Luận văn Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học hóa học lớp 10 trung học phổ thông

LỜI CẢM ƠN . 1

MỤC LỤC . 2

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT. 5

MỞ ĐẦU. 6

1. Lý do chọn đề tài .6

2. Mục đích nghiên cứu .6

3. Nhiệm vụ của đề tài.6

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.7

5. Giả thuyết khoa học.7

6. PP nghiên cứu.7

7. Phạm vi nghiên cứu .8

8. Những điểm mới của đề tài nghiên cứu .8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 9

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.9

1.2. Phương tiện dạy học .11

1.2.1. Khái niệm .11

1.2.2. Phân loại PTDH [25, tr.40] .12

1.2.3. Tác dụng của PTDH [6] .16

1.2.4. Yêu cầu đối với các PTDH [8, tr.30 - 45] .17

1.2.5. Nguyên tắc sử dụng PTDH [8, tr.81] .19

1.2.6. Những sai sót điển hình trong việc sử dụng PTDH [8, tr.109] .20

1.3. Phiếu học tập .22

1.3.1. Khái niệm .22

1.3.2. Cấu trúc của phiếu học tập [39, tr.9] .23

1.3.3. Phân loại [32, tr.74].23

1.3.4. Tác dụng của phiếu học tập [32, tr.74].25

1.3.5. Yêu cầu sư phạm [4].26

1.4. Thực trạng của việc thiết kế và sử dụng PHT trong dạy học môn Hóa ở một số

trường THPT.26

1.4.1. Mục đích điều tra.26

1.4.2. Phương pháp và đối tượng điều tra .27

1.4.3. Cách tiến hành .27

1.4.4. Kết quả điều tra .27

pdf119 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 2544 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học hóa học lớp 10 trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và các kỹ năng cơ bản của bài học. Dựa vào đó, GV xác định những nội dung cụ thể trong bài cần sử dụng PHT. Nội dung của phiếu chính là những kiến thức, kỹ năng cơ bản mà HS cần khám phá, lĩnh hội và rèn luyện. Tùy nội dung từng bài mà có thể 1 hoặc 2 đơn vị kiến thức được sử dụng PHT hoặc nội dung toàn bài được sử dụng PHT. VD: Trong bài clo, phần 2, 5 cần sử dụng PHT. Bước 4: Xác định loại phiếu và cách trình bày phiếu Cách thể hiện nội dung PHT có thể là các câu hỏi, bài tập thực hành, bài tập xử lý tình huống, yêu cầu giải quyết vấn đề, thực hiện bài kiểm tra... các nội dung này phải được trình bày theo đúng thứ tự logic của quá trình nhận thức. Hình thức trình bày PHT có thể là văn bản, bảng điền kiến thức hoặc sơ đồ, biểu mẫu... Bước 5: Diễn đạt nội dung trên PHT Dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ học tập trong từng phần, nội dung và hình thức đã xác định GV có thể tiến hành diễn đạt nội dung trên PHT. Các thông tin, nhiệm vụ học tập được giao trong phiếu phải được trình bày một cách rõ ràng, ngắn gọn dưới dạng tường minh. Các câu hỏi, nhiệm vụ học tập đưa ra trong phiếu phải đảm bảo mọi HS đều hiểu được phải làm gì, thông thường, những yêu cầu đưa ra cần phải chỉ rõ căn cứ, nguồn để HS có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ đề ra, như: “Căn cứ vào... hãy cho biết...”,“Dựa vào... hãy chứng minh...”,“Từ thí nghiệm... hãy nhận xét... ”. Sau mỗi câu hỏi, bài tập cần có một khoảng trống thích hợp để HS trình bày kết quả. Khối lượng công việc cần phù hợp với thời gian suy nghĩ và thời gian trình bày phiếu. Mỗi phiếu có thể thể hiện một đơn vị kiến thức hoặc nhiều đơn vị kiến thức. Khi trình bày PHT, nên ghi cụ thể là phiếu dùng cho phần nào của bài học, như dùng để củng cố sau khi học bài..., hoặc dùng trong phần 2 bài... để HS dễ sắp xếp, lưu giữ. Nếu trong một bài học sử dụng nhiều PHT thì nên đánh số thứ tự, như PHT số 1, PHT số 2... Để tăng hứng thú học tập cho HS, khi thiết kế PHT, GV cần tăng tính thẩm mỹ của PHT và đa dạng hóa về hình thức trình bày. VD: PHIẾU HỌC TẬP (Dùng trong phần V bài 38: Clo, SGK 10CB). Dựa vào hình 5.3, em hãy cho biết: 44 1. Muốn thu khí Cl2 tinh khiết có thể bỏ bình chứa dung dịch NaCl được không ? 