MỤC LỤC .0
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU .0
MỞ ĐẦU.1
1. Tính cấp thiết của đề tài.1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.7
7. Kết cấu của Luận văn.7
Chương 1 - CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG ĐẦU Tư CÔNG.8
1.1. Đầu tư công và tham nhũng trong đầu tư công.8
1.1.1. Khái niệm đầu tư công.8
1.1.2. Vai trò của đầu tư công.10
1.1.3. Khái niệm tham nhũng.11
1.2. Lý luận về thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư công.17
1.2.1. hái niệm phòng, chống tham nhũng.17
1.2.2. Khái niệm chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư công.19
1.2.3. Khái niệm, vai trò và các yêu cầu thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng
trong đầu tư công .22
Chương 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG ĐẦU Tư CÔNG Ở VIỆT NAM.33
2.1. Khái quát về tham nhũng trong đầu tư công ở Việt Nam.33
2.1.1. Thực trạng tham nhũng trong đầu tư công.33
2.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng trong đầu tư công .35
2.1.3. Những tác động của tham nhũng đến hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam .38
2.2. Tổng quan về thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư công ở
Việt Nam.43
102 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư công ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội.
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, việc giải quyết tốt chính sách xã hội nhƣ
vấn đề việc làm, tiền lƣơng, lao động, bảo hiểm đặc biệt thực hiện công
bằng xã hội có ý nghĩa quan trọng nhằm đáp ứng phần nào đời sống của nhân
dân. Tuy nhiên, trên thực tế, bản thân các chính sách xã hội khi ban hành
cũng hạn chế bởi yếu tố kinh tế nên vẫn còn có bất cập, kẽ hở. Tình trạng này
diễn ra phổ biến ở nhiều lĩnh vực của đầu tƣ công: Tình trạng tham ô, thất
thoát khi sử dụng nguồn vốn của dự án xóa đói, giảm nghèo cho các tỉnh miền
núi, nông thôn, trong việc thực hiện chính sách ngƣời có công với cách mạng.
Thứ ba, hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật chƣa thực sự hiệu quả.
Do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, xử lý chƣa nghiêm khắc, có sự
việc xử lý còn mang tính hình thức nhƣ cảnh cáo, phê bình nên chƣa mang
tính răn đe. Việc chấp hành kỷ luật cũng còn bị xem nhẹ. Ngƣời quản lý,
thanh tra, kiểm tra, điều tra cũng chƣa thật sự làm việc hiệu quả, vẫn mang
nặng tình trạng “báo cáo tốt”, còn có tình trạng bao che làm cho tệ tham
nhũng có cơ hội gia tăng, khó phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời. Bên
cạnh đó, do việc thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng ở nƣớc ta còn
chƣa hiệu quả, đồng bộ, các biện pháp phòng, chống tham nhũng còn rời rạc,
chƣa có hệ thống và về cơ bản chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phòng, chống tham
nhũng, thiếu một chƣơng trình phòng, chống tham nhũng lâu dài, tổng thể mà
chủ yếu chỉ tập trung vào giải quyết từng vụ tham nhũng nhỏ lẻ. Mặt khác,
các chính sách của nƣớc ta còn chƣa khuyến khích đủ mạnh toàn dân và cả hệ
38
thống chính trị cùng phòng, chống tham nhũng. Chung ta chƣa có cơ chế hữu
hiệu để bảo vệ những ngƣời phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên
dƣơng ngƣời đứng lên tố cáo tham nhũng hiện nay cũng chƣa phải là giải
pháp hữu hiệu để động viên toàn dân tham gia. Hơn nữa, ngƣời “đƣa hối lộ”
đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đƣa hối lộ” nên cũng hạn chế việc tố
cáo của nhân dân. Công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật còn nhiều
hạn chế, đây cũng là vấn đề cần đƣợc xem xét, bởi lẽ xuất phát từ bản chất tội
phạm khẳng định, ý thức pháp luật càng cao thì sự tuân thủ pháp luật càng tốt.
