn lại dù đã nhiều lần được mời lên UBND xã tuyên truyền, thuyết phục song vẫn không đồng ý. Hộ giao đất, hộ không giao đã tạo ra mặt bằng kiểu xôi đỗ khiến chủ đầu tư phải chờ đợi mà không tiến hành xây dựng. Theo lý giải, khó khăn chủ yếu do sự ra đời của các chính sách về giá đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư điều chỉnh trong những thời điểm giao nhau. Bởi vậy, đã tạo ra sự không đồng nhất trong mức đền bù cho người nông dân bị thu hồi, dù trên cùng một dự án, một chủ đầu tư … nhưng lại có những mức chênh lệch khác nhau. Từ đó dẫn đến khiếu nại đòi bồi thường từ người dân đã bàn giao đất.”
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố trí phát triển các dự án, người có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống. Một số dự án chưa có khu tái định cư hoặc chưa giải quyết tái định cư đã thu hồi đất ở. Những trường hợp bị thu hồi đất cùng loại trên thị trường, đặc biệt là đối với đất nông nghiệp trong khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn.Tiền bồi thường đất nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất nông nghiệp tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất nông nghiệp để nhận chuyển nhượng đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp để chuyển sang làm nghề khác. Thời gian qua, các địa phương tiến hành xây dựng các khu công nghiệp thu hồi chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, trong khi đó giá đền bù thấp, quỹ đất sản xuất nông nghiệp còn ít hoặc không còn để giao, nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, giao cho các công ty để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, người dân không chấp nhận dẫn đến tình trạng các hộ dân chống đối, không thực hiện các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã có nhiều hành vi ngăn cản, đập phá phương tiện và chống người thi hành công vụ.
Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong việc trưng dụng, thu hồi đất; giải tỏa hành lang an toàn giao thông.
Nhìn chung các địa phương chưa coi trọng việc lập khu tái định cư chung cho các dự án trên cùng địa bàn, một số khu tái định cư đã được lập nhưng không đảm bảo điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi cũ, giá nhà ở tại khu tái định cư còn tính quá cao nên tiền nhận bồi thường không đủ trả cho nhà ở tại khu tái định cư. Các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết vấn đề tái định cư đã khá đầy đủ nhưng các địa phương thực hiện chưa tốt, thậm chí một số địa phương chưa quan tâm giải quyết nhiệm vụ này dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài.
Việc thay đổi quy hoạch, thay đổi dự án, sử dụng đất sai mục đích dẫn đến việc người dân đã chấp nhân việc thu hồi đất nhưng sau đó lại phát sinh khiếu nại (thu hồi đất làm khu công nghiệp nhưng sau lại chuyển sang làm khu dân cư, diện tích thu hồi lớn hơn diện tích quy hoạch đã được phê duyệt …) trường hợp ở Tây Tựu là một trong những vụ việc khiếu nại nêu trên. Liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường thiệt hại có sự khác nhau trong việc giải quyết giữa các địa phương như “phải thỏa thuận” hay “không phải thỏa thuận” với người sử dụng đất, việc xác định đối tượng bồi thường về đất, việc xác định đối tượng được bồi thường về đất, diện tích đất được bồi thường (những trường hợp sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nà không có giấy tờ về đất, đất do ông bà, cha mẹ để lại nhưng hồ sơ về đất đai không còn do chiến tranh hoặc thiên tai, quy định hạn mức đất ở, hạn mức công nhận diện tích đất ở gắn với vườn, ao, đất cặp mé lộ, mé sông …)
2.2.2. Khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thành phố Hà Nội.
Đây là dạng khiếu nại rất phổ biến hiện nay. Dạng khiếu nại này phát sinh một phần từ sai sót của cơ quan có thẩm quyền, như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai sót và tên chủ sử dụng, sơ đồ thửa đất, diện tích… Có những trường hợp, không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có lý do chính đáng hoặc lý do không rõ ràng.
“Trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, có một số quận huyện không cấp sổ mới theo đúng quy trình. Theo thủ tục thì trong vòng 60 ngày UBND quận, huyện cấp giấy chứng nhận nhưng trên thực tế, một số quận huyện kéo dài hơn thậm chí đến mấy năm nhưng không cấp như ở Huyện Từ Liêm, huyện Sóc Sơn. Tuy vậy, các huyện lại không giải thích cho dân hiểu lý do tại sao không cấp giấy và không hướng dẫn người dân phải làm theo quy trình, thủ tục thế nào.”
Quá trình giải quyết hồ sơ diễn ra chậm, phiền hà, sách nhiễu… gây khó khăn cho người sử dụng đất. Một nguyên nhân khác là do quy hoạch treo hoặc do người dân không chấp nhận lý do không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính đáng.
