Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU . 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH VÀ THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH . 10
1.1. Thủ tục hành chính . 10
1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính . 10
1.1.2. Phân loại thủ tục hành chính . 13
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục hành chính . 15
1.2. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa
liên thông. 25
1.2.1. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa . 25
1.2.2. Thực hiên thủ tục hành chính theo cơ chế một của liên thông . 27
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện thủ tục hành chính . 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI
PHƢỜNG TRẦN PHÚ, QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .
37 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện thủ tục hành chính của UBND phường - Qua thực tiễn phường Trần phú, quận Hoàng mai, tp. Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ
máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan HCNN
trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân [21].
Trong khoa học Luật hành chính Việt Nam có nhiều quan niệm khác
nhau về thủ tục hành chính, có quan niệm cho rằng “Thủ tục hành chính là
trình tự và cách thức thực hiện hoạt động hành chính nói chung, hoặc là trình
tự và cách thức thực hiện những hoạt động cụ thể trong các ngành và lĩnh
vực hoạt động hành chính và do luật hành chính quy định” [12]; người khác
12
quan niệm thủ tục hành chính là trình tự và cách thức thực hiện thẩm quyền
của các cơ quan hành chính nhà nước; theo Nghị định 63/2010/NĐ-CP, ngày
8/6/2010 của Chính phủ về Kiểm soát thủ tục hành chính có định nghĩa “thủ
tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc
cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”.
Theo quan niệm của tôi quan niệm thứ nhất là hợp lý hơn cả vì quan
niệm này đã khái quát được cả quy trình, cách thức của hoạt động hành
chính nhà nước, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật đối với trình tự và
cách thức của hoạt động đó.
Thủ tục hành chính khác với thủ tục lập pháp, tố tụng trong tư pháp và
các thủ tục khác bởi các đặc điểm sau đây: Thủ tục hành chính được luật
hành chính quy định chặt chẽ; thủ tục hành chính được thực hiện chủ yếu
ngoài trình tự Tòa án; các quy phạm thủ tục hành chính không chỉ quy định
thủ tục thực hiện quy phạm vật chất của ngành luật hành chính, mà cả quy
phạm vật chất của hầu hết các ngành luật khác [12].
Cũng theo Điều 8 của Nghị định này việc quy định một thủ tục hành
chính cụ thể chỉ hoàn thành khi đáp ứng đầy đủ các bộ phận tạo thành cơ bản
sau đây:
a) Tên thủ tục hành chính;
b) Trình tự thực hiện;
c) Cách thức thực hiện;
d) Hồ sơ;
e) Thời hạn giải quyết;
f) Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính;
g) Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính;
h) Kết quả thực hiện thủ tục hành chính;
13
i) Trường hợp thủ tục hành chính phải có mẫu đơn, mẫu tờ khai hành
chính; mẫu kết quả thực hiện thủ tục hành chính; yêu cầu, điều kiện;
phí, lệ phí thì mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính; mẫu kết quả thực
hiện thủ tục hành chính; yêu cầu, điều kiện; phí, lệ phí là bộ phận tạo
thành của thủ tục hành chính.
Những quy định của Nghị định này về thủ tục hành chính có những yếu
tố hợp lý, không hợp lý. Sự hợp lý được thể hiện ở quy định “ thủ tục hành
chính là trình tự, cách thức”, nhưng không hợp lý ở chỗ coi thủ tục hành
chính là “ hồ sơ”, “yêu cầu, điều kiện”, “hồ sơ”, thực chất chỉ là những cơ sở,
căn cứ để giải quyết các vụ việc do đó không thể đưa vào định nghĩa thủ tục
hành chính, mặc dù để giải quyết bất kỳ vụ việc nào theo yêu cầu của cá nhân,
tổ chức cũng đều đòi hỏi phải có hồ sơ vụ việc.
Từ những vấn đề nêu trên có thể định nghĩa: Thủ tục hành chính là
trình tự, cách thức thực hiên các quản lý hành chính nhà nước của các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan đó, nhưng chủ yếu là cơ
quan hành chính nhà nước.
1.1.2. Phân loại thủ tục hành chính
Phân loại: Việc phân loại TTHC trước hết là phục vụ các hoạt động
nghiên cứu và đào tạo trong khoa học hành chính, nhất là ngành luật hành
chính. Ngoài ra, phân loại TTHC còn có ý nghĩa đối với việc xây dựng, hoàn
thiện và áp dụng TTHC tại bộ máy chính quyền các cấp.