Từ đó, hiện tƣợng tham nhũng sẽ có chiều hƣớng giảm xuống.
2.1.3. Những tác động của tham nhũng đến hiệu quả đầu tư công ở
Việt Nam
Từ các lập luận về cơ sở tác động của tham nhũng tới đầu tƣ công, để
phân tích những tác động của tham nhũng đến đầu công, tác giả sử dụng dữ
liệu đầu tƣ công ở Việt Nam với câu hỏi: Liệu tham nhũng cao có làm tăng
quy mô đầu tƣ công, đồng thời giảm chất lƣợng đầu tƣ thể hiện thông qua
chất lƣợng cơ sở hạ tầng kém. Luận văn tiến hành kiểm định giả thuyết:
Giả thuyết 1: Khi các yếu tố khác không đổi, tham nhũng làm gia
tăng quy mô đầu tƣ công, tức là khi các yếu tố khác không đổi,với mức độ
tham nhũng lớn hơn chi phí đầu tƣ đƣợc kỳ vọng sẽ tăng cao hơn.
Để kiểm tra giả thuyết này, nghiên cứu thực hiện hồi quy theo phƣơng
pháp bình phƣơng nhỏ nhất (OLS) với dữ liệu của Việt Nam trong giai đoạn
2005-2015 theo phƣơng trình:
Dautucongt=β0+β1thamnhungt-1+β2log(GDP/ngƣời)t-1+ Ut(1)
Mô hình hồi quy gồm biến phụ thuộc là tỉ lệ vốn đầu tƣ công so với
GDP và biến giải thích là chỉ số nhận thức tham nhũng CPI (corruption
perception index). Chỉ số này đƣợc tổ chức Minh bạch quốc tế xây dựng dựa
trên thăm dò nhận thực của công chúng về mức độ minh bạch. Chỉ số có
39
thang đo từ 1 tới 10 với mức độ tăng dần của tính minh bạch tƣơng ứng tính
giảm dần của tham nhũng. Có nghĩa là tƣơng ứng với mức CPI cao là mức độ
tham nhũng ít hơn. Ngoài biến tham nhũng, biến phụ thuộc còn đƣợc giải
thích bởi biến kiểm soát khác là chỉ số GDP bình quân đầu ngƣời và Thu
ngân sách nhà nƣớc. GDP bình quân đầu ngƣời là biểu hiện của mức độ phát
triển kinh tế. Các mức độ phát triển kinh tế khác nhau thì nhu cầu về đầu tƣ
công là khác nhau. Thông thƣờng, mức độ phát triển kinh tăng tƣơng ứng với
yêu cầu đầu tƣ công tăng theo. Ngoài ra,thu ngân sách nhà nƣớc là nguồn tài
trợ cho đầu tƣ công. Thu ngân sách cao sẽ dễ dàng hơn cho việc tài trợ đầu tƣ
công. Tất cả các biến giải thích đƣợc tính tại thời điểm lùi một (01) năm so
với biến phụ thuộc để thể hiện độ trễ về mặt thời gian của các yếu tố giải thích
cho đầu tƣ công.
Giả thuyết 2: Khi các yếu tố khác không đổi, mức độ tham nhũng cao liên
hệ với chất lƣợng cơ sở hạ tầng thấp hơn.
Phân tích về chất lƣợng vốn đầu tƣ công cộng, một số nghiên cứu tiếp
cận dựa trên chỉ số ICOR, và tỷ lệ đóng của đầu tƣ vào GDP. Nghiên cứu
“Tóm tắt tình hình đầu tƣ công trong mƣời năm qua” của Vũ Tuấn Anh
(2010) đã chỉ ra rằng chỉ số ICOR của khu vực nhà nƣớc cao hơn so với khu
vực tƣ nhân, và tỷ lệ đóng góp của vốn đầu tƣ nhà nƣớc vào GDP trong giai
đoạn 2000–2010 cũng thấp hơn so với khu vực tƣ nhân. Điều này có nghĩa là
hiệu quả sử dụng vốn của khu vực nhà nƣớc thấp hơn của khu vực tƣ nhân.
