Nhận diện vềhành vi trong tâm lý người là một việc khó, nhận diện hành vi
đạo đức lại càng khó hơn. Đặc biệt khi chúng ta cần tìm hiểu hành vi đạo đức của
SVSP trong nhiều hoạt động, nhiều mối quan hệkhác nhau thì đòi hỏi cần phải có
nhiều phương pháp nghiên cứu đểthu nhận ý kiến. Những sốliệu từbảng khảo sát
chỉlà một phần kết quảtự đánh giá của SVSP trước những tình huống tiêu biểu mà
chúng tôi đưa ra, chưa thểphản ánh hết được thực trạng vềhành vi. Một sốbiểu
hiện trong khi phỏng vấn và quan sát cũng được chúng tôi ghi nhận một cách tương
đối.
130 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5006 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững khó khăn lớn (trong đó có cả vấn đề kinh tế) là điều
đáng phân vân”.
2.4.2. So sánh giữa các nhóm khách thể điều tra về thái độ đạo đức
a. Về giới tính, kết quả xử lý cho thấy không có sự biệt đáng kể giữa
nam và nữ sinh viên về thái độ đạo đức. (xem thêm bảng 21, Phụ lục 1)
Tuy nhiên, trong quan hệ xã hội, các bạn nam đồng tình cao ở giá trị
“chấp hành luật pháp” và “giữ gìn nơi công cộng”, “trung thực trong quan hệ
với bạn bè” hơn so với các bạn nữ về ba giá trị này.
Trong khi đó, giá trị “chấp nhận hy sinh vì bạn bè” tỉ lệ đồng tình ở nam
thấp hơn so với nữ sinh sư phạm.
b. Về xuất thân gia đình, các giá trị đạo đức trong mối quan hệ “với bản
thân” và “với học sinh” được sinh viên có hộ khẩu tại TPHCM hướng đến
nhiều hơn so với các sinh viên có hộ khẩu từ tỉnh khác (2.36, 2.58). Đặc biệt,
với giá trị “học hỏi từ phía học sinh” thì sinh viên tại TPHCM có thái độ tích
cực hơn hẳn sinh viên ngoài TPHCM (2,84). Trong những cuộc trò chuyện,
chúng tôi cũng nhận thấy sự cởi mở, chân thành của các bạn sinh viên thành
phố. Các bạn nói: “người thầy phải đồng thời là người anh, và người bạn của
học trò thì mới được”.
Còn những giá trị với xã hội và với bạn bè, SVSP đến từ các tỉnh khác có
cái nhìn tích cực hơn, cụ thể là “lòng biết ơn thế hệ trước”, “lòng tự hào dân
tộc” và “tính trung thực trong bạn bè” (xem chi tiết ở bảng 22, Phụ lục 1).
c. Về trình độ đào tạo, sinh viên năm đầu có thái độ tích cực hơn so với
sinh viên năm cuối ở những giá trị “biết ơn thế hệ trước”, “thương người”,
“trung thực trong học tập”, “khiêm tốn” và “tận tâm với nghề sư phạm” (xem
bảng 23, Phụ lục 1). Một lần nữa chúng ta lại thấy thời gian đào tạo ở các
trường sư phạm chưa góp phần bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức cho sinh
viên, nếu không muốn nói là giảm sút.
Khi trò chuyện với sinh viên năm nhất chúng tôi nhận thấy họ rất tha
thiết đối với những chuẩn mực tốt đẹp của thế hệ cha ông, của truyền thống
nghề dạy học… nhưng khi đi sâu hơn, các bạn thổ lộ rất thật “bây giờ thì
chúng em nghĩ như vậy, nhưng không biết qua 4 năm học ở đây chúng em có
còn những suy nghĩ ấy không, hay cũng hiện đại và sống thoải mái như những
anh chị khóa trước (!)”. Còn những sinh viên năm cuối cũng không giấu giếm
“lúc mới vào trường, còn nhiều hoài bão tốt đẹp lắm, nhưng giờ thì phải thực
tế hơn rồi”, và còn nữa “em rất thích đi dạy, nhưng nếu đồng lương quá eo
hẹp thì em đành phải làm công việc khác để nuôi thân thôi”.
d. Về trường đào tạo, kết quả thống kê (ở bảng 24 ,Phụ lục 1) cho thấy:
- Sinh viên trường CĐSPMG có thái độ tích cực hơn đối với đa số
các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ, nhất là các giá trị trong quan
hệ với xã hội, với cộng đồng.