Kinh nghiệm thực tế của nước ta cũng như nhiều nước khác cho thấy
muốn xây dựng và áp dụng TTHC một cách có hiệu quả, thì cần phải phân
loại chúng một cách có khoa học.
Theo tác giả GS.TSKH.Nguyễn Văn Thâm thủ tục hành chính có thể
14
phân loại theo đối tượng quản lý hành chính nhà nước, theo công việc cụ thể,
theo chức năng cung ứng dịch vụ, và phân loại theo quan niệm công tác.
a) Phân loại theo đối tượng quản lý hành chính nhà nước nhà nước.
Theo cách phân loại này, các thủ tục hành chính được xác định cho
từng lĩnh vực quản lý nhà nước và được phân chia theo cơ cấu chức năng của
bộ máy quản lý hiện hành. Thí dụ: Thủ tục trong xây dựng cơ bản, thủ tục
đăng ký kinh doanh, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Việc phân chia này giúp cho người quản lý xác định được tính đặc thù
của lĩnh vực mà mình phụ trách. Từ đó đề ra yêu cầu xây dựng cho lĩnh vực
này những TTHC cần thiết, thích hợp, nhằm quản lý tốt các nhiệm vụ đặt ra
theo mục tiêu của nhà nước quy định.
b) Phân loại theo công việc cụ thể của cơ quan Nhà nước
Theo cách phân loại này, thủ tục hành chính có thể phân ra: Thủ tục
thông qua và ban hành văn bản trong các cơ quan; thủ tục xét duyệt và quyết
định về thi đua khen thưởng; thủ tục tuyển dụng cán bộ công chức, thủ tục
chuyển ngạch Mỗi loại hình thủ tục hành chính trên lại có thể phân chia
thành các loại thủ tục liên quan đến những hoạt động cụ thể hơn. Chẳng hạn
thủ tục ban hành văn bản có thể phân thành: Các Thủ tục ban hành văn bản
pháp luật, quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt.
Cách phân loại này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng bởi nó có thể giúp
người thừa hành công vụ và những người thi hành các thủ tục hành chính
trong thực tế định hướng theo công việc dễ dàng và chính xác hơn.
c) Phân loại theo chức năng cung cấp các dịch vụ công trong quản lý
Nhà nước.
Cách phân loại này giúp các nhà quản lý khi giải quyết công việc
chung có liên quan đến tổ chức hoặc công dân, tìm được các hình thức giải
15
quyết thích hợp theo đúng chức năng quản lý nhà nước của cơ quan. Chính
vì vậy mà cách phân loại này thường được áp dụng trong các cơ quan có
chức năng quản lý chuyên môn. Ví dụ: Thủ tục cung cấp các dịch vụ thông
tin; thủ tục cho phép xuất khẩu các nguyên liệu hiếm; thủ tục kiểm tra mức
độ an toàn lao động.
d) Phân loại dựa trên quan hệ công tác.
Theo cách phân loại này, có thể chia thủ tục hành chính thành 3 nhóm:
thủ tục nội bộ, thủ tục liên hệ và thủ tục văn thư.
+ Thủ tục hành chính nội bộ: Là các thủ tục liên quan đến quan hệ
trong quá trình thực hiện công việc nội bộ của các cơ quan, công sở trong hệ
thống cơ quan nhà nước và trong bộ máy nhà nước nói chung.
+ Thủ tục liên hệ: Là thủ tục thực hiện thẩm quyền tiến hành giải quyết
các công việc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của tổ chức,
công dân đối với Nhà nước.
Thủ tục liên hệ thực hiện thẩm quyền thường được thể hiện dưới một số
dạng như: thủ tục cho phép; thủ tục ngăn cấm hay cưỡng chế; thủ tục trưng
thu, trưng dụng.
+ Thủ tục văn thư: Là toàn bộ các hoạt động lưu trữ, xử lý, cung cấp
các loại giấy tờ và đưa ra các quyết định dưới dạng văn bản để phục vụ cho
việc giải quyết một công việc nhất định. Loại thủ tục này có liên quan chặt
chẽ với hoạt động văn thư và thường xuyên xảy ra trong hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước [11, tr.30].
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục hành chính
Đặc điểm: Mặc dù có nhiều thủ tục hành chính khác nhau nhưng do
tính thống nhất của quản lý hành chính nhà nước nên các thủ tục hành chính
có một số đặc điểm chung sau đây:
16
Thứ nhất, thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện các hoạt động quản lý
nhà nước hay thủ tục hành chính được thực hiện bởi các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước.