Tuy nhiên, do đầu tƣ công tại Việt Nam đƣợc hiểu là tất cả các khoản đầu tƣ
do chính phủ hoặc các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nƣớc tiến hành, các
lĩnh vực đầu tƣ hƣớng mục đích phục vụ lợi ích nhƣng không nhằm mục đích
kinh doanh (Vũ Tuấn Anh, 2010). Các khoản đầu tƣ công hƣớng tới mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội lại thƣờng chỉ phát huy tác dụng trong trung hạn và
dài hạn. Do đó sử dụng các chỉ số ICOR và tỷ lệ đóng góp GDP khó có thể
40
đánh giá hiệu quả đầu tƣ công.
Một chỉ số khác có thể đƣợc sử dụng để phản ánh chất lƣợng vốn đầu
tƣ là chỉ số phát triển con ngƣời (HDI) có hàm chứa sự tăng trƣởng thu nhập,
giáo dục và y tế. Tuy nhiên độ trễ của tác động đầu tƣ công tới HDI là rất khó
xác định. Do đó, nghiên cứu sử dụng chất lƣợng cơ sở hạ tầng làm thƣớc đo
đại diện cho chất lƣợng đầu tƣ công của Việt Nam. Tuy nhiên ở Việt Nam,
không có các số liệu đo lƣờng chất lƣợng cơ sở hạ tầng cho cấp độ quốc gia,
do vậy nghiên cứu sử dụng chỉ số đo lƣờng chất lƣợng cơ sở hạ tầng tại các
tỉnh, thành. Dữ liệu này là chỉ số “chất lƣợng cơ sở hạ tầng” tính cho các tỉnh
thành trên cả nƣớc và đƣợc xây dựng từ cuộc điều tra nhận thức của các doanh
nghiệp bởi Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam(VCCI).
Cơ sở hạ tầng là một mảng quan trọng, chiếm tỉ lệ khá cao trong vốn
đầu tƣ công của Việt Nam. Khoảng 40% tổng số vốn nhà nƣớc trong mƣời
năm qua đƣợc dùng để phát triển cơ sở hạ tầng nhƣ điện, nƣớc, vận tải và
thông tin.
Thực tiễn chỉ ra rằng tham nhũng là phổ biến nhất trong lĩnh vực đầu tƣ
cơ sở hạ tầng. Các vụ tham nhũng nổi tiếng tại Việt Nam cũng thƣờng thấy
trong lĩnh vực đầu tƣ, xây dựng cơ bản nhƣ vụ: PMU18, vi phạm trong giải
phóng mặt bằng cầu Thanh Trì, vụ Đồng Quán Nam (Hải Phòng) Cũng theo
lập luận ở phần trên, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện dự án thông
qua cấu kết với các cán bộ tham nhũng có thể khai tăng giá vật tƣ, hoặc sử
dụng vật liệu chất lƣợng thấp nhằm “rút ruột” công trình. Hệ quả dẫn tới tổng
chi phí của dự án bị tăng trên mức cần thiết và chất lƣợng công trình bị giảm
sút. Dựa trên các cơ sở lập luận này, nghiên cứu của chúng tôi kì vọng sẽ phát
hiện sự gia tăng của chỉ số tham nhũng sẽ làm cho chỉ số đo lƣờng chất lƣợng
cơ sở hạ tầng suy giảm. Bằng phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất (OLS),
nghiên cứu hồi quy mô hình đơn giản có dạng sau:
41
CLCSHTi,t=β’0+β’1TNi,t-1 + log(Chidautui,t-1)+Ui (2)
Trong đó, CLCSHT là chỉ số đo chất lƣợng cơ sở hạ tầng của từng tỉnh;
TN là tham nhũng đƣợc tính là trung bình cộng của chỉ số “tính minh bạch”
và “chi phí không chính thức” trong dữ liệu Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI
(Provincial Competitiveness Index) của Phòng Thƣơng mại & Công nghiệp
Việt Nam (VCCI). Ngoài ra, biến chidautu cũng đƣợc sử dụng là một biến
kiếm soát đối với chất lƣợng cơ sở hạ tầng. Trong một chừng mực nhất định,
tăng chi tiêu cho đầu tƣ cũng có thể cải thiện chất lƣợng cơ sở hạ tầng. Các
biến giải thích cũng đƣợc lùi về thời điểm 1 năm so với biến độc lập. Các dữ
liệu đƣợc thu thập cho 42 tỉnh thành trên cả nƣớc, trong giai đoạn 2015-2016.