- Sinh viên trường ĐHSPKT thì đề cao tính “trung thực” trong tình
bạn và rất quan tâm đến thái độ “thẳng thắn góp ý với thầy cô”. Những
biểu hiện này cho thấy phần nào tính đặc thù về “kỹ thuật” lấn áp tính
“sư phạm” trong nghề nghiệp của họ. Đó cũng là hiện trạng đáng chú ý
trong mục tiêu định hướng giá trị cho sinh viên trường ĐHSPKT. Một
giáo viên dạy môn nghiệp vụ sư phạm trong trường đã nói: “tình cảm với
nghề dạy học của SVSP còn chưa được rõ ràng lắm, khi dạy các môn
nghiệp vụ chúng tôi thấy rõ điều đó, các em học theo lối đối phó và
không tự tin khi nghĩ mình ra trường sẽ theo nghiệp dạy học”.
- Điểm đáng lưu ý hơn cả là sự mờ nhạt về biểu hiện thái độ đạo
đức của sinh viên ĐHSP và CĐSP (nay là Đại học Sài Gòn cùng với
trường THSPMN), đặc biệt là trường ĐHSP TPHCM, một trong số các
trường đại học sư phạm trọng điểm của cả nước.
Khi chúng tôi hỏi một số sinh viên ĐHSP: “những điều đáng lo
ngại của đạo đức sinh viên trường chúng ta” họ tìm cách lảng tránh, hoặc
lắc đầu. Chúng tôi chỉ thu được một số ý kiến như “SVSP đã bắt đầu có
dấu hiệu tham gia vào các tệ nạn xã hội, dưới con mắt khắt khe của một
giáo viên tương lai thì tôi không thể chấp nhận điều đó’, hoặc “Ngày
20/11 hàng năm chỉ là dịp để chúng em… tổ chức các sự kiện, chương
trình cho chính mình”, “tình bạn ngày nay đa phần chỉ là đáp ứng nhu
cầu được chia sẻ khó khăn, hoặc… nhờ vả nếu có thể được”, hay “sinh
viên ngày nay phải luôn biết thể hiện bản lĩnh của chính mình, khiêm tốn
quá là thiệt thòi”.
Ý kiến của một số giáo viên trường CĐSP giải thích về thái độ đạo
đức sinh viên trường mình: “Do đầu vào là sinh viên cao đẳng nên rất ít
các bạn sinh viên thiết tha với nghề dạy học”, “sự biến động của các
ngành nghề trong xã hội phần nào cũng nâng cao vị thế của người giáo
viên, nhưng lại cũng là cơ hội rõ ràng để các SVSP so sánh sự hơn kém
về giá trị vật chất của nghề đem lại”.
Tóm lại, về thái độ đạo đức của sinh viên sư phạm nhìn chung đều mang tính
tích cực khá cao. Nổi bật trong đó là các giá trị đạo đức trong mối quan hệ xã hội.
Mặt khác, các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bản thân chưa được đánh giá
cao lắm từ phía các sinh viên sư phạm. Nam sinh viên thể hiện thái độ tương đối tốt
hơn so với nữ sinh viên trong một số phẩm chất đối với xã hội và bạn bè. Các sinh
viên đến từ TPHCM có thái độ tương đối tích cực hơn các sinh viên đến từ các tỉnh
khác trong các mới quan hệ với thầy cô giáo, với nghề sư phạm. Vẫn có sự trội hơn
về thái độ của những sinh viên năm đầu về nhiều mặt. Cuối cùng, biểu hiện của các
sinh viên trường CĐSPMG vẫn cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến các thái độ đạo
đức, đặc biệt là so với các sinh viên trường ĐHSP.