2. Nếu thay đổi vị trí hai bình chứa dung dịch NaCl và H2SO4 đặc thì thu được khí Cl2 tinh khiết không ? 2.2.3. Những thuận lợi, khó khăn khi thiết kế phiếu học tập 2.2.3.1. Thuận lợi - Các GV cho rằng ý thức học tập của HS đối với môn hóa học ngày càng cao. - HS đang hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu nên rất thích hợp cho việc học tập độc lập, tự làm việc theo hướng dẫn của PHT. - Bên cạnh đó, theo xu thế đổi mới PPDH hiện nay, nhà trường đang khuyến khích, ủng hộ các GV tiếp cận những PP mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Đây là nguồn động viên rất lớn cho GV trong việc sử dụng các PPDH mới. - Ngoài ra, việc sử dụng PHT còn giúp GV đánh giá được thái độ và khả năng học tập của HS qua quá trình quan sát HS làm việc với phiếu và từ kết quả thể hiện trên phiếu. - Sự phát triển tin học giúp cho việc soạn thảo và thiết kế PHT nhanh và đẹp hơn. - Mỗi bài đều có phần câu hỏi cuối bài, GV có thể dựa vào đó để thiết kế PHT. - Một số bài có tranh ảnh, sơ đồ sản xuất, GV đặt câu hỏi khai thác nội dung, kiến thức trong tranh ảnh giúp bài học phong phú hơn. 2.2.3.2. Khó khăn - Việc soạn PHT mất nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị thêm: các câu hỏi ứng dụng thực tế, tranh ảnh, sơ đồ để bài sinh động hơn. - Chi phí để photo PHT cả năm học còn cao nên khó áp dụng cho những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn. - Thời gian tiết học thì quá ngắn không đủ để HS làm việc với phiếu. Ngoài ra, cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng DH trong tình hình hiện nay còn lạc hậu, thiếu thốn, số lượng HS trong một lớp học còn quá đông... chưa đáp ứng được yêu cầu khi sử dụng PHT. - Câu hỏi ứng dụng thực tế còn hạn chế. Việc sử dụng PHT vào các hoạt động trong giờ học có thể bị rời rạc khi GV chưa có kinh nghiệm hoặc HS chưa nắm rõ cách làm việc với PHT. - Nhiều GV chưa hiểu rõ về PHT cũng như chưa có kinh nghiệm sử dụng PHT. - Khó kết hợp PHT với các hoạt động trong giờ học. Trình độ HS không đồng đều. 45 - Một số GV khả năng sử dụng vi tính còn hạn chế. - Số lượng câu hỏi cuối bài học trong SGK còn ít (thường là 2 câu). Câu hỏi liên hệ thực tế trong SGK còn hạn chế. Nếu GV chỉ sử dụng câu hỏi trong SGK thì HS không nắm vững được bài tốt, lớp không sinh động. Vì vậy GV phải chuẩn bị thêm câu hỏi, bài tập (câu hỏi chính lẫn câu hỏi phụ và câu hỏi liên hệ thực tế) nên mất nhiều thời gian. - Kênh hình không nhiều, có nhiều bài không có. Vì vậy GV phải chuẩn bị tranh ảnh, mô hình kết hợp với soạn câu hỏi trong PHT để bài học được sinh động hơn nên tốn thời gian... 2.3. Sử dụng phiếu học tập 2.3.1. Nguyên tắc sử dụng phiếu học tập Khi sử dụng PHT GV cần tuân thủ một số nguyên tắc sau: a. Sử dụng đúng mục đích, đúng nội dung, đúng đối tượng Các loại PHT khác nhau có tác dụng hình thành kiến thức, rèn luyện các kỹ năng khác nhau. Nếu là bài lý thuyết thì PHT yêu cầu khai thác