LUẬN VĂN THẠC SĨ. i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
LỜI NÓI ĐẦU.1
1. Tính cấp thiết của đề tài.1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .5
5. Phương pháp nghiên cứu.5
6.Một số đóng góp của đề tài.5
7. Bố cục của đề tài.6
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI
VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ
DO THẾ HỆ MỚI.7
1.1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI.7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm .7
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới .10
1.1.3. Các nội dung cơ bản của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.13
1.1.4. Vai trò của các FTA thế hệ mới.17
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN LAO ĐỘNG TRONG
CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI.19
1.2.1. Mối quan hệ giữa thương mại và lao động.19
1.2.2. Sự cần thiết phải đưa các quy định về lao động vào trong các FTA thế hệ
mới .21
1.2.3. Nội dung cơ bản của các quy định về lao động trong các FTA thế hệ mới .24
1.2.4. Thực thi các quy định về lao động trong các FTA thế hệ mới .25
CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI CỦA VIỆT NAM.29
2.1. CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP VỀ LAO ĐỘNG .29
2.1.1.Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương .29
2.1.2. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu .35
2.1.3. Các cam kết về lao động trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tếASEAN .39
88 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/03/2022 | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực thi các quy định về lao động trong một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Thuận lợi và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử nhằm vô hiệu
hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động; bảo
đảm nghĩa vụ thương lượng thiện chí của người sử dụng lao động khi tiến hành thương
lượng tập thể với tổ chức của người lao động về tiền lương và các điều kiện lao động
khác cho người lao động.
Sau một thời gian chuẩn bị là 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực đối với
Việt Nam (tức là khoảng 7 năm kể từ khi ký Hiệp định), các tổ chức của người lao
động ở cấp cơ sở có thể gia nhập hoặc cùng nhau thành lập tổ chức của người lao động
ở cấp cao hơn như cấp ngành, cấp vùng theo đúng trình tự đăng ký được pháp luật quy
định một cách công khai, minh bạch. Tôn chỉ, mục đích, trình tự, thủ tục thành lập các
tổ chức của người lao động ở cấp cao hơn này cũng phải tuân thủ đầy đủ theo các quy
định của pháp luật Việt Nam, không trái với các tiêu chuẩn của ILO. Thời gian chuẩn
bị này là để Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như tổ chức bộ máy để bảo
33
đảm tốt nhất quyền lợi cho người lao động. Việc các nước dành một khoảng thời gian
hợp lý để Việt Nam chuẩn bị là việc chưa từng có tiền lệ, thể hiện uy tín của Việt Nam
trong việc thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế, trong đó có các cam kết về bảo
đảm điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động.
Thứ hai, CPTPP hàm chứa các nguyên tắc chung về điều kiện lao động “chấp
nhận được”
Tương tự các tiếp cận về việc làm thỏa đáng, CPTPP đặt ra yêu cầu tất cả các
thành viên đều có cam kết thêm về mức lương tối thiểu, giờ làm việc, các vấn đề về an
toàn và sức khỏe của người lao động trong các quy chế và quy định nội địa60. Đây là
lần đầu tiên những quy định này được ghi nhận rõ ràng trong một FTA như là một
quyền của người lao động. Tuy nhiên, CPTPP không quy định về tiêu chuẩn cơ sở cho
những vấn đề này, bởi vì chúng phải phụ thuộc vào chi phí lao động và những thay đổi
cần thiết tùy thuộc đặc điểm cũng như trình độ phát triển của từng quốc gia. Trong khi
đó các thành viên CPTPP có cách biệt đáng kể về nhiều mặt, đặc biệt giữa các quốc
gia đứng đầu như Nhật Bản, Canada hay Australia với các nước đang phát triển như
Việt Nam, Malaysia. Chính vì vậy, các nước thành viên không bị ràng buộc về cách
thức cũng như mức độ thực hiện quy định này.
Thứ ba, CPTPP đưa ra nhiều cơ chế để đảm bảo thực thi các quy định về lao động.