Các hoạt động quản lý diễn ra trong lĩnh vực nào được thực hiện theo
thủ tục pháp luật quy định trong lĩnh vực đó. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực
hành pháp (quản lý hành chính nhà nước ) được thực hiện theo thủ tục hành
chính. Quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội, cá nhân được nhà nước trao quyền, trong đó quan trọng
nhất phải kể đến các cơ quan hành chính, các cán bộ, công chức trong hệ thống
cơ quan này. Vì cơ quan hành chính có chức năng quản lý hành chính nhà nước
nên các chủ thể trong hệ thống cơ quan đó không chỉ thực hiện phần lớn các
thủ tục hành chính mà còn thực hiện những thủ tục liên quan đến các hoạt động
quản lý hành chính nhà nước quan trọng nhất. Ngoài cơ quan hành chính, các
cơ quan nhà nước khác cũng tiến hành các thủ tục hành chính khi thực hiện các
hoạt động quản lý hành chính nhà nước như khi các cơ quan đó xây dựng, củng
cố chế độ công tác nội bộ; các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện thủ tục hành
chính khi tiến hành các hoạt động quản lý hành chính nhà nước được Nhà nước
trao quyền trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Thứ hai, thủ tục hành chính do quy phạm pháp luật hành chính quy định.
Quy phạm pháp luật hành chính bao gồm quy phạm nội dung và quy
phạm thủ tục. Quy phạm nội dung trực tiếp quy định những quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý hành chính nhà nước nước;
quy phạm thủ tục quy định cách thức thực hiện nội dung (bao gồm quy phạm
nội dung luật hành chính và một số quy phạm nội dung của các ngành luật
khác như hôn nhân gia đình, đất đai, dân sự). Sở dĩ thủ tục hành chính phải
được quy phạm pháp luật hành chính quy định, vì:
17
- Các quan hệ thủ tục hành chính là đối tượng điều chỉnh của luật hành chính;
- Thủ tục hành chính do nhiều chủ thể tiến hành, muốn tạo ra được sự
thống nhất trong hoạt động quản lý tất yếu phải được thể hiện dưới dạng các
quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành.
- Thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến việc thực hiện thẩm quyền
của chủ thể quản lý nên cần tránh sự lạm quyền, lộng quyền hay không thực
hiện hết thẩm quyền.
- Nhiều thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết các công việc liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức nếu không được pháp luật
quy định đầy đủ và chặt chẽ thì sẽ khó khăn trong việc ngăn ngừa xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ ba, thủ tục hành chính có tính mềm dẻo, linh hoạt.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước vốn phong phú, đa dạng. Nội
dung và cách thức tiến hành từng hoạt động cụ thể chịu sự tác động của rất
nhiều yếu tố khác nhau như thẩm quyền, năng lực của chủ thể quản lý, đặc
điểm của đối tượng, quản lý, điều kiện, hoàn cảnh diễn ra hoạt động quản
lý Mỗi yếu tố đó lại chịu sự tác động đan xen phức tạp của các yếu tố kinh
tế, chính trị, văn hóa – xã hội khiến cho hoạt động quản lý hành chính nhà
nước trở nên hết sức sống động. Thủ tục hành chính với tính chất là cách
thức tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý đương nhiên phải linh hoạt
mới có thể tạo nên quy trình hợp lý cho từng hoạt động quản lý cụ thể. Do
vậy, không thể có một thủ tục hành chính duy nhất cho toàn bộ hoạt động
quản lý hành chính nhà nước mà có rất nhiều thủ tục hành chính. Thậm chí
để giải quyết một loại công việc nhất định cũng có thể cần các thủ tục hành
chính khác nhau.Ví dụ, pháp luật quy định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính là thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản. Việc định ra hai thủ tục
18
để xử phạt vi phạm hành chính vừa đơn giản, thuận tiện cho người xử phạt
và người bị xử phạt trong trường hợp có thể, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, có
cơ sở cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Mặt khác, so với thủ tục
lập pháp và thủ tục tư pháp, nhu cầu bãi bỏ thủ tục hành chính cũ, đưa ra thủ
tục mới, thay đổi các thủ tục đã có đặt ra khá thường xuyên đảm bảo thích
ứng với sự biến đổi linh hoạt quản lý. Khi xây dựng thủ tục hành chính nếu
nhận thức đúng đắn về đặc điểm này sẽ tạo ra sự linh hoạt, mềm dẻo cho
hoạt động quản lý kìm hãm quá trình phát triển xã hội. Sự cường điệu tính
linh hoạt của thủ tục một cách không cần thiết hoặc thay đổi thủ tục một
cách tùy tiện làm cho hoạt động quản lý thiếu ổn định.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại quá nhiều các loại thủ tục
ở nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí có nhiều loại không cần thiết. Điều đó
dẫn đến cản trở hoạt động của nền hành chính cũng như hoạt động của các
ngành, lĩnh vực liên quan, kìm hãm sự phát triển nền kinh tế của đất nước.