2.5. Hành vi đạo đức của SVSP ở TPHCM
Tìm hiểu hành vi đạo đức của SVSP, chúng tôi, một mặt căn cứ vào kết quả
thăm dò về tự đánh giá của sinh viên, mặt khác chúng tôi dựa vào kết quả xử lý tình
huống trong các mối quan hệ khác nhau ở sinh viên (mỗi tình huống sẽ đại diện cho
một giá trị đạo đức mà SVSP cần có trong định hướng của mình) kết hợp với kết
quả phỏng vấn và quan sát.
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên tự đánh giá hành vi đạo đức của mình ở
mức khá cao (2.7). Điều này cho thấy hành vi đạo đức của SVSP khá phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức đã lựa chọn.
2.5.1. Kết quả chung về tự đánh giá hành vi đạo đức
Nhận diện về hành vi trong tâm lý người là một việc khó, nhận diện hành vi
đạo đức lại càng khó hơn. Đặc biệt khi chúng ta cần tìm hiểu hành vi đạo đức của
SVSP trong nhiều hoạt động, nhiều mối quan hệ khác nhau thì đòi hỏi cần phải có
nhiều phương pháp nghiên cứu để thu nhận ý kiến. Những số liệu từ bảng khảo sát
chỉ là một phần kết quả tự đánh giá của SVSP trước những tình huống tiêu biểu mà
chúng tôi đưa ra, chưa thể phản ánh hết được thực trạng về hành vi. Một số biểu
hiện trong khi phỏng vấn và quan sát cũng được chúng tôi ghi nhận một cách tương
đối.
Trước tiên xét về kết quả tự đánh giá hành vi từ phiếu khảo sát, chúng tôi dựa
vào điểm trung bình điều hòa để phân tích. Với 3 hình thức đánh giá tương ứng với
3 thang điểm tích cực: mức 3, phân vân:mức 2, tiêu cực:mức 1, chúng tôi nhận thấy
tất cả các tình huống đưa ra đều được sinh viên tự đánh giá trên mức phân vân (thấp
nhất là 2.2 và cao nhất là 2.92 – xem bảng 25, Phụ lục 1). Điều này có nghĩa là
SVSP đã lựa chọn các hành vi đạo đức tích cực trong các mối quan hệ.
Bảng 2.5.1 là sự tổng hợp những hành vi đạo đức tích cực cao nhất và những
hành vi đạo đức tích cực thấp nhất của SVSP trước các tình huống đạo đức khác
nhau.
- Các hành vi đạo đức tích cực được SVSP lựa chọn nhiều nhất thuộc mối
quan hệ với học sinh (xem thêm bảng 26, Phụ lục 1). Đây sẽ là những định hướng
tốt trong giao tiếp và ứng xử với học sinh trong nghề nghiệp tương lai.
Không chỉ dựa vào kết quả của phiếu thăm dò, trong một cuộc trò chuyện với
sinh viên trường ĐHSP, các bạn cho biết “Là giáo viên không phải lúc nào cũng
đúng hoàn toàn, những lúc mình mắc lỗi mà không lắng nghe sự góp ý của học sinh
thì chẳng bao giờ tiến bộ được, có khi còn khiến học sinh bất mãn về mình”.
Bảng 2.5.1. Sự lựa chọn hành vi đạo đức của SVSP
Quan hệ Hành vi lựa chọn nhiều Hạng Hành vi lựa chọn ít Hạng
Tin tưởng vào sự tiến bộ
của học sinh
1 Với học
sinh
Khiêm tốn, học hỏi
những điều xứng đáng
2
Yêu thương, chia sẻ 3
Với gia
đình
Yêu thương, chia sẻ với
các thành viên
4
Với nghề
SP
Không bảo thủ với các
điều cần thay đổi
5 Yêu nghề, tha thiết với
nghề dù khó khăn
34
Với bạn Sẵn sàng hy sinh 6
Nhiệt tình giúp đỡ trong
công việc
7
Kính trọng, chào hỏi 8
Với thầy
cô
Biết ơn 10
Thẳng thắn, góp ý sai
lầm của thầy cô
32
Thương người, giúp đỡ 35 Với xã hội Lịch sự, văn minh nơi
công cộng
9
Lựa chọn các việc khó
khăn
38
Khiêm tốn, không kiêu
ngạo khi thành công
31
Tự trọng, xấu hổ khi
phạm sai lầm
30
Tự tin dù gặp khó khăn 37
Với bản
thân
Yêu cầu cao trong công
việc
39
Kiên nhẫn làm đến cùng 33 Với học
tập
Trung thực trong thi cử 36
Hoặc khi được hỏi “Các bạn sẽ làm gì khi có một học sinh học mãi mà không
hiểu?” thì các sinh viên trả lời “Cần phải áp dụng nhiều phương pháp, vì học sinh
như vậy mới cần đến người thầy giáo”.