Các cơ chế đảm bảo thực thi được thể hiện từ các quy định mang tính chất
khuyến khích đến các quy định mang tính ràng buộc pháp lý cao. Cụ thể:
Về cam kết không vi phạm, các quốc gia thành viên CPTPP đã cam kết không từ
bỏ hoặc không được làm suy yếu hoặc suy giảm sự tuân thủ với các tiêu chuẩn lao
động trong 8 Công ước cơ bản của ILO cũng như về các điều kiện lao động có thể
chấp nhận được đối với mức lương tối thiểu, giờ làm việc và an toàn và vệ sinh lao
động nhằm mục đích thương mại hay thu hút đầu tư. Ngoài ra, CPTPP nhấn mạnh đến
phạm vi cam kết mở rộng ra cả khu vực hải quan đặc biệt như khu chế xuất, các khu
kinh tế - thương mại đặc biệt, nơi gây ra nhiều vấn đề quan ngại trong lao động. Đặc
biệt, TPP cũng nhấn mạnh đến việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp để
60 Điều 19.3.2, Hiệp định TPP.
34
đảm bảo rằng việc bảo vệ quyền lợi của người lao động được xuất phát từ chính những
hành động của doanh nghiệp – người sử dụng lao động.
Về cơ chế hợp tác, như trong các điều ước trước đây được ký kết giữa các thành
viên CPTPP, hợp tác được khẳng định là một khía cạnh quan trọng và mang tính quyết
định đến quá trình thực thi các cam kết về lao động. Do đó, CPTPP đã mở rộng nội
dung hợp tác bằng cách thiết lập các nguyên tắc hướng dẫn cho các hoạt động này, bao
gồm: sự phù hợp về năng lực và các hoạt động xây dựng năng lực; việc tạo ra thành
quả lao động đo lường được, tích cực và có ý nghĩa; bổ sung với các sáng kiến khu
vực và đa phương hiện hữu để giải quyết các vấn đề về lao động; sự minh bạch và tính
minh bạch và sự tham gia công khai61 (bao gồm sự hợp tác với các đối tác xã hội và
các tổ chức khác như ILO). Đây là một sự bước tiến quan trọng so với các hiệp định
hiện có. Điều này sẽ giúp cho hoạt động hợp tác hiệu quả hơn62.
Về cơ chế giám sát, CPTPP không có nhiều quy định về vấn đề này và tập trung vào
mục đích tăng cường minh bạch trong quá trình thực thi cam kết. Các thành viên phải đảm
bảo tiếp cận các thủ tục hành chính và xét xử công bằng, minh bạch; và cung cấp các biện
pháp khắc phục hậu quả đối với các vi phạm luật lao động của các nước thành viên
CPTPP. Ngoài ra, CPTPP cho phép sự tham gia của công chúng (public participation)
trong quá trình thực hiện, đồng hành cùng quốc gia của mình xây dựng các cơ chế để thu
thập ý kiến của công chúng và để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin63.
Bên cạnh đó, mỗi bên sẽ chỉ định một điểm liên lạc trong bộ lao động hoặc cơ
quan tương đương để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung lao động trong
CPTPP và để nhận, thụ lý và trả lời đơn thư của công chúng từ tất cả các quốc gia trong
CPTPP. Ngoài ra, CPTPP thành lập nên Hội đồng lao động bao gồm các đại diện chính
phủ theo chỉ định. Hội đồng họp trong vòng 1 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực64.
61 Điều 19.10.2, Hiệp định CPTPP.
62 Các tiếp cận của CPTPP về lao động tương tự như cách tiếp cận trong những Hiệp định thương mại tự
do Hoa Kỳ tham gia, trong đó có Hiệp định thương mại tự do Cộng hòa Dominican – Trung Mỹ – Hoa Kỳ
(Dominican Republic–Central America Free Trade Agreement CAFTA-DR). Theo Hiệp định này, hoạt động
phối hợp và nâng cao năng lực đã giúp thu hẹp được giữa văn bản pháp luật và trên thực tế. International Labour
Organization (a), tlđd, tr. 89-91.