Nghiên cứu sử dụng số liệu biến Đầu tƣ công là tỉ lệ phần trăm đầu tƣ
công cả nƣớc so với GDP trong giaiđoạn 2005-2015. Số liệu đƣợc thu thập từ
dữ liệu của tổng cục thống kê (GSO). Số liệu GDP/ngƣời là thu nhập bình
quân đầu ngƣời đƣợc tổng hợp từ dữ liệu của Ngân hàng thế giới (WDI). Biến
tham nhũng là chỉ số nhận thức tham nhũng(CPI) đƣợc lấy từ Tổ chức Minh
bạch quốc tế (TI). Biến này có giá trị từ 0 đến 10 theo mức độ minh bạch tăng
dần, có nghĩa là với chỉ số CPI càng cao thì mức độ tham nhũng càng ít.
Ngoài ra, biến Tham nhũng cũng đƣợc sử dụng để phản ảnh mức độ tham
nhũng nhƣng ở cấp độ tỉnh thành. Biến số này đƣợc tính bằng trung bình cộng
của chỉ số “tính minh bạch” và“ chi phí không chính thức” đƣợc thu thập từ
dữ liệu PCI của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Nó
đƣợc tính theo điểm từ 1 đến 10 theo mức độ tính minh bạch tăng dần và chi
phí không chính thức giảm dần. Tƣơng tự nhƣ vậy, CLCSHT là chỉ số đo chất
lƣợng cơ sở hạ tầng của các tỉnh thành cũng đƣợc thu thập từ dữ liệu PCI. Chỉ
số này có thang điểm từ 0 đến 10 theo mức độ tăng dần của chất lƣợng hạ
tầng. Cuối cùng, chidautu đƣợc sử dụng nhƣ là chỉ số đo lƣờng đầu tƣ công
tại các địa phƣơng. Chỉ số này đƣợc thu thập từ quyết toán ngân sách các tỉnh,
thành nộp về Bộ Tài chính.
42
Phân tích kết quả hồi qy
Luận văn tiến hành hồi quy theo phƣơng pháp OLS phƣơng trình (1) và
(2), thu đƣợc kết quả nhƣ sau:
Bảng 2.1. Kết quả hồi quy phƣơng trình (1)
Dependent Variable: DAUTUCONG
Methods: Least Squares
Date: 15/9/2017 Time: 10:30
Sample (adjusted): 2005-2015
Included observations: 13
Excluded observations: 3 after adjusting endpoints
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob
C
LOG(GDPDAUNGUOI)
THAMNHUNG
-233.1074
17.48864
-11.06111
42.61041
2.896516
4.818088
-5.187407
6.010234
-2.205812
0.0006
0.0003
0.0508
R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat
0.818650
0.773345
1.995643
30.91368
-21.28154
2.151645
Mean dependent var
S.D. dependent var
Akaike info criterion
Schwarz criterion
F-statistic
Prob(F-statistic)
27.80236
4.129065
4.406612
4.524133
18.17112
0.001011
Nguồn: Kết quả hồi quy từ phần mềm Eview
Bảng 2.2. Kết quả hồi quy phƣơng trình 2
Dependent Variable: CLCSHT
Methods: Least Squares
Date: 15/9/2017 Time: 11:00
Sample: 1.84
Included observations: 84
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob
C
LOG (POP)
LOG(CHIDAUTU)
TN
-7.454569
0.518543
0.497759
0.433645
1.628856
0.193655
0.135830
0.125113
-4.55890
2.671145
3.633243
2.689153
0.0000
0.0092
0.0005
0.0082
R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat
0.451123
0.430711
0.815923
52.38009
100.1453
1.529521
Mean dependent var
S.D. dependent var
Akaike info criterion
Schwarz criterion
F-statistic
Prob(F-statistic)
5.121181
1.088763
2.478879
2.595492
21.93448
0.00000
Nguồn: Kết quả hồi quy từ phần mềm Eview
43
Từ bảng kết quả cho thấy, hệ số β1= -11.06 có nghĩa là khi chỉ số nhận
thức tham nhũng giảm 1 điểm (đồng nghĩa với sự thiếu minh bạch tăng và
tham nhũng cao hơn) sẽ làm cho quy mô đầu tƣ tăng khoảng11.06%. Kết quả
hồi quy này hoàn toàn tƣơng đồng với những lập luận về mối liên hệ giữa
tham nhũng và quy mô đầu tƣ công đã phân tích ở trên.