- Những hành vi đạo đức trong mối quan hệ với thầy cô giáo đã từng dạy dỗ
mình cũng được sinh viên lựa chọn một cách tích cực. Điều này thể hiện mong
muốn của SVSP về hành vi ứng xử của học sinh đối với mình trong tương lai.
Những nét tích cực trong quan hệ thầy trò được SVSP thể hiện trong các hành vi cử
chỉ biết ơn thầy cô nhân ngày lễ 20/11, ngày Tết cổ truyền, những tấm bưu thiếp,
những bông hoa tuy giản dị nhưng không kém phần sâu sắc về tình thầy trò mà sinh
viên viên sư phạm đã gửi tặng thầy cô.
Trong tình huống “Làm gì khi bài giảng của mình bị nhận xét là kém hiệu
quả” đạt điểm số rất cao 2.89. Đa số sinh viên lựa chọn phương án trả lời “Tiếp thu
ý kiến và sửa đổi để học sinh lĩnh hội tốt hơn”, càng khẳng định thêm tính tích cực
cao trong những hành vi hướng đến học sinh của SVSP.
- Với bạn bè, SVSP tự đề cao hành vi “sẵn sàng hy sinh”, cụ thể là chia sẻ
những khó khăn của bạn bè. Tình huống đặt ra là “làm gì khi bạn mình bệnh nguy
cấp cần được truyền máu”, đa số sinh viên lựa chọn phương án “sẵn sàng cho mà
không đòi hỏi gì” (điểm trung bình 2.88). Thực tế quan sát cũng thấy SVSP có lối
sống cư xử với nhau rất tình cảm, không ngại giúp đỡ lẫn nhau kể cả những việc
gây mất mát cho mình, ví dụ bảo vệ, bênh vực bạn, nhường học bổng, tài liệu cho
nhau.
- Trong quan hệ xã hội, sinh viên thể hiện tính tích cực trong hành vi ứng xử
nơi công cộng, cụ thể là “lịch sự, văn minh”. Tình huống rất bình thường được đặt
ra “làm gì khi cần vứt rác tại trạm chờ xe buýt”, đa số các bạn nghiêng về cách ứng
xử “đợi và bỏ vào đúng nơi chứa rác qui định” (2.85); trên các tuyết xe buýt đi và
đến tại khu vực các trường sư phạm, chúng tôi vẫn bắt gặp những hình ảnh rất đẹp
khi các bạn sinh viên tự động đứng lên để nhường ghế cho người già và trẻ nhỏ, phụ
nữ có thai, thầy cô giáo mặc dù xe rất đông.
- Những hành vi mà chúng tôi cho là khá tích cực nhưng ít được SVSP lựa
chọn để ứng xử như “Khiêm tốn, không kiêu ngạo khi thành công” (2.59), “Tự
trọng, xấu hổ khi phạm sai lầm” (2.6), “Tự tin dù gặp khó khăn” (2.48), “Yêu cầu
cao trong công việc” (2.2). Đây là dấu hiệu cho thấy SVSP chưa khiêm tốn, chưa
nghiêm khắc với bản thân và chưa nỗ lực tự hoàn thiện mình, cụ thể là các xu
hướng “không thấy xấu hổ lắm khi làm sai trước mặt người khác”,“khoe khoang
một chút khi có thành công”, “hơi nao núng khi gặp khó khăn”,“không mong chờ
kết quả xuất sắc trong công việc”.
Một số hành vi trong quan hệ xã hội như “hy sinh lựa chọn những việc khó
khăn” (2.39), “yêu thương, giúp đỡ người khác” (2.53) cũng chỉ có ít SVSP lựa
chọn hoặc đắn đo khi chọn, ví dụ“sẽ nhận những công việc ở vùng sâu, vùng xa nếu
như không có sự lựa chọn nào khác”, và “sẽ giúp đỡ người đi đường gặp tai nạn
khi thấy cần thiết hay được yêu cầu”.