kiến thức lý thuyết. Nếu là bài thực hành thì PHT phải yêu cầu rèn luyện kỹ năng thí nghiệm, thực hành như: Các kỹ năng sử dụng dụng cụ thí nghiệm, lắp đặt thí nghiệm... Việc sử dụng PHT cũng cần lưu ý đến đối tượng HS. VD như phiếu được thiết kế cho HS có mức độ nhận thức cao như HS ở các trường chuyên thì không thể áp dụng được cho HS ở các trường ở nông thôn, miền núi... b. Sử dụng vừa đủ số lượng PHT trong một tiết học Không nên sử dụng quá nhiều phiếu trong một tiết học, vì như thế sẽ mất thời gian phát phiếu, tốn kém trong in ấn, mà lại không đủ thời gian để xử lý những tình huống ngoài dự kiến. Trong một tiết học chỉ nên sử dụng từ 1- 2 phiếu là hợp lý nhất. Nếu sử dụng phiếu trong tiết dạy bài mới thì nên kết hợp các phiếu cho từng mục nội dung kiến thức thành một phiếu. c. Sử dụng PHT kết hợp với các tài liệu học tập và phương tiện DH khác Khi giảng dạy môn hóa học rất cần sử dụng các đồ dùng DH như SGK, dụng cụ tiến hành thí nghiệm, tranh ảnh, mô hình máy móc hoặc những thí nghiệm không tiến hành trực tiếp được thì cần các video mô phỏng thí nghiệm. Bên cạnh đó, các phương tiện DH như đèn chiếu projector, máy chiếu giúp cho GV thuận lợi hơn trong việc giảng dạy và tiết 46 kiệm được thời gian. Do đó, để phát huy tốt tính tích cực nhận thức của HS, GV cần sử dụng PHT kết hợp với các tài liệu học tập và các phương tiện DH khác. d. Sau khi HS hoàn thành, GV cần công bố đáp án Khi sử dụng PHT, sau khi HS thảo luận, trình bày ý kiến của mình thì GV phải có nhận xét, bổ sung, góp ý và điều quan trọng là công bố đáp án. Điều này giúp HS có thể đối chiếu, so sánh và tự đánh giá được thành quả công việc của mình, rút ra được những điểm chưa đạt để có sự nỗ lực hơn trong học tập. 2.3.2. Các hình thức sử dụng PHT a. Sử dụng PHT để hình thành kiến thức mới Việc soạn giáo án và lên lớp khi có sử dụng PHT có khác so với giáo án thông thường. Giáo án có thể phân cột thành hoạt động của GV và hoạt động của HS. Nội dung trong giáo án này chủ yếu là chuỗi hoạt động của thầy và trò. Ứng với mỗi PHT là một hoạt động của thầy và trò. Trong giáo án có kèm theo PHT mà GV đã soạn để phát cho HS nhằm phục vụ cho các hoạt động của thầy và trò. Kèm theo PHT là phần trả lời câu hỏi, bài tập đặt ra trong PHT gọi là tờ nguồn. PHT nên được sử dụng một cách có hệ thống. Trong từng trường hợp có thể sử dụng cho từng nhóm HS hoặc từng cá nhân. Khi sử dụng PHT trong tiết học, GV có thể phát trực tiếp trên lớp hoặc phát phiếu cho HS về nhà điền vào yêu cầu của phiếu đã đặt ra. Điều đáng lưu ý khi sử dụng PHT trên lớp là phát PHT cho các nhóm, GV phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của các nhóm, kịp thời uốn nắn và giúp đỡ các em, tránh tổ chức các hoạt động cho các em mang tính hình thức. b. Sử dụng PHT để củng cố, hoàn thiện kiến thức GV có thể sử dụng PHT để củng cố, hoàn thiện kiến thức, kĩ năng cho HS. Đây cũng là một trong những biện pháp củng cố bài học mang lại hiệu quả cao. Bởi vì củng cố bài học bằng PHT đòi hỏi HS phải hoạt động, nhằm khắc phục thực trạng một số HS không tập trung vào cuối tiết học. Hơn nữa bằng PHT, GV có thể cùng một lúc củng cố được nhiều nội dung và đánh giá được mức độ tiếp thu bài học của HS một cách nhanh chóng, chính xác. c. Sử dụng PHT khi kiểm tra bài cũ Nội dung của phiếu là một đề kiểm tra ngắn được