Ngoài ra khi đánh giá tác động của tham nhũng tới chất lƣợng cơ sở hạ
tầng, kết quả từ hồi quy phƣơng trình 2 cho thấy chỉ số Tham nhũng có quan
hệ cùng chiều với CLCSHT. Cụ thể, hệ số β’1 = 0.433 có nghĩa là khi biến
TN tăng 1 điểm (đồng nghĩa với tính minh bạch tăng, tham nhũng giảm) sẽ
làm cho chất lƣợng cơ sở hạ tầng cải thiện 0.433 điểm. Kết quả này khẳng
định rằng tham nhũng ảnh hƣởng tiêucực tới chất lƣợng cơ sở hạ tầng.
Nhƣ vậy, từ kết quả hồi quy hai phƣơng trình (1) và (2) có thể cho kết
luận rằng: Tham nhũng vừa làm gia tăng quy mô đầu tƣ công đồng thời làm
giảm chất lƣợng đầu tƣ (thể hiện thông qua chất lƣợng cơ sở hạ tầng). Có thể
khẳng định rằng, ở Việt Nam, dƣới ảnh hƣởng của tham nhũng, quy mô đầu
tƣ bị mở rộng trong khi chất lƣợng đầu tƣ bị giảm sút, dẫn tới lãng phí nguồn
lực.
2.2. Tổng quan về thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng
trong đầu tƣ công ở Việt Nam
2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách phòng,
chống tham nhũng trong đầu tư công
Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách phòng, chốn tham
nhũng trong đầu tƣ công có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, trên thực
tế, quá trình thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công,
nội dung này chƣa đƣợc chú ý đúng mức. Kết quả khảo sát tại Bộ Kế hoạch
và Đầu tƣ, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ, Sở Xây dựng Hà Nội và
44
Thanh Hóa cho thấy, việc xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách
phòng, chống tham nhũng chƣa đƣợc thực hiện hiệu quả. Với 300 phiếu khảo
sát, có 22,7% ý kiến ngƣời đƣợc hỏi cho rằng các cơ quan quản lý nhà nƣớc
về đầu tƣ công không xây dựng kế hoạch hoặc không có thông tin về việc xây
dựng kế hoạch thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng. Trong số các ý
kiến cho rằng các cơ quan quản lý đầu tƣ công có xây dựng kế hoạch thực
hiện chính sách phòng, chống tham nhũng thì có đến đến 76,3% ý kiến đƣợc
hỏi cho rằng, việc xây dựng kế hoạch thực thi chính sách phòng, chống tham
nhũng chƣa đƣợc xây dựng chi tiết và chƣa đƣợc thực hiện hiệu quả.
Kế hoạch thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng thƣờng không
xác định rõ các kết quả đầu ra và các biện pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện
kế hoạch. Bên cạnh đó, kế hoạch thực hiện chính sách phòng, chống tham
nhũng thƣờng không đƣợc xây dựng riêng mà lồng ghép chung vào kế hoạch
phòng, chống tham nhũng hàng năm. Chính vì vậy, việc giám sát, kiểm tra
thực hiện kế hoạch thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng còn gặp
nhiều khó khăn. Với quy mô khảo sát còn tƣơng đối hạn chế, có thể chƣa
phản ánh hết hiện trạng quá trình thực hiện chính sách phòng, chống tham
nhũng trong đầu tƣ công. Tuy nhiên, số liệu khảo sát cũng gợi lên những điều
đáng suy ngẫm về việc thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong
đầu tƣ công.