63 Office of United States Trade Representative, tlđd, tr. 3.
64 International Labour Organization (a), tlđd, tr. 35.
35
Sau đó Hội đồng sẽ họp hai năm một lần, một Hội đồng Lao động được thành lập để
xem xét việc thực hiện chương lao động, từ đó đảm bảo hoạt động có hiệu quả65.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp, bên cạnh cơ chế đối thoại có thể sử dụng trong
bất kỳ thời điểm nào, các quốc gia thành viên của TPP có thể sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp để giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình
thực thi các quy định về lao động. Liên quan đến vấn đề này, CPTPP đưa ra cơ chế xử
lý thông qua các quy định tại Chương 28 về Giải quyết tranh chấp. Cơ chế này có giá
trị áp dụng cho mọi cam kết được ghi nhận trong Hiệp định, tuy nhiên, riêng lĩnh vực
lao động, cơ chế này được bổ sung một số tính năng đặc biệt, ví dụ như trong trường
hợp đệ trình công khai, người đệ trình phải nhận được phản hồi kịp thời kể cả bằng
văn bản nếu phù hợp66.
Đối với lĩnh vực lao động, CPTPP quy định 01 quy trình riêng để các thành viên
tham vấn bí mật với nhau ở cấp độ bộ trưởng bằng cách gặp trực tiếp hoặc bằng bất cứ
phương tiện kỹ thuật nào sẵn có và giải quyết vướng mắc liên quan tới việc thực thi
Chương Lao động trong khuôn khổ Hội đồng Lao động của TPP; chỉ khi tranh chấp
không thể giải quyết được theo quy trình này thì các nước TPP mới có thể sử dụng tới
quy trình Giải quyết tranh chấp Nhà nước – Nhà nước chung với các lĩnh vực khác
trong Hiệp định tại chương 2867. Nhìn chung, quy trình giải quyết tranh chấp chung
theo TPP mang tính cưỡng chế, bắt buộc và kèm theo xử phạt, khá tương đồng với cơ
chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO.
2.1.2. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu
2.1.2.1. Giới thiệu chung về Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên
minh châu Âu
EVFTA là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên
EU. EVFTA, cùng với CPTPP, là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam
kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay.
65 Trung Tâm Hỗ Trợ Phát Triển Quan Hệ Lao Động – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tlđd.
66 Điều 19.9.3, Hiệp định TPP.
67 Điều 19.15.13, Hiệp định TPP.
36
Hiệp định được kỳ vọng mang lại những lợi ích chưa từng có đối với doanh
nghiệp và người dân châu Âu và Việt Nam. Hiệp định sẽ giúp các công ty châu Âu ưu
tiên tiếp cận thị trường hơn 92 triệu người tiêu dùng, tăng đầu tư, tạo thêm việc làm,
thúc đẩy thương mại với một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á; các nhà
xuất khẩu Việt Nam cũng dễ tiếp cận thị trường châu Âu hơn
EVFTA khi được thực thi, nhất là việc dỡ bỏ thuế quan, xúc tiến đầu tư, thúc đẩy
công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, cải thiện quy tắc xuất xứ và chứng nhận xuất xứ; cải
thiện môi trường tạo thuận lợi thương mại - hỗ trợ kỹ thuật tăng cường nhận thức và
áp dụng những tiêu chuẩn của thị trường EU Cùng đó, EU sẽ đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao, là lĩnh vực tiềm năng được nhiều doanh nghiệp chờ đón, trong
đó, ngoài việc tập trung nguồn vốn còn đẩy mạnh chuyển giao công nghệ cao trong
sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội trở thành địa bàn trung chuyển, cửa ngõ kết
nối cho hoạt động thương mại và đầu tư của EU trong khu vực châu Á. Đầu tư mà
EVFTA hướng vào Việt Nam không chỉ nhằm vào sản xuất, xuất, nhập khẩu, mà còn
là dịch vụ viễn thông & công nghệ thông tin, kiến trúc & tư vấn kỹ thuật, dịch vụ môi
trường. Khi phát triển các dịch vụ này đạt trình độ quốc tế, Việt Nam sẽ tăng tốc trên
tiến trình nhập, bằng việc mở ra kênh huy động vốn đầu tư quốc tế; chuyển dịch cơ
cấu kinh tế; thúc đẩy chuyển giao công nghệ; bổ sung hàng cho thị trường nội địa;mở
mang xuất, nhập khẩu và hội nhập quốc tế; và tạo ra quá trình chuyển đổi từ một quốc
gia với lực lượng lao động tay nghề thấp sang tay nghề cao.