in hoặc ghi sẵn vào phiếu có chừa chỗ trống để HS làm ngay vào đó. 47 Dùng phiếu để kiểm tra bài cũ giúp GV có thể kiểm tra được cùng lúc nhiều HS, khắc phục được tình trạng GV chỉ gọi một hoặc một vài HS kiểm tra còn các HS khác chỉ ngồi nghe hoặc làm việc riêng. Tuy nhiên, loại phiếu này cũng có nhược điểm là không phát huy được năng lực trình bày và diễn đạt bằng lời nói trực tiếp của HS. Vì vậy, tránh dùng tràn lan loại phiếu này mà nên kết hợp cân đối với kiểm tra bài cũ truyền thống (còn gọi là kiểm tra miệng). d. Sử dụng PHT kết hợp với giáo án điện tử Xu hướng hiện nay là thay đổi cách soạn giáo án, chuyển từ thiết kế các hoạt động của thầy sang hoạt động của trò, tăng cường hoạt động cá nhân hoặc làm việc theo nhóm nhỏ bằng các PHT. Sử dụng PHT kết hợp với giáo án điện tử góp phần tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả dạy và học. e. Sử dụng PHT khi tổ chức thuyết trình, thảo luận nhóm Khi sử dụng PHT, GV cần phải kết hợp với PPDH theo nhóm nhỏ, rèn luyện kĩ năng hợp tác nhóm, thảo luận để tìm kiếm kiến thức đồng thời xây dựng ý thức tập thể, trách nhiệm cộng đồng và xây dựng niềm tin về bản thân cho mỗi HS. Để việc sử dụng PHT kết hợp với PP tổ chức thuyết trình, thảo luận nhóm có hiệu quả, GV cần chuẩn bị: - Số lượng mẫu phiếu cho các nhóm. - Đáp án PHT trên bảng phụ đủ lớn (hoặc bảng trong và đèn chiếu) để HS đối chiếu kết quả. - Điều khiển hoạt động của HS linh hoạt, đúng yêu cầu về thời gian hòan thành phiếu, trình bày nội dung PHT của HS. - Các tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu có liên quan đến kiến thức theo yêu cầu các nội dung trong PHT để tạo điều kiện cho HS lĩnh hội kiến thức tốt hơn. f. Khi hướng dẫn tiết thực hành PHT được sử dụng trong các tiết thực hành còn được gọi là phiếu thực hành. Nội dung của phiếu thực hành là những câu hỏi ngắn liên quan đến cách thức tiến hành thí nghiệm. Ngoài ra, GV còn có thể đưa ra những câu hỏi liên quan đến các thiết bị, dụng cụ, các nguyên tắc, thao tác trong phòng thí nghiệm để nâng cao kĩ năng thực hành cho HS, đồng thời kiểm tra việc chuẩn bị bài của các em trước khi thực hành. g. Giao bài về nhà GV giao các PHT để HS thực hiện ở nhà. Nội dung của phiếu dùng để ra bài về nhà là những câu hỏi, bài tập... có mục đích yêu cầu HS vận dụng, ôn tập lại những kiến thức, kĩ 48 năng vừa được học hoặc tìm hiểu bài mới trước khi đến lớp. GV có thể giao các phiếu bài tập có nội dung là những bài tập mà HS cần giải quyết. Những bài tập này có thể được cho đáp số hoặc trình bày dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm. Để giải được những bài tập này yêu cầu HS phải vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học, qua đó rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho HS. 2.3.3. Quy trình sử dụng phiếu học tập Đối với các loại phiếu khác nhau thì quy trình sử dụng PHT cũng khác nhau. Trong phạm vi của đề tài chỉ trình bày quy trình sử dụng PHT trong dạy bài mới và trong củng cố bài. 2.3.3.1. Sử dụng PHT trong dạy bài mới Bước 1: Giao PHT cho HS Tùy theo hình thức tổ chức DH và nhiệm vụ đặt ra trong PHT mà GV giao số lượng PHT cho thích hợp. Nếu là hoạt động cá nhân thì mỗi HS phải được giao 1 phiếu, còn nếu là hoạt động nhóm thì tùy thuộc vào yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra cho từng nhóm mà