2.2.2. Phổ biến tuyên truyền chính sách phòng, chống tham nhũng
trong đầu tƣ công
Kết quả khảo sát cho thấy, công tác tuyên tuyền chính sách phòng,
chống tham nhũng trong đầu tƣ công đƣợc thực hiện với mức độ nhất định
trong các cơ quan quản lý nhà nƣớc. Nội dung tuyên truyền tập trung vào các
văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhƣ Luật Phòng,
chống tham nhũng, Chiến lƣợc quốc gia về phòng, chống tham nhũng, Luật
45
Đầu tƣ công, tuyên truyền về kế hoạch thực hiện chính sách phòng, chống
tham nhũng trong đầu tƣ công. Tuy nhiên, về hình thức và nội dung tuyên
truyền còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đƣợc đổi mới, nâng cao hiệu quả. Kết
quả khảo sát cho thấy, hình thức tuyên truyền còn tƣơng đối đơn điệu, chủ
yếu thông qua các cuộc họp và nội dung tuyên truyền còn tập trung vào việc
giới thiệu văn bản mà chƣa gắn kết chặt chẽ với các nội dung công việc cụ thể
mà cơ quan, đơn vị cần phải thực hiện. Chính vì vậy, hiệu quả tuyên truyền
chính sách mới dừng lại ở mức phổ biến chính sách, chƣa tạo ra sự chuyển
biến một cách sâu sắc về nhận thức và hành động trong thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng của toàn bộ cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó, phần lớn số ý kiến khảo sát (52%) cho rằng việc tuyên
truyền chính sách phóng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công mới dừng lại ở
việc tuyên truyền cho cán bộ, công chức. Việc tuyên truyền cho các tổ chức
và công dân còn nhiều hạn chế cả về nội dung và hình thức tuyên truyền. Mặc
dù ngƣời dân có thể tự tìm hiểu chính sách phòng, chống tham nhũng trong
đầu tƣ công. Tuy nhiên, sự tuyên truyền từ phía các cơ quan nhà nƣớc có
những ý nghĩa tích cực nhất định. Nó thể hiện sự cam kết, sự quyết tâm và sự
mong muốn thu hút sự tham gia của tổ chức và công dân trong việc thực hiện
các chính sách phòng, thống tham nhũng trong đầu tƣ công.
2.2.3. Phân công, phối hợp thực thi chính sách phòng, chống tham
nhũng trong đầu tư công
Quá trình thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ
công đƣợc thực hiện nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau với vai trò khác nhau.
Ở địa phƣơng, Thƣờng trực Tỉnh, thành ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh và Văn phòng Ban
Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng.
Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh chỉ đạo 100% các sở, ban,
46
ngành cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố, và các doanh
nghiệp có vốn của Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo phòng,
chống tham nhũng kiêm nhiệm. Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ chuyên
trách về phòng, chống tham nhũng nhƣ Thanh tra, Công an, Viện Kiểm sát,
Tòa án đều bố trí đầu mối thực hiện nhiệm vụ thanh tra công tác phòng,
chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tƣ công nhƣ các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực này.
Chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công quy định nội
dung phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc, điều tra, viện
kiểm sát, toà án trong đấu tranh chống tham nhũng nhƣ sau:
- Trao đổi thƣờng xuyên thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về công tác
phòng, chống tham nhũng;
- Chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền xử lý;
- Tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và kiến nghị chính
sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng.
Về sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán với cơ quan
điều tra, pháp luật phòng, chống tham nhũng quy định:
- Trong trƣờng hợp cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc chuyển hồ
sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan điều tra thì cơ quan điều tra phải tiếp nhận
và giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
- Trong trƣờng hợp không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan điều
tra thì cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc có quyền thông báo với viện
kiểm sát cùng cấp, cơ quan điều tra cấp trên.