2.1.2.2. Các quy định về lao động trong Hiệp định Thương mại Tự do Việt
Nam – Liên minh châu Âu
Các tiêu chuẩn và thỏa thuận đa phương về lao động tại EVFTA là nội dung
được đưa vào trong chương Thương mại và Phát triển bền vững (gồm 17 điều). Như
vậy, khác với CPTPP khi nội dung về lao động được đề cập đến trong một chương
riêng, các quy định về lao động trong EVFTA nằm chung với các quy định về môi
trường trong chương về phát triển bền vững. Sự khác biệt này cũng thể hiện sự không
đồng nhất trong cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề phi thương mại giữa Hoa Kỳ và
Liên minh châu Âu.
37
Về cơ bản, các quy định về lao động trong EVFTA thể hiện một số nội dung cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, EVFTA dẫn chiến đến các nguyên tắc và các quyền lao động cơ bản
được đề cập đến trong Tuyên bố của ILO năm 1998 bao gồm: Tự do hiệp hội và
công nhận hiệu quả của quyền thương lượng tập thể; loại bỏ tất cả các hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc; bãi bỏ hiệu quả lao động trẻ em; và xóa bỏ phân biệt
đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Cam kết về vấn đề lao động trong EVFTA
nhằm thúc đẩy, khuyến khích sự tuân thủ các nguyên tắc trên, giúp cải thiện điều kiện
làm việc, tái sản xuất sức lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cụ thể,
người lao động sẽ có cơ hội cải thiện các quyền lợi hợp pháp của mình cả về thu nhập
tối thiểu, môi trường làm việc và môi trường sống, cũng như về cơ hội tham gia hiệp
hội và công đoàn, kể cả tìm kiếm cơ hội việc làm mới. Về điểm này, cả CPTPP và
EVFTA có điểm chung khi đều yêu cầu các quốc gia thành viên tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc và tiêu chuẩn lao động cơ bản của ILO.
Thứ hai, EVFTA đưa ra các quy định ít mang tính ràng buộc về các cơ chế
đảm bảo thực thi.
Có thể thấy, khác với TPP ở đó Hoa Kỳ “áp đặt” nhiều quy định mang tính ràng
buộc pháp lý cao, thì trong EVFTA, EUvà Việt Nam tập trung vào các quy định thực
thi mang tính chất khuyến khích và vào cơ chế giải quyết tranh chấp.
Về cơ chế đảm bảo thực thi mang tính khuyến khích, EVFTA không có bất kỳ
cam kết nào cho phép một bên được hưởng những ưu đãi khi tuân thủ các quy định
trực tiếp về lao động cũng như bị trừng phạt thương mại khi vi phạm các quy định này.
Cụ thể:
Về quy định không vi phạm, chương Thương mại và Phát triển bền vững trong
EVFTA ghi nhận các nguyên tắc cụ thể để tránh “cuộc đua đến đáy” trong lĩnh vực lao
động. Những nguyên tắc này ràng buộc mỗi bên không được vi phạm hoặc vô hiệu
pháp luật lao động trong nước để thu hút thương mại và đầu tư68. Đồng thời, mỗi bên
68 Điều 9, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
38
có quyền xây dựng những quy định trong lĩnh vực lao động và thiết lập những mức độ
bảo vệ vượt ra ngoài nhưng không thể thấp hơn tiêu chuẩn của ILO69.