giao số lượng PHT phù hợp (nếu yêu cầu nhóm thảo luận 1 nội dung thì giao 1 phiếu, nếu yêu cầu nhóm thảo luận 2 nội dung thì giao 2 phiếu tương ứng). Bước 2: Hướng dẫn HS làm việc với PHT Đây là bước quan trọng trong quá trình sử dụng PHT. Có nhiều cách hướng dẫn HS khai thác kiến thức để hoàn thành PHT. GV cần dựa vào các yêu cầu, bài tập đặt ra trong phiếu để hướng dẫn cụ thể cho HS. Thông thường, việc hướng dẫn HS làm việc với phiếu gồm các bước sau: - GV yêu cầu HS đọc phiếu. - GV yêu cầu HS xác định nguồn tài liệu cung cấp kiến thức cần sử dụng cho PHT. Nếu các nhiệm vụ học tập đặt ra trong phiếu gắn liền với các nguồn cung cấp kiến thức như bài viết trong SGK, thí nghiệm, đồ thị, hình vẽ... thì GV cần chỉ rõ từng nguồn như đoạn nào trong SGK, trang số mấy, thí nghiệm nào, đồ thị nào, hình vẽ số mấy. - GV yêu cầu HS xác định những việc cần làm để hoàn thành PHT. Dựa vào yêu cầu của PHT, HS xác định những việc cần làm như tóm tắt đề, đổi đơn vị, vẽ hình minh họa, trả lời câu hỏi, điền vào bảng so sánh, điền vào chỗ trống, làm thí nghiệm... - GV đưa ra những gợi ý, hướng dẫn để HS khai thác kiến thức và tự làm việc với phiếu. Nếu yêu cầu trong phiếu là thiết lập công thức, giải bài tập, GV cần hướng dẫn HS tìm mối quan hệ giữa các đại lượng, gợi ý các công thức... để HS có thể tự giải quyết vấn 49 đề. Nếu câu hỏi, bài tập trong phiếu là những vấn đề tương đối dễ, HS đã được biết phần nào ở các lớp dưới, hoặc được trình bày rõ trong SGK thì GV cho HS tự nghiên cứu và tự hoàn thành phiếu. Bước 3: HS độc lập hoặc hợp tác làm việc với nhau để hoàn thành nhiệm vụ trong PHT Trong bước này, nhiệm vụ của HS là tập trung cao độ làm việc với các nguồn tài liệu, các phương tiện học tập để khai thác kiến thức, hoàn thành PHT. Trong khi HS làm việc với phiếu, GV cần quan sát, hướng dẫn HS nhằm phát hiện những biểu hiện thiếu tập trung, đọc và phân tích dữ kiện một cách tản mạn, tùy tiện của HS để động viên để chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời, qua quan sát, GV có thể nắm được thái độ, ý thức học tập của HS, đảm bảo cho tất cả HS đều làm việc. Đặc biệt là HS trung bình và HS yếu, không để xảy ra tình trạng ỷ lại, dựa dẫm vào bạn bè. Bên cạnh đó, GV nên hạn chế những hoạt động hoặc lời nói làm phân tán sự tập trung chú ý của HS. GV có thể luân phiên tham gia vào công việc của từng HS hay của nhóm, qua đó có thể nắm bắt được nhịp độ làm việc của các em, điều khiển cho công việc của các nhóm tiến triển đồng đều và xoay quanh trọng tâm của bài học. Điều này sẽ giúp HS không bị chệch hướng khi thảo luận, đồng thời đảm bảo được thời gian hoàn thành phiếu theo quy định. Bước 4: Tổ chức HS trình bày kết quả làm việc Ở khâu này, HS có cơ hội chia sẻ ý kiến, kết quả của mình với bạn bè. Từ đó, có thể học hỏi lẫn nhau làm phong phú thêm về ý tưởng, hoàn thiện hơn về nội dung kiến thức và việc tiếp nhận kiến thức đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, quá trình này còn rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày ý kiến và tự tin khi phát biểu ý kiến. GV tổ chức cho HS trình bày ý kiến cá nhân hay đại diện nhóm trình bày ý kiến của nhóm mình. Mỗi PHT nên cho từ 2-3 HS trình bày, nếu là nhóm cũng cho đại diện 2-3 nhóm trình bày. Trên cơ sở đó, các HS khác góp ý, tranh luận... để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong PHT. Do thời gian tiết học có hạn nên khi HS trình bày ý kiến, GV cần lưu ý HS chỉ trình bày những ý kiến khác với ý kiến đã trình bày trước, không nên trình bày lại những ý kiến trùng nhau gây mất thời gian tiết học. Bước 5: GV sửa chữa, bổ sung, nêu đáp án 50 Ở bước này, GV nên sửa chữa những kết quả mà HS trình bày chưa đầy đủ, không rõ ràng hoặc chưa chính xác. Kể cả những ý kiến mà HS góp ý, bổ sung. Sau khi sửa chữa, bổ sung, GV nêu đáp án để HS có thể so sánh, đối chiếu nhằm rút kinh nghiệm và tự đánh giá. Để tiết kiệm thời gian, GV có thể sử dụng các phương tiện DH khác như máy chiếu bảng phụ để trình bày đáp án. 2.3.3.2. Sử dụng PHT trong củng cố bài học Củng cố bài học là một khâu rất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình DH. Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, từ 3-5 phút, củng cố bài học nhằm giúp HS hệ thống lại kiến thức và khắc sâu những kiến thức cơ bản vừa lĩnh hội. Trong quá trình DH, khâu củng cố bài có thể được thực hiện bằng nhiều cách, như: GV đặt các câu hỏi theo logic của bài học và yêu cầu HS trả lời; cho một hoặc hai bài tập nhỏ để HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng vừa học; hệ thống lại bài học theo một sơ đồ; đưa ra hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để HS trả lời... Sử dụng PHT để củng cố bài học có nhiều ưu điểm và tác dụng tích cực. PHT có thể thể hiện được nhiều hình thức củng cố như: đưa ra hệ thống các câu hỏi tập trung vào những kiến thức cơ bản của bài học; những bài tập vận dụng; những sơ đồ, bảng điền kiến thức; hoặc hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm. Sử dụng PHT tạo điều kiện cho tất cả HS đều làm việc. Qua đó, GV có thể nắm được mức độ lĩnh hội kiến thức của từng HS một cách nhanh chóng và tương đối chính xác. Thông thường, sau khi kết thúc bài học, GV cho HS sử dụng PHT để củng cố bài theo các bước sau đây: Bước 1: Phát PHT GV phát cho mỗi HS một phiếu để kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức của mỗi HS. Bước 2: HS tự lực hoàn thành các nhiệm vụ trong PHT GV yêu cầu HS thực hiện các nhiệm vụ trong PHT. Vì mục đích là hệ thống và khắc sâu kiến thức cơ bản vừa lĩnh hội nên việc thực hiện sẽ nhanh hơn, GV không cần hướng dẫn HS làm việc với phiếu. Bước 3: Trình bày kết quả Khi HS đã hoàn thành PHT, HS không nhất thiết phải trình bày kết quả trước lớp. GV có thể thu phiếu để đánh giá mức độ nhận thức của HS sau giờ học. Sau đó trình bày đáp án. GV có thể vừa yêu cầu HS trình bày kết quả, vừa trình bày đáp án bằng cách trình chiếu từng vấn đề lên bảng rồi đề nghị HS trả lời, sau đó đưa ra đáp án. 51 GV có thể cho HS tự đánh giá kết quả lẫn nhau bằng cách: GV trình bày đáp án, HS trao đổi PHT để đánh giá kết quả của nhau dựa trên đáp án. Để đảm bảo tính khách quan khi HS tự đánh giá, GV có thể cho HS trao đổi PHT để đánh giá kết quả như sau: A đánh giá PHT của B, B đánh giá PHT của C,... E đánh giá PHT của A. Bước 4: GV nhận xét, đánh giá kết quả và nhấn mạnh lại một số nội dung cơ bản của bài. 2.4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phiếu học tập 2.4.1. Sử dụng công nghệ thông tin trong thiết kế và trình chiếu PHT Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hóa học đang được phổ biến rộng rãi. GV nên làm quen và khai thác tốt