Về phối hợp công tác giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc với
Viện kiểm sát, pháp luật phòng, chống tham nhũng quy định:
47
- Trong trƣờng hợp chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan điều
tra thì cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc có trách nhiệm thông báo cho
Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát.
- Trong trƣờng hợp cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nƣớc chuyển hồ
sơ vụ việc tham nhũng cho viện kiểm sát thì viện kiểm sát phải xem xét, giải
quyết và thông báo kết quả giải quyết bằng văn bản cho cơ quan đã chuyển hồ
sơ.
Các quy định nêu trên vừa quy định phƣơng thức phối hợp công tác
giữa các cơ quan chuyên trách trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, vừa
tạo cơ chế ràng buộc, giám sát lẫn nhau trong hoạt động của các cơ quan để
tránh tình trạng có thể bỏ lọt vụ việc tham nhũng trong quá trình thực hiện
thẩm quyền của các cơ quan này.
Chiến lƣợc quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 nhấn
mạnh việc tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách trong
phòng, chống tham nhũng, nhƣ: Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan,
đơn vị chuyên trách chống tham nhũng trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin,
tố cáo về tham nhũng, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng; tăng cƣờng
trang thiết bị, kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại. Nghiên cứu từng bƣớc áp dụng các
biện pháp, kỹ thuật điều tra đặc biệt với trình tự, thủ tục, điều kiện chặt chẽ
nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện hành vi tham nhũng.
Trên thực tế, công tác phối hợp khi thực hiện chính sách phòng, chống
tham nhũng trong đầu tƣ công còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, hoạt động đầu tƣ công bao gồm nhiều giai đoạn, liên quan
đến nhiều chủ thể khác nhau. Vì vậy, việc xác định khâu nào, giai đoạn nào
có tham nhũng đòi hỏi cần có sự phối hợp của các cơ quan.
48
Thứ hai, cơ chế phối hợp trong thực hiện chính sách phòng, chống
tham nhũng trong đầu tƣ công còn chƣa thực sự rõ ràng, chƣa phân định rõ
trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
Thứ ba, thiếu sự sẵn sàng của các cơ quan liên quan trong thực hiện
chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công.
2.2.4. Duy trì chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư
công
Hiện nay, hệ thống chính sách về chống tham nhũng nói chung phòng,
chống tham nhũng trong đầu tƣ công nói riêng đã ngày đƣợc bổ sung, hoàn
thiện. Từ hệ thống hành chính nhà nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ đã
ban hành 158 nghị định, 162 nghị quyết; 80 quyết định liên quan đến các biện
pháp phòng, chống tham nhũng trong đó có đề cập đến chính sách phòng,
chống tham nhũng trong đầu tƣ công. Việc duy trì sự quyết tâm trong thực
hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công đã đƣợc khẳng
định và ghi nhận trong thời gian qua. Kết quả khảo sát cho thấy, các ý kiến từ
phía cán bộ, công chức, doanh nghiệp và ngƣời dân có khoảng 30% ý kiến
đƣợc khảo sát cho rằng chính sách phòng, chống tham nhũng đƣợc duy trì
thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, cũng có gần 30% (27,8%) ý kiến đƣợc khảo
sát cho rằng việc duy trì chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ
công còn chƣa thực sự đảm bảo yêu cầu với các biểu hiện cụ thể nhƣ mức độ
quyết tâm thực hiện chính sách có phần giảm sút so giai đoạn đầu thực hiện,
mức độ quan tâm thƣờng xuyên đối với hiệu quả thực hiện chính sách chƣa
cao, có những sự không đồng bộ trong nỗ lực thực hiện chính sách phòng
chống tham nhũng ở các cơ quan có thẩm quyền và giữa các cấp chính
quyền Điều này ít nhiều ảnh hƣởng đến hiệu quả thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công.