Trong học tập, tính “trung thực” (2.51) và “kiên nhẫn” (2.56) cũng được SVSP
lựa chọn ở mức vừa phải. Câu trả lời biểu hiện tính trung thực là “vừa tự làm vừa
tìm cách hỏi nếu như không nhớ bài trong phòng thi”; còn câu trả lời thể hiện tính
kiên nhẫn là “không quyết chí làm đến cùng những vấn đề khó trong bài học”.
Những giáo viên ở các trường sư phạm cho biết “trung thực” trong học tập và thi cử
của sinh viên vẫn không thể mang tính tuyệt đối. Thực tế quan sát cũng cho thấy
vẫn còn hiện tượng sao chép bài của nhau trong phòng thi cũng như sao chép các
công trình nghiên cứu với các qui mô khác nhau của SVSP. Giải thích cho vấn đề
này, các bạn sinh viên đưa ra những lý do “môn học nhiều lý thuyết nên không thể
nhớ được”, “phương pháp giảng dạy không lôi cuốn” hay “bắt chước những bạn
bè xung quanh”… Nhưng tựu trung lại, các sinh viên vẫn thừa nhận “tính tự ý thức
của bản thân còn kém”.
Một hành vi đáng chú ý trong mối quan hệ với thầy cô giáo được lựa chọn ở
mức thấp (2.58) là “cần góp ý khi nhận thấy sai lầm của thầy cô”. SVSP phân vân
giữa các cách trả lời “mạnh dạn tìm cách góp ý chân thành” và “đó không phải là
chuyện của mình, nên không quan tâm”. Điều này đã được chúng tôi lý giải do quan
hệ thầy trò ở đại học khác so với phổ thông. Dù thế nào đi nữa thì thực trạng quan
hệ giữa sinh viên và giảng viên đại học cũng cần được cải thiện.
Điều đặc biệt sau cùng khi phân tích hành vi đạo đức của SVSP được thể hiện
trong phẩm chất “yêu nghề sư phạm” (ở mức 2.56), điều này phản ánh sự lưỡng lự,
do dự theo đuổi nghề sư phạm khi chế độ lương còn quá eo hẹp.
2.5.2. So sánh giữa các nhóm khách thể điều tra về hành vi đạo đức
Dưới đây sẽ là những so sánh để tìm ra dấu hiệu khác nhau giữa các nhóm
khách thể điều tra khi xét đến sự tự đánh giá hành vi đạo đức.
a. Về giới tính, chúng tôi nhận thấy, ngoài quan hệ gia đình, trong từng
mối quan hệ đều có một vài biểu hiện sự khác biệt về hành vi đạo đức giữa
nam sinh viên và nữ sinh viên. Chẳng hạn, nữ sinh thường chọn các giá trị
“giữ gìn nơi công cộng” trong quan hệ với xã hội, “trung thực” trong quan hệ
với thầy cô, “nghiêm túc, tin tưởng, học hỏi” trong quan hệ với học sinh và
“không bảo thủ” trong quan hệ với nghề nghiệp, trong khi đó đa số nam sinh
viên chọn các giá trị như “hy sinh” trong quan hệ với bạn bè, “tự tin” với bản
thân, “trách nhiệm trong học tập”,v.v...(xem bảng 27 Phụ lục 1).
b. Về xuất thân gia đình, một đặc điểm chung được biểu hiện đó là tất
cả những giá trị đạo đức có dấu hiệu khác biệt, thì ý nghĩa tích cực hơn đều
nằm trong hành vi của nhóm sinh viên từ ngoài TPHCM (xem bảng 28 Phụ
lục 1). Đó là các hành vi thuộc mối quan hệ với xã hội như “biết ơn thế hệ
trước, lịch sự nơi công cộng”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “nhiệt thành với thầy
cô” , “yêu cầu cao với bản thân”, “nghiêm túc với học sinh” và “tận tâm, dũng
cảm chống tiêu cực, không bảo thủ” trong nghề sư phạm.