Có trường hợp hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không có cơ sở như:
“Năm 1994, ông Ứng thuê nhà của nhà nước ở số 6, phố Nguyễn Gia Thiều. Quá trình sử dụng có cơi nới thêm diện tích và đến tháng 8/1999 toàn thể gia đình họp phân chia ai được sử dụng phần nào. Sự phân chia được thể hiện bằng văn bản có chữ ký của các thành viên trong gia đình. Trong đó, anh Việt được cho quản lý, sử dụng căn buồng 24m2 tầng trệt và diện tích cơi nới phía sau. Năm 2003, ông Ứng đứng tên mua nhà theo Nghị định 61 đối với phần diện tích này, anh Việt đã thay bố nộp tiền vào kho bác. Năm 2004, ông Ứng được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất và lập hợp đồng cho nhà đất nói trên cho vợ chồng ông Việt; vợ chồng ông Việt đã hoàn tất việc sang tên trước bạ.
Năm 2007, sau khi ông Việt được bố tặng cho nhà, bà Đỗ Thị Xuân Phương (vợ anh Đỗ Đức Tiến, con ông Ứng) khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận cho ông Ứng không đúng Nghị định 61 tới sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội.
Ngày 16/8/2007, Sở Tài Nguyên Môi trường Hà Nội đã có công văn 3767 khẳng định công ty bán nhà cho ông Ứng tại số 6 là đúng quy định về bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo Nghị định 61. Quy trình bán nhà cũng được Sở làm rõ, đó là do ông Ứng có đơn đề nghị mua nhà, có xác nhận của UBND phường không có tranh chấp khiếu kiện trong sử dụng nhà, đất.
Tiếp đến, ngày 14/5/2008, Sở tài nguyên môi trường có văn bản trả lời bà Phương, ông Tiến, một lần nữa khẳng định việc bán nhà cho ông Ứng, công ty đã thực hiện đúng các quy định tại thời điểm bán. Đó là, trước khi làm thủ tục mua nhà ngày 16/8/1999 ông Ứng cùng các con đã làm giấy giao quyền quảnlys gian buồng tự quản tại số nhà 06, đã phân chia diện tích ở cho từng gia đình tại đây, trong đó có cả bà Phương, ông Tiến. Các thành viên đã thống nhất với sự phân chia và đã ký tên vào văn bản không có tranh chấp khiếu kiện gì cho đến khi bán. Vì vậy, Sở này khẳng định khiếu nại của bà Phương, ông Tiến là không có cơ sở để giải quyết.
Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của Sở Tài nguyên môi trường, bà Phương đã khiếu nại lên UBND TP Hà Nội. UBND Thành phố cho rằng: Việc Sở TN&MT căn cứ đơn xin mua nhà ngày 21/03/2003 do một mình ông Ứng đứng tên để làm thủ tục bán nhà theo Nghị định 61 với diện tích là 30,6m2 trên 84,5m2 là chưa xem xét đến quyền lợi của toàn bộ các thành viên trong hợp đồng thuê nhà, không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Và UBND TP Hà Nội đã giao cho Sở Xây dựng làm thủ tục hủy Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã cấp cho ông Đỗ Văn Ứng.”
Trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội có công văn trả lời khiếu nại không có căn cứ pháp lý và không được thụ lý giải quyết. Cơ quan thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo là UBND TP Hà Nội đã ra quyết định hủy và yêu cầu Sở xây dựng làm thủ tục hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, hai cơ quan này thực hiện đúng thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật tại Điều 22 – Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định thẩm quyền của Giám đốc Sở trong giải quyết khiếu nại, và tại Khoản 3 – Điều 23 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2005 quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc giải quyết khiếu nại đối với những khiếu nại mà giám đốc sở đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại.
Tuy nhiên, trong thẩm quyền giải quyết của mình UBND TP Hà Nội đã giải quyết khiếu nại không dựa trên căn cứ pháp luật nào, không tìm hiểu kỹ hồ sơ, gây ra tình trạng khiếu nại kéo dài.
Từ đó, có thể thấy cách hành xử của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn nhiều vướng mắc.
2.3 Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai tại thành phố Hà Nội
Theo ông Phí Thái Bình - Phó Chủ tịch UBND TP.Hà Nội, việc rà soát quy hoạch là việc làm khá "phức tạp và nhạy cảm", bởi trước khi hợp nhất các địa phương đều căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển KT-XH của địa phương mình, nguyện vọng của nhà đầu tư để xem xét, phê duyệt dự án. Việc phải rà soát, xem xét lại các dự án sẽ không tránh được những phân vân và gây tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, điều khó khăn hơn là mục tiêu đặt ra trong đợt rà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại thành phố Hà Nội.doc