49
2.2.5. Điều chỉnh chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tư
công
Việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ công
cần có những điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở mỗi ngành,
lĩnh vực đầu tƣ công. Tuy nhiên, trên thực tế, các ngành, lĩnh vực chƣa chú ý
đúng mức đến việc cụ thể hóa các biện pháp thực hiện chính sách phòng,
chống tham nhũng của ngành, lĩnh vực mình. Việc cụ thể hóa chính sách
phòng, chống tham nhũng gắn với ngành, lĩnh vực sẽ nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách. Bởi lẽ tham nhũng trong đầu tƣ công về xây dựng cơ bản sẽ
có sự khác biệt với đầu tƣ công trong các lĩnh vực nông nghiệp hay văn hóa, y
tế, giáo dục Về quy trình đầu tƣ công có thể tƣơng tự nhau nhƣng khả năng
xảy ra tham nhũng ở các lĩnh vực đầu tƣ công không hoàn tƣơng đồng nhau.
Với các lĩnh vực đầu tƣ công đƣợc ƣu tiên, việc đề xuất thực hiện dự án đầu
tƣ công có thể có những thuận lợi hơn với các lĩnh vực khác, vì vậy, mức độ
tham nhũng ở giai đoạn này có thể thấp hơn. Tham nhũng sẽ có nguy cơ cao
hơn ở giai đoạn thực hiện dự án đầu tƣ.
Việc điều chỉnh chính sách phòng, chống tham nhũng trong đầu tƣ
công còn thể hiện ở việc đổi mới, bổ sung, khắc phục các điểm khuyết trong
chính sách. Luật Đầu tƣ công đƣợc ban hành là một bƣớc tiến quan trọng
nhằm bảo đảm quá trình phân bổ vốn đƣợc thực hiện công khai, minh bạch,
đảm bảo công bằng giữa các bộ, địa phƣơng, không gây phiền hà và tạo
quyền chủ động cho các địa phƣơng, khắc phục cơ chế xin cho có thể làm
phát sinh tham nhũng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật và các văn bản
hƣớng dẫn cũng đang bộc lộ những hạn chế và cần phải điều chỉnh trong giai
đoạn tiếp theo. Những vƣớng mắc trong quá trình triển khai Luật, liên quan
đến 3 nhóm vấn đề, bao gồm: đối tƣợng dự án; trình tự, thủ tục; những vấn đề
còn chƣa thống nhất giữa các luật liên quan đến đầu tƣ công.
50
Trong 3 nhóm vấn đề này, phản hồi từ các bộ, ngành, địa phƣơng cho
biết, nhóm liên quan đến trình tự, thủ tục gặp nhiều vƣớng mắc nhất. Chẳng
hạn, trình tự, thủ tục phê duyệt quyết định chủ trƣơng đầu tƣ, trong đó, khâu
thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn chƣa đƣợc quy định rõ ràng,
trong một số trƣờng hợp đã tạo ra “vòng luẩn quẩn” trong lập kế hoạch đầu tƣ
công trung hạn. Luật quy định dự án phải có quyết định chủ trƣơng đầu tƣ
mới đƣợc bố trí vốn, trong khi việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối
vốn lại là điều kiện bắt buộc để ra quyết định chủ trƣơng đầu tƣ.
Trình tự, thủ tục đối với trƣờng hợp chủ đầu tƣ đề xuất tăng hoặc giảm
quy mô dự án; tăng, giảm tổng mức đầu tƣ của chƣơng trình, dự án, dù đã
đƣợc quy định tại Điều 46, Luật Đầu tƣ công và Nghị định 136/2015/NĐ-CP,
nhƣng lại chƣa quy định cụ thể đối với việc tăng tổng mức đầu tƣ từ phân loại
dự án nhóm C lên nhóm B, nhóm B lên nhóm A và ngƣợc lại... Điều này, có
thể dẫn tới tình trạng lách luật, né tránh các thủ tục của dự án nhóm trên, ảnh
hƣởng đến việc thẩm định, giám sát, có thể gây lãng phí, thất thoát nguồn v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_chinh_sach_phong_chong_tham_nhung_trong_d.pdf