Một yêu cầu cấp thiết được đặt ra đó là phải rà soát, loại bỏ bớt các loại thủ
tục không cần thiết cũng như đổi mới quy trình giải quyết các TTHC, nói
cách khác chính là cải cách TTHC.
- Ý nghĩa, vai trò của thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm vật chất luật hành
chính và quy phạm vật chất của một số ngành luật khác được thực hiện trong
thực tiễn. Thủ tục hành chính càng đơn giản, càng tạo thuận lợi cho việc giải
quyết các công việc của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được thống nhất và có thể
kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do việc thực hiện
các quy định hành chính tạo ra.
Thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ
19
tạo khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được
thông qua, đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý Nhà nước. TTHC liên quan
đến quyền lợi của công dân do vậy khi được xây dựng và vận dụng tốt vào
đời sống sẽ có ý nghĩa rất thiết thực, giảm sự phiền hà, củng cố được quan hệ
giữa Nhà nước với nhân dân.
Các quy phạm thủ tục hành chính cũng là một bộ phận của pháp luật về
hành chính, nên việc xây dựng và thực hiện tốt các TTHC sẽ có ý nghĩa rất
lớn đối với quá trình xây dựng và triển khai pháp luật. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách nền hành chính
nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, thì TTHC lại càng có
vai trò quan trọng.
Nhìn một cách tổng quát, TTHC có ý nghĩa như một chiếc cầu nối quan
trọng giữa cơ quan Nhà nước với cá nhân, với các tổ chức khác. Chiếc cầu nối
này có khả năng làm bền chặt các mối quan hệ, làm cho Nhà nước ta thực sự
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng nếu xây dựng thiếu tính khoa
học, áp dụng tùy tiện vào đời sống thì chính TTHC sẽ làm xa cách dân với
Nhà nước và hậu quả của nó là làm niềm tin của người dân với chính quyền
tiếp tục bị giảm sút.
TTHC trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ văn
hóa của tổ chức. Đây là văn hóa giao tiếp trong bộ máy Nhà nước, văn hóa
điều hành. Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển.
Thủ tục hành chính là một bộ phận vô cùng quan trọng của thể chế hành
chính nhà nước với vai trò thiết lập trật tự trong quản lý hành chính nhà
nước trên các mặt, thủ tục hành chính là công cụ để cơ quan nhà nước sử
dụng thực hiện chức năng quản lý của mình. Chính vì lẽ đó, cải cách TTHC
sẽ không chỉ đơn thuần liên quan đến pháp luật, pháp chế XHCN mà còn
liên quan đến sự phát triển chung của đất nước về các mặt chính trị, văn hóa,
20
giáo dục và sự mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới.
Thực tế cho thấy ở Việt nam có quá nhiều các loại thủ tục với các tầng
nấc khác nhau mà thủ tục nào cũng rườm rà, sách nhiễu. Để giải quyết một
công việc nào đó người dân phải tốn rất nhiều thời gian, sức lực, thậm chí tiền
của mới có được. Chính những thủ tục rườm rà ấy góp phần tạo điều kiện cho
một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước có cơ hội để “hành dân”, khiến cho
nhân dân mất lòng tin và chính quyền.
Mặt khác, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhiều cơ
hội và thử thách; cùng với sự phát triển của đất nước, có rất nhiều lĩnh vực
mới ra đời, nhu cầu giải quyết các yêu cầu của người dân ngày càng tăng, các
loại TTHC cũng như quy trình giải quyết có từ lâu vốn đã quá rườm rà, phức
tạp, nay lại càng không phù hợp. Muốn thu hút đầu tư, muốn phát triển đất
nước thì TTHC càng phải đơn giản, thuận tiện nhưng cũng vẫn phải đảm bảo
tính pháp lý, chặt chẽ và đầy đủ.
Thủ tục hành chính có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà
nước và đời sống xã hội.
Thứ nhất, thủ tục hành chính đảm bảo cho các quyết định hành chính
được thi hành.