Về cơ chế hợp tác, Liên minh châu Âu và Việt Nam cam kết hợp tác trong ít nhất
5 lĩnh vực liên quan tới lao động bao gồm: i) thương mại và phát triển bền vững tại các
diễn đàn quốc tế bao gồm cả ILO và ASEM, ii) trao đổi thông tin và thực tiễn liên
quan đến các phương pháp và các chỉ tiêu đánh giá tác động thương mại bền vững, iii)
tác động thương mại của nội quy lao động, định mức, tiêu chuẩn, cũng như tác động
về lao động của thương mại và các quy tắc đầu tư bao gồm sự phát triển của các chiến
lược và chính sách phát triển bền vững, iv) chia sẻ kinh nghiệm về việc thúc đẩy việc
phê chuẩn và thực hiện các Công ước cơ bản và các công ước khác trong khuôn khổ
ILO; vàv) các khía cạnh liên quan tới thương mại của chương trình Nghị sự Việc làm
thỏa đáng của ILO70. Bên cạnh đó, EVFTA cũng quy định cách thức để tiến hành hoạt
động hợp tác trên bao gồm hội thảo, chuyên đề, đào tạo và các cuộc đối thoại để chia
sẻ kiến thức, kinh nghiệm và thực hành tốt nhất; các nghiên cứu; hỗ trợ kỹ thuật và
xây dựng năng lực cho phù hợp71.
Về cơ chế giám sát, hoạt động giám sát thiết lập trong EVFTA chủ yếu dựa trên
vấn đề về đánh giá tác động bền vững. Theo quá, quá trình đánh giá có thể diễn ra độc
lập hoặc hai bên cũng nhau tham gia, dựa trên các chính sách, thông lệ, quy trình và
thể chế tương ứng72.
Với mục đích đảm bảo các cam kết được thực hiện và giám sát đầy đủ, các cấu
trúc thể chế chuyên môn được thiết lập thông qua hai kênh cơ bản là cơ quan chính
phủ và tổ chức dân sự tham gia độc lập, bao gồm các đối tác xã hội tại EU và Việt
Nam tham gia độc lập và cùng nhau73. Tuy nhiên, khác với CPTPP, EVFTA không
hàm chứa bất kỳ quy định cụ thể nào về đệ trình của công chúng. Do đó, cơ chế giám
sát trong EVFTA thiếu tính chặt chẽ hơn so với CPTPP.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp, điểm khác biệt cơ bản giữa EVFTA và CPTPP
về giải quyết tranh chấp lao động là trong EVFTA, Chương Giải quyết tranh
69 Điều 2, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
70 Điều 14.1. a, b, c, d, e, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
71 Điều 14.3, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
72 Điều 13, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
73 Điều 15, Chương 15, Hiệp định EVFTA.
39
chấpchung không áp dụng đối với các tranh chấp về lao động phát sinh từ việc giải
thích và áp dụng các quy định của Chương về Phát triển bền vững. Thay vào đó,
Chương về Phát triển bền vững hàm chứa Phụ lục I về Thủ tục giải quyết tranh chấp
trong trường hợp chưa xây dựng được thủ tục giải quyết tranh chấp riêng cho lĩnh vực
lao động. Quá trình này được tiến hành thông qua việc tham vấn và gây áp lực chính
trị mà không đưa ra bất kỳ biện pháp trừng phạt hoặc đình chỉ lợi ích thương mại cho
đối phương.
2.1.3. Các cam kết về lao động trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tếASEAN
2.1.3.1. Giới thiệu chung về Cộng đồng Kinh tế ASEAN
AEC là một khối kinh tế khu vực được hình thành trên cơ sở Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm 10 nưởc thành viên với dân số 600 triệu người và
GDP khoảng 2.000 tỷ USD, gồm: Brunây, Campuchia, Indonesia, Lào, Malayxia,
Mianma, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Từ năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đưa ra tầm nhìn ASEAN 2020 bao
gồm ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Năm 2007,
các nước ASEAN quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập AEC để đến năm 2015
chính thức ra mắt. Lúc đầu, ASEAN dự kiến sẽ thiết lập AEC vào ngày 01/01/2015
nhưng sau đó, do cần thêm thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, hội nghị cấp cao
ASEAN năm 2012 đã quyết định lùi thời điểm hình thành AEC vào cuối năm. AEC đã
chính thức ra đời vào ngày 31/12/2015.
AEC được thành lập nhằm mục đích tạo dựng một thị trường chung và cơ sở sản
xuất thống nhất trong cả khối ASEAN, thúc đẩy dòng lưu chuyển tự do của hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của AEC là thúc đẩy
phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tê có năng lực cạnh tranh
cao mà với năng lực cạnh tranh này, ASEAN có thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế
toàn cầu.
Bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành của AEC là:
- Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua: Tự
40
do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu tư; Tự do
lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
- Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính
sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ
tầng, thuế quan và thương mại điện tử.
- Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp
khoảng cách phát triển trong ASEAN.
- Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn
chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp
toàn cầu (WTO).
Một thị trường đơn nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất:
Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện để xây dựng một thị trường chung
và cơ sở sản xuất thống nhất bao gồm: dỡ bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan;
thuận lợi hóa thương mại, hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và quy
chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu, hoàn chỉnh
các quy tắc về xuất xứ, tạo thuận lợi cho dịch vụ, đầu tư, tăng cường phát triển thị
trường vốn ASEAN và tự do lưu chuyển hơn của dòng vốn, thuận lợi hóa di chuyển
lao động có tay nghề (di chuyển thể nhân) v.v., song song với việc củng cố mạng lưới
sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các
lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, cũng như
phát triển các kỹ năng thích hợp.
Các biện pháp thực hiện AEC đã và đang được các nước thành viên ASEAN
triển khai cụ thể thông qua các thỏa thuận và hiệp định quan trọng như Hiệp định Khu
vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN
(ATIGA), Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS), Hiệp định khung về Khu vực
Đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA), Hiệp định
khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO), Lộ trình Hội nhập Tài chính và Tiền
tệ ASEAN, v.v.
41
- Tự do hoá thương mại hàng hoá: Cho đến nay, ASEAN đã cơ bản giảm được
thuế quan cho các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về từ 0-5% từ năm 2010 đối với
6 nước thành viên ban đầu và vào 2015 với 4 nước thành viên mới, hình thành nên một
thị trường mở không còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa. Để hỗ trợ tự do hoá
thương mại, ASEAN đang nỗ lực đưa vào hoạt động Cơ chế hải quan 1 cửa ASEAN
(ASEAN Single Window-ASW) và các quy định về áp dụng chứng nhận xuất xứ cho
hàng hoá có nguồn gốc từ ASEAN để đủ điều kiện hưởng các ưu đãi về thuế quan, trong
đó ASEAN đang nghiên cứu tiến tới việc cho phép các doanh nghiệp tự chứng nhận
xuất xứ, cùng với việc hài hoà hoá các quy định về hợp chuẩn hàng hoá v.v.
Về tự do hoá dịch vụ, ASEAN đã hoàn tất Gói 9 cam kết dịch vụ theo Hiệp định
Khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS) trong năm 2013, tạo thuận lợi cho việc luân
chuyển dịch vụ trong khu vực. Tới nay, các cam kết về tự do hoá dịch vụ trong
ASEAN đã bao trùm nhiều lĩnh vực như dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp,
xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, vận tải biển, viễn thông và du lịch. Có 4
gói cam kết về dịch vụ tài chính và 6 gói cam kết về vận tải hàng không đã được ký
kết. Các thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) giữa các nước thành viên ASEAN về
tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp v.v. là một công cụ quan trọng giúp tự do
hoá lưu chuyển các dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Tới nay, các nước ASEAN
đã ký các thoả thuận công nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn, kỹ năng các ngành
dịch vụ cơ khí, y tá, kiến trúc, kế toán và du lịch.
- Về tự do hoá đầu tư, trong khuôn khổ Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN
(ACIA), ASEAN hướng tới hình thành một điểm đến đầu tư hấp dẫn ở khu vực, với cơ
chế đầu tư thông thoáng và mở, bao gồm tự do hoá đầu tư trên các lĩnh vực chính như
sản xuất-chế tạo, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng và các dịch vụ
phụ trợ cho các ngành này. Danh mục các lĩnh vực mở cửa cho đầu tư còn được tiếp
tục bổ sung trong thời gian tới. Các nỗ lực tự do hoá đầu tư của ASEAN không chỉ
giúp tạo dựng và nâng cao niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài với khu vực ASEAN,
mà còn góp phần thúc đẩy đầu tư nội khối cũng như đầu tư của các tập đoàn đa quốc
gia trong khu vực.