các thiết bị, phần mềm vào trong quá trình thiết kế và sử dụng PHT. Bởi vì những ưu điểm sau: - Sử dụng công nghệ thông tin trong thiết kế và sử dụng PHT có khả năng đem lại lượng thông tin phong phú, đa dạng, làm cho PHT trở nên hấp dẫn, sinh động. - Cung cấp thêm nhiều kiến thức thực tế mà SGK không truyền tải hết qua những âm thanh, hình ảnh. - GV dễ dàng cập nhật, sửa đổi, nâng cao chất lượng PHT theo thời gian. - Thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm. GV có thể dùng các phần mềm Microsoft Office Word để soạn thảo PHT hoặc phần mềm Microsoft Office PowerPoint để chiếu nội dung hoặc đáp án. GV biên soạn hệ thống PHT và lưu theo từng chương, khối lớp để thuận lợi trong việc giảng dạy. 2.4.2. Tận dụng cơ sở vật chất Hầu hết GV đều gặp phải những khó khăn trong quá trình thiết kế và sử dụng PHT. Trong đó, khó khăn mà không phải ai cũng khắc phục được là việc phải đầu tư nhiều công sức, in sao PHT rất tốn kém đối với mức thu nhập của người GV. Để khắc phục nhược điểm này, GV có thể tận dụng những vật dụng quen thuộc, rẻ tiền để thiết kế PHT như: mặt sau của các tờ lịch lớn, tranh ảnh để viết PHT. Tuy nhiên cần lưu ý cỡ chữ đủ lớn để tất cả HS trong lớp có thể theo dõi. 2.4.3. Gây hứng thú cho học sinh 2.4.3.1. Gây hứng thú bằng nội dung kiến thức trong PHT 52 Theo Từ điển Tiếng Việt, kích thích có thể hiểu theo hai ý: một là “tác động vào cơ quan xúc giác hoặc thần kinh” và hai là “làm cho hăng hái, thúc đẩy hoạt động mạnh mẽ hơn” [69, tr.841]; còn tư duy là “nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý” [69, tr.1703]. Theo chúng tôi, PHT kích thích tư duy là những PHT sử dụng những kiến thức hóa học nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật một cách mạnh mẽ hơn. Gây hứng thú bằng PHT là sử dụng PHT kích thích tư duy giúp HS chú ý, quan tâm đến chúng từ đó ham thích tìm hiểu để tự bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ. Gây hứng thú bằng PHT kích thích tư duy không những tạo được hứng thú cho HS mà còn rèn luyện cho các em khả năng vận dụng kiến thức đã biết, tìm tòi kiến thức mới. Những PHT kích thích tư duy được sử dụng trong tiết dạy không nhất thiết là phải có nội dung liên quan đến trọng tâm bài giảng mà chỉ cần nó kích thích được HS, gây hứng thú để các em có thể sẵn sàng tiếp thu những kiến thức mới. Khi gây hứng thú bằng việc sử dụng PHT, GV cần kết hợp những lời dẫn làm khơi dậy trí tò mò, ham hiểu biết của HS. 2.4.3.1. Gây hứng thú bằng hình thức của PHT PHT phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức môi trường sư phạm, bảo đảm tỉ lệ cân xứng, hài hòa, hấp dẫn sẽ tạo nên sự thích thú khi GV và HS sử dụng, kích thích tình yêu nghề, làm cho HS nâng cao cảm thụ chân, thiện, mỹ. Chính vì vậy, khi thiết kế PHT, ngoài nội dung thì GV cần phải chú ý đến hình thức của PHT. 2.4.4. Kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác 2.4.4.1. PP đàm thoại khi sử dụng với PHT PP đàm thoại là PP trong đó việc đối thoại giữa GV và HS được tiến hành trên cơ sở một hệ thống câu hỏi do GV soạn thảo nhằm dẫn dắt HS lĩnh hội hệ thống sự kiện, khái niệm và quy luật mới. PP đàm thoại kết hợp với PHT có tác dụng rất tốt đối với việc huy động vốn tri thức và kinh nghiệm đã có ở HS vào việc tìm tòi kiến thức mới, đồng thời khơi gợi ở HS tính tích cực suy nghĩ. Bên cạnh