Thứ hai, thủ tục hành chính đảm bảo cho việc thi hành các quyết định
được thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như hệ
quả do việc thực hiện các quyết định hành chính tạo ra.
Thứ ba, thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách
hợp lý sẽ tạo ra khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý
đã được thông qua, đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý nhà nước.
21
Thứ tư, với tư cách là một bộ phận của thể chế hành chính, thủ tục
hành chính có ý nghĩa như một công cụ điều hành, mức độ văn minh của nền
hành chính. Do đó, cải cách thủ tục hành chính không chỉ liên quan đến pháp
luật, pháp chế mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước về
chính trị, văn hóa, giáo dục và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế.
Tóm lại, thủ tục hành chính là chiếc cầu nối quan trọng giữa Nhà nước
với nhân dân, làm bền chặt các mỗi quan hệ của quá trình quản lý, làm cho
Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Cải cách thủ tục hành chính đóng vai trò quan trọng trong cải cách
hành chính vì các lý do sau:
Thứ nhất, thủ tục hành chính có mỗi quan hệ biện chứng với các yếu tố
tổ chức và nhân sự. Muốn tổ chức hợp lý, phải có công chức đủ khả năng và
đúng tiêu chuẩn cũng như thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng. Ngược lại,
thủ tục rườm rà dẫn tới tổ chức sẽ phình to, thêm nhiều nấc dẫn đến hiện
tượng quan liêu; công chức có thêm nhiều cơ hội dựa vào quyền uy của Nhà
nước để hạch sách, gây khó khăn cho nhân dân, làm giảm uy tín của chính
quyền. Bộ máy quản lý nhà nước dù có giỏi đi nữa cũng không đương đầu nổi
với những khuyết điểm căn bản của thủ tục.
Cải cách thủ tục hành chính được coi là khâu đột phá của cải cách hành
chính, đó cũng là cách để khắc phục 5 yếu kém căn bản hiện nay:
- Bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới và xa cơ sở;
- Tình trạng phân tán, thiếu trật tự, kỷ cương trong hệ thống hành chính
và trong xã hội;
- Nạn tham nhũng và lãng phí của công;
- Bộ máy hành chính cồng kềnh, nặng nệ, vận hành kém hiệu quả;
22
- Đội ngũ cán bộ, công chức thiếu kiến thức, năng lực, một bộ phận
kém phẩm chất thậm chí hư hỏng.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính nhằm làm cho bộ máy quản lý
nhà nước thực hiện tốt 3 loại vấn đề:
+ Quan hệ căn bản giữa nhân dân và chính quyền trong quản lý
hành chính nhà nước nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính để tránh gây
những khó khăn không cần thiết, phí phạm tiền bạc, thời giờ, để phù hợp
với khả năng và trách nhiệm cả cơ quan hành chính, đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân.
+ Quyền lợi tương hỗ giữa người dân và chính quyền trong việc phát
triển kinh tế. Thủ tục hành chính gọn nhẹ sẽ cởi trói cho nhân dân, giải phóng
người dân thoát khỏi một hệ thống hành chính “nhiều giấy tờ, phức tạp”, nhờ
đó, nền hành chính cũng có điều kiện phát triển hơn. Phải làm sao phục vụ
dân tốt hơn vì nhân dân chính là tai mắt, là người nuôi dưỡng chính quyền.
+ Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính quyền. Cải cách thủ tục
hành chính nhằm giảm bớt các phương thức liên hệ trong quan hệ công tác,
quy định rõ mỗi quan hệ giữa các cơ quan, giữa Trung ương và địa phương.
Với những lý do đã phân tích ở trên thì cải cách thủ tục hành chính ở
Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết
định số 225/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2016-2020. Trong quyết định đã chỉ ra bảy nhiệm vụ của cải cách thủ
tục hành chính:
Một là: Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015; thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc quy định thủ tục
23
hành chính ngay từ khâu dự thảo; thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người
đứng đầu trong công tác cải cách thủ tục hành chính theo đúng Chỉ thị số
13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Hai là: Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí
tuân thủ thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội;
ưu tiên các thủ tục hành chính phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hành
chính trên một số lĩnh vực trọng tâm: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở;
thuế; hải quan; xuất khẩu; nhập khẩu; y tế; tiếp cận điện năng; quản lý thị
trường, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh
tế trong môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng, góp phần giải phóng
nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Mức độ hài lòng
của người dân, doanh nghiệp về giải quyết thủ tục hành chính đạt trên 80%
vào năm 2020.