Nhằm xây dựng một khu vực cạnh tranh về kinh tế, ASEAN thúc đẩy chính sách
42
cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng như hệ
thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, năng lượng, phát triển thương mại điện tử v.v.
Hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đồng đều, ASEAN đã thông qua và đang
triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED), trong đó
đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các nước thành viên mới, khuyến khích sự phát
triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng
và triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6 Hiệp định Khu
vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các Đối tác quan trọng là Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, và đang trong quá trình đàm
phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) hướng đến hình thành một
không gian kinh tế mở toàn Đông Á vào năm 2015, với GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn
cầu và quy mô thị trường chiếm ½ dân số thế giới.74
2.1.3.2. Các quy định về lao động trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế
ASEAN
Chính sách về lao động nổi bật tại AEC là cho phép dịch chuyển tự do đối với
lao động có trình độ cao trong 8 nhóm ngành nghề: Kế toán, kiến trúc sư, kỹ sư, nha sĩ,
bác sĩ, điều dưỡng, giám sát viên và du lịch.8 nhóm ngành nghề này tuy chỉ chiếm số
lượng rất nhỏ (1%) trong tổng số lao động dịch chuyển trong ASEAN nhưng đều là
những công việc có khả năng đạt được mức thu nhập cao. Lao động được ưu tiên dịch
chuyển là lao động có tay nghề, chuyên gia và người có chuyên môn.
Theo số liệu năm 2013, tổng số di chuyển lao động trong nội bộ các nước
ASEAN là 6,5 triệu người, trong đó, tỷ lệ lao động từ các nước ASEAN chỉ chiếm
34,6%. ASEAN có ba quốc gia là điểm đến chính của lao động nhập cư đó là
Malaysia, Singapore, và Thái Lan (chiếm gần 90%). Tại Malaysia, 42,6% lao động
nhập cư từ Indonesia. Tại Singapore, 45% lao động nhập cư là từ Malaysia. Tại Thái
Lan, 50,8% lao động nhập cư là từ Myanmar.
74Bộ Ngoại giao – Ban Thư ký ASEAN Quốc gia Việt Nam, “Cộng đồng Kinh tế ASEAN”, xem tại:
asean.mofa.gov.vn/thong-tin/13/cong-dong-kinh-te-asean-aec.html (truy cập ngày 15/10/2018).
43
Hình thành AEC sẽ giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động hơn, thúc
đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Theo dự báo của Tổ chức Lao động thế
giới (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm
2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều nên hiện nay, lao động có tay
nghề và kỹ năng cao trong khối chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia
và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao
động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng.
2.2. CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU CHỈNH GIÁN TIẾP VỀ LAO ĐỘNG
Bên cạnh các quy định điều chỉnh trực tiếp về lao động trong chương lao động
hoặc chương về phát triển bền vững của các FTA thế hệ mới, vấn đề về lao động còn
có thể được điều chỉnh gián tiếp thông qua các quy định trong thương về thương mại
dịch vụ, đầu tư hoặc thông qua các ngoại lệ chung.
2.2.1. Các quy định về dịch vụ hoặc đầu tư liên quan đến lao động
Dù các quy định về đầu tư và dịch vụ trong CPTPP hay EVFTA không điều
chỉnh trực tiếp vấn đề lao động, nhưng hàm chứa một số quy định mà khi thực thi, có
thể ảnh hưởng đến lao động và việc làm, từ đó, ảnh hưởng đến việc áp dụng các tiêu
chuẩn lao động cho người hưởng lợi. Có thể kể đến một số quy định cụ thể như:
Thứ nhất, quy định về nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh trong
CPTPP
CPTPP dành các quy định tại chương 12 để điều chỉnh vấn đề nhập cảnh tạm thời
cho khách kinh doanh, nói cách khác, cho người quản lý, người lao động, người cung
cấp dịch vụ trong khuôn khổ các cam kết mở cửa dịch vụ và đầu tư được thể hiện
trong Chương 9 về đầu tư, Chương 10 về dịch vụ xuyên biên giớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_thi_cac_quy_dinh_ve_lao_dong_trong_mot_so_hiep.pdf