đó, nhờ vào phần trả lời của HS, GV có thể điều chỉnh được nội dung và PPDH của mình một cách kịp thời. PP đàm thoại được thể hiện ngay trong hệ thống các câu hỏi trong PHT và trong bước 2 hướng dẫn HS làm việc với PHT. Khi yêu cầu HS xác định những việc cần làm để hoàn thành PHT và khi đưa ra những gợi ý, hướng dẫn cho HS, GV có thể đặt các câu hỏi nhỏ 53 cho HS trả lời, qua đó các em sẽ xác định được những việc cần làm của mình và tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Các câu hỏi đàm thoại cần phải có dung lượng đủ lớn để có thể nhận thức vấn đề được trọn vẹn. Việc đặt quá nhiều câu hỏi nhỏ cho một đề tài sẽ làm mất đi logic thống nhất của vấn đề, còn câu hỏi quá lớn sẽ gây khó khăn cho việc thảo luận. Câu hỏi có chất lượng tốt cần bảo đảm các yêu cầu sau: Câu hỏi phải có mục đích rõ ràng nhằm vào việc giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, tránh hỏi chung chung, trả lời thế nào cũng được. Hạn chế những câu hỏi chỉ cần yêu cầu HS trả lời “có” hoặc “không”, “đúng” hoặc “sai”. Những câu hỏi này rất ít có tác dụng khơi gợi ở HS suy nghĩ tích cực. Câu hỏi phải bám sát vào những điểm chính, trọng tâm của bài học, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu bài học. Khi nêu câu hỏi cho HS, GV cần chú ý những điểm sau: - Nêu câu hỏi cho tất cả HS. Mọi HS đều hiểu yêu cầu của câu hỏi và suy nghĩ để tìm câu trả lời, mặc dù chỉ một số HS được gọi trả lời và phát biểu ý kiến bổ sung, nhận xét. - Khéo léo lôi cuốn sự chú ý của các HS khác khi chỉ có 1 HS trả lời, tránh biến việc hỏi – đáp với cả lớp thành hỏi – đáp tay đôi với một số HS. - Quan tâm đến tất cả HS trong việc gọi trả lời, tránh chỉ tập trung vào 1-2 HS trả lời các câu hỏi trong suốt cả tiết học. - GV phải thể hiện thái độ thân mật, cởi mở, tin tưởng và khích lệ HS trong khi đặt câu hỏi. Khi HS trình bày câu trả lời, GV cần chú ý: - Chăm chú lắng nghe ý kiến của HS, khích lệ sự trả lời và tôn trọng ý kiến của HS. Trong nhiều trường hợp, GV nên đặt câu hỏi phụ để gợi ý HS trả lời đúng vào câu hỏi chính. - Sau khi trả lời, GV cần có nhận xét, bổ sung, sửa chữa câu trả lời của HS. Những nhận xét của GV phải phù hợp với đặc điểm cá nhân, phê phán có tính xây dựng, khích lệ, không gây mặc cảm ở HS trả lời sai, phải chỉ rõ đúng, sai cụ thể, trân trọng mỗi ưu điểm của HS, tạo ra không khí tin cậy giữa thầy và trò, khuyến khích động viên sự cố gắng học tập ở HS. 2.4.4.2. PP thảo luận nhóm khi sử dụng với PHT 54 PP thảo luận là PP GV tổ chức cho HS, trao đổi với nhau về một nội dung học tập hay vấn đề nhận thức cần giải quyết. Trong PP này, HS giữ vai trò tích cực, chủ động tham gia trao đổi, thảo luận; GV giữ vai trò nêu vấn đề, hướng dẫn, gợi ý và tổng kết. Khi sử dụng PHT có thể cho HS thảo luận nhóm, quá trình thảo luận được tiến hành sau khi HS được phát PHT, tức là sau khi HS nhận nhiệm vụ được giao trong PHT. Tùy vào yêu cầu, nội dung và mục đích sử dụng PHT mà GV có thể tổ chức cho HS thảo luận theo lớp hoặc thảo luận nhóm. VD như PHT dùng để củng cố, kiểm tra việc nắm kiến thức của HS vào cuối tiết học thì nên cho HS thảo luận theo lớp, còn PHT dùng để dạy bài mới thì có thể cho HS thảo luận nhóm. Thảo luận lớp là hình thức thả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2014_05_28_4007402503_0054_1871465.pdf
Tài liệu liên quan