Ba là: Tăng cường xây dựng và hoàn thiện các hình thức công khai,
minh bạch tất cả các thủ tục hành chính; chú trọng việc công bố thủ tục hành
chính thuộc phạm vi quản lý hoặc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành,
địa phương; công khai thủ tục hành, chính trên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ
tục hành chính và trên trang thông tin điện tử; niêm yết thủ tục hành chính tại
trụ sở cơ quan, đơn vị nơi trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính.
Bốn là: Triển khai thiết lập và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin
tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết
quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền.
Năm là: Xây dựng Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước; nghiên cứu, nhân rộng mô
hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính trên
phạm vi toàn quốc.
Sáu là: Tiếp tục tổ chức thực hiện có kết quả Đề án Tổng thể đơn giản
24
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến
quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020.
Bảy là: Tập trung cải cách thủ tục hành chính trong nội bộ các cơ quan
nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, dịch vụ công và các thủ tục hành chính
liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; triển khai thực hiện
đồng bộ, hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương.
Yêu cầu cải cách thủ tục hành chính
Trong quá trình xây dựng các TTHC mới, điều chỉnh các TTHC cần
tuân thủ một số yêu cầu sau:
Một là, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống TTHC: bộ máy các cơ
quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định thống nhất từ trung ương
đến địa phương để thực hiện chức năng hành pháp thì khi xây dựng các
TTHC là cơ sở thực hiện các chức năng này, thì cũng phải đảm bảo tính thống
nhất thành một hệ thống TTHC từ Trung ương đến địa phương.
Hai là, đảm bảo sự chặt chẽ của hệ thống TTHC: một trong những
nguyên nhân của sự tùy tiện giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước là
điều kiện làm cho các tệ quan liêu, cửa quyền phát triển, làm cho TTHC
rườm rà, chậm đi vào thực tế đời sống là do việc xây dựng và thực hiện
TTHC thiếu tính chặt chẽ. Do đó, quy trình xây dựng và thực hiện TTHC đảm
bảo đúng tính chặt chẽ, nghiêm khắc đúng theo pháp luật.
Ba là, bảo đảm tính hợp lý của TTHC: tính hợp lý của TTHC biểu hiện
ở nhiều khía cạnh về môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phải
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội.
Bốn là, TTHC phải đảm bảo tính rõ ràng và công khai: TTHC phải
25
được xây dựng rõ ràng theo trình tự từng bước từ quy trình xây dựng đến quy
trình thực hiện TTHC. Cụ thể như phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố cấu thành
thủ tục hành chính như: tên gọi, thành phần hồ sơ, chủ thể thực hiện, thời
gian, địa điểm thực hiện, yêu cầu điều kiện, cách thức thực hiện, phí
Và toàn bộ quy trình, quy định thực hiện TTHC cần phải công khai cho
mọi người dân được biết. Công khai bằng nhiều hình thức như trên các
phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết công khai tại cơ quan hành chính
nhà nước, trên Cổng thông tin điện tử
Năm là, TTHC phải dễ hiểu, dễ tiếp cận, đơn giản trong thực hiện
Sáu là, TTHC khi ban hành phải đảm bảo tính khả thi, phải áp dụng
hiệu quả trong thực tiễn giải quyết nhu cầu của công dân và kiểm soát hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong quá trình giải quyết công việc.
Bảy là, Các quy trình TTHC phải đảm bảo tính ổn định, sự ổn định của
các quy trình TTHC thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với nhân dân, thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Như vậy, cải cách thủ tục hành chính luôn là một nhân tố trọng yếu cả
cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính nhằm hướng tới tạo điều kiện
hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu đòi
hỏi của cá nhân, tổ chức một cách đơn giản, nhanh chóng nhất, cải cách thủ tục
hành chính hướng tới phục vụ con người, đảm bảo quyền con người, quyền
công dân, cải cách thủ tục hành chính không vì mục đích tự thân của nó.
1.2. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa
liên thông
1.2.1. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
Mô hình “Một cửa” cho đến nay đã được các cơ quan hành chính nhà
26
nước áp dụng trong phạm vi cả nước và Thủ tướng Chính phủ có quyết định
số 09/2015/QĐ – TTg( thay thế quyết định số 93/2007/QĐ-TTg): Ban hành
Quy chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương.
Một cửa về bản chất là việc giải quyết công việc của cơ quan hà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050007894_3078_2003043.pdf