Một lần nữa chúng ta lại thấy các giá trị thuộc về quan hệ với nghề
nghiệp tương lai, với học sinh nằm trong suy nghĩ và hành vi của các sinh viên
ngoài TPHCM rõ nét hơn.
c. Về trình độ đào tạo, chúng ta lại nhận thấy sinh viên học những năm
đầu chọn những hành vi ứng xử tích cực hơn các sinh viên học những năm
cuối (xem bảng 29 Phụ lục 1). Tập trung nhiều nhất là trong quan hệ với thầy
cô giáo thì “kính trọng, biết ơn”, trong học tập thì “tích cực, cầu tiến” và với
nghề sư phạm cần “dũng cảm chống tiêu cực, không bảo thủ”. Duy chỉ có mối
quan hệ với bản thân là không có sự khác biệt.
Như vậy, những sinh viên trải qua quá trình đào tạo trong trường sư
phạm đã không có sự thay đổi tích cực đáng kể nào về hành vi đạo đức nói
riêng (ít ra là khi tự định hướng) và hệ thống các giá trị đạo đức nói chung, đặc
biệt là các giá trị đối với nghề sư phạm.
d. Về trường đào tạo
Hành vi đạo đức giữa sinh viên các trường sư phạm qua kết quả khảo sát
lại một lần nữa cho thấy sinh viên trường CĐSPMG tích cực hơn các trường
khác, đặc biệt là sinh viên ĐHSP. Trước tiên, khác biệt giữa sinh viên hai
trường này về hệ thống hành vi đạo đức nói chung (xem bảng 30 Phụ lục 1),
sau đó là nhóm hành vi thuộc các giá trị trong mối quan hệ xã hội, và một số
giá trị trong các mối quan hệ khác như “lịch sự nơi công cộng, trung thực với
thầy cô, dũng cảm chống tiêu cực trong giáo dục”.
Các dấu hiệu trên không bao hàm tất cả các mối quan hệ đạo đức của
SVSP, nhưng cũng đủ đi đến một nhận định rằng môi trường của trường
CĐSPMG thuận lợi hơn cả để hình thành những hành vi tích cực, còn môi
trường của ĐHSP cần phải xem xét trên nhiều yếu tố tác động. Các yếu tố đó
có thể là các qui chế, qui định trong trường, mối quan hệ trong tập thể sư
phạm với nhau và với sinh viên, phong cách làm việc và lối sống của giáo
viên, v.v…
Tóm lại, trong nội dung phân tích hành vi đạo đức của SVSP, chúng tôi nhận
thấy có sự tương đồng nhất định với nhận thức và thái độ đối với các giá trị đạo
đức.
Để kiểm chứng mức độ thống nhất giữa hành vi đạo đức với thái độ đạo đức,
và nhận thức về đạo đức của SVSP, chúng ta sẽ phân tích kết quả khảo sát mối
tương quan ở phần tiếp theo.
2.6. Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi trong định hướng giá
trị đạo đức của SVSP TPHCM
Kết quả phân tích từng yếu tố trong hệ thống định hướng giá trị đạo đức của
SVSP, đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về sự tương đồng nhất định trong các
biểu hiện giữa ba yếu tố nhận thức, thái độ và hành vi. Sự tương đồng này được thể
hiện khá rõ trong một số giá trị đối với gia đình, thầy cô và đặc biệt là với nghề sư
phạm. Trong những dấu hiệu khác biệt ý nghĩa, cũng có sự tương đồng theo giới
tính, theo nguồn gốc xuất thân và theo môi trường đào tạo. Để khẳng định hơn nữa
sự tương đồng trên, chúng tôi lập bảng tương quan sau, từ đó phân tích tính chất của
các biểu hiện tương quan này:
Bảng 2.6. Hệ số tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi trong định hướng
giá trị đạo đức của SVSP
Các yếu tố Nhận thức Thái độ Hành vi
Nhận thức 1 0.603 0.459
Thái độ 0.603 1 0.586
Hành vi 0.459 0.586 1
Từ kết quả kiểm nghiệm trên chúng ta thấy cả 3 mặt nhận thức, thái độ, hành
vi của các giá trị đạo đức đều thể hiện tính tương quan thuận, tức là sự biểu hiện và
thay đổi của yếu tố này sẽ dẫn đến sự biểu hiện và thay đổi của yếu tố kia. Tuy
nhiên tính chất của các mối tương quan này không thực sự cao lắm.
- Tương quan giữa nhận thức đạo đức và thái độ đạo đức có hệ số là 0.603,
một con số mang ý nghĩa “trung bình khá”, và cũng là điểm số cao nhất trong hệ
thống quan hệ này.
Tương quan thuận được thể hiện nhiều ở các giá trị đạo đức trong quan hệ với
xã hội, gia đình, thầy cô và hoạt động học tập. Trong khi đó, những mối quan hệ với
bạn bè, bản thân, nghề sư phạm hay với học sinh đôi khi không đồng nhất với nhau.
Ví dụ như phẩm chất “yêu nghề sư phạm”, trong nhận thức được các sinh viên đánh
giá cao nhất về mức độ cần thiết, nhưng trong thái độ thì nằm ở vị trí khá thấp vì
các lý do đồng lương hay môi trường công tác của nghề sư phạm.
- Tương quan giữa thái độ và hành vi cũng được thể hiện không cao lắm, ở
mức trung bình với hệ số 0.586. Hành vi luôn là yếu tố khó ghi nhận nhất trong khi
nghiên cứu tâm lý nói chung và đạo đức nói riêng. Tuy nhiên, với dấu hiệu tương
quan trên, mặc dù ở mức trung bình, nhưng cũng là một điều đáng mừng, khi nhận
thấy hành vi đạo đức của SVSP cũng không vượt ra ngoài những gì họ suy xét.
Sự tương đồng ở mức rõ nét nhất giữa thái độ và hành vi của sinh viên trong
nghiên cứu này diễn ra trong mối quan hệ đạo đức đối với bản thân, cụ thể là những
phẩm chất như “tự trọng”, “khiêm tốn”, “yêu cầu cao”. Ngoài ra những nhóm giá
trị với xã hội, gia đình, thầy cô và nghề sư phạm cũng thể hiện tính tương đồng khá
rõ, như “biết ơn thế hệ trước”, “kính trọng thầy cô giáo”, “hiếu thảo, yêu thương
trong gia đình” hay “không bảo thủ trong công việc”, “tận tâm với nghề” v.v…
- Tương quan giữa nhận thức đạo đức và hành vi đạo đức của SVSP có hệ số
0.459 là thấp nhất - sự tương quan dưới mức trung bình, dĩ nhiên là chưa đến mức
tương quan nghịch, nhưng đáng để chúng ta lưu tâm. Rất có thể kết quả này chỉ
mang tính tương đối. Điều này cũng không nằm ngoài dự đoán của chúng tôi. Ngay
cả trong kết quả phỏng vấn mở mà chúng tôi đã thực hiện với một số giáo viên và
sinh viên các trường sư phạm, các ý kiến đưa ra cũng hàm chứa tính chất này. Một
giáo viên lâu năm đã nói: “Theo nhận định chung, các biểu hiện về đạo đức của các
em sinh viên tương đối tốt, ngay cả trong những gì các em nói, suy nghĩ và thái độ
đối với các hoạt động xung quanh, nhưng điều đó cũng chưa thể khẳng định tính
toàn vẹn về đạo đức mà chúng ta mong muốn. Nếu quan sát kỹ hơn, chúng ta vẫn
bắt gặp những biểu hiện không tích cực trong đạo đức của các em, nhất là đối với
các vấn đề lớn của xã hội, hay gần gũi hơn là vấn đề học tập, thi cử”.
Một nữ sinh viên nói:“Ở trong trường thì thấy ai cũng tốt hết, nhưng đôi lúc
ra ngoài đường, hoặc đến nơi ở của các bạn, em thấy… khó chấp nhận”, hoặc
“Nếu không khoác áo SVSP, có khi sinh viên trường mình cũng có những biểu hiện
đạo đức không tốt đâu”.
Như vậy, luận điểm chung để chúng ta giải thích sự tương quan tương đối giữa
nhận thức và thái độ này chính là sự tự ý thức về vị trí của mình dưới đánh giá của
toàn xã hội, hay chính xác hơn, đó là “cái danh sư phạm”. Chính “vị thế” này đã là
động lực giúp SVSP tránh xa những hoạt động tiêu cực, những mối quan hệ không
lành mạnh, để rèn mình theo khuôn mẫu của một giáo viên trong tương lai, họ hoàn
thiện bản thân vì danh của nghề chứ không phải hoàn toàn tự giác rèn luyện theo
chuẩn mực đạo đức của xã hội.
2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP
Như đã trình bày trong cơ sở lý luận, các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
giá trị đạo đức của SVSP bao gồm yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Trong
khuôn khổ của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi nhấn mạnh đến các yếu tố bên
ngoài bởi vì chính các yếu tố bên ngoài hình thành nên các yếu tố bên trong và tác
động đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên. Các yếu tố bên ngoài tập trung
thành ba nhóm, đó là các yếu tố từ xã hội (XH), các yếu tố từ gia đình (GĐ) và các
yếu tố từ nhà trường (NT), được cụ thể thành 30 biểu hiện trong phiếu khảo sát
(xem Phụ lục 3).
2.7.1. Nhận định chung về ảnh hưởng của các yếu tố
Bảng 2.7.1 dưới đây cho biết thứ hạng các biểu hiện trong 3 nhóm yếu tố ảnh
hưởng.
Từ đó, chúng tôi thấy cả ba yếu tố là gia đình, nhà trường và xã hội đều ảnh
hưởng đến sự định hướng giá trị đạo đức của sinh viên, trong đó tác động của gia
đình được SVSP xác nhận có ảnh hưởng nhiều nhất đến định hướng giá trị đạo đức
ở họ.
Thứ nhất, tác động từ gia đình gồm “những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia
đình”, điều này đã khẳng định rằng gia đình là trường học đầu đời, cha mẹ là thầy
cô giáo đầu tiên của mỗi cá nhân. Ngoài ra, những yếu tố khác từ gia đình tác động
đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên là “lối sống của chính cha mẹ và
người lớn trong gia đình”, “lịch sử truyền thống của gia đình” và cụ thể hơn là “kỷ
luật nghiêm khắc của cha mẹ”. tác động từ gia đình thực chất là tác động giáo dục
của những người lớn, người có uy tín như cha mẹ và nề nếp, truyền thống, văn hoá
của gia đình.
Bảng 2.7.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức
Yếu tố ảnh hưởng Trung bình
Xếp
hạng
Lịch sử truyền thống quê hương 3.89 4
Các quy định thành văn của pháp luật, xã hội và
nhà trường 3.79 7
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường 3.28 21
Sự giàu lên nhanh chóng của những người xung
quanh 3.03 25
Đồng tiền mà mình kiếm được thông qua làm
thêm 3.41 19
Kiến thức từ những khóa học thêm ngoài trường 3.64 11
Lối sống của người bạn thân 3.38 20
Lối sống của bạn bè ngoài xã hội 3.05 24
Lối sống của hàng xóm, khu dân cư xung quanh
nơi mình ở 2.91 28
Các vấn đề thời sự về văn hóa, đạo đức, lối sống
mà mình bắt gặp trên các phương tiện truyền
thông
3.59 14
Những câu chuyện về lối sống từ báo chí, truyền
hình 3.47 18
Những câu chuyện trong phim 2.93 27
Các mối quan hệ trên mạng Internet 2.37 30
Những gương điển hình thành đạt lớn tuổi trong
thực tế 3.48 17
Những người trẻ tuổi thành đạt 3.55 15
Xã hội
Thần tượng trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó 2.68 29
Lịch sử truyền thống của gia đình 3.86 5
Trình độ học vấn của cha mẹ 3.14 22
Nghề nghiệp của cha mẹ 2.96 26
Lối sống của chính cha mẹ và người lớn trong gia
đình 3.93 3
Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia đình 4.18 1
Kỷ luật nghiêm khắc của cha mẹ 3.86 6
Gia
đình
Điều kiện kinh tế của gia đình 3.63 12
Lối sống của chính thầy cô giáo 3.50 16
Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy cô giáo 3.77 8
Phong cách giảng dạy của thầy cô giáo 3.74 9
Kỷ luật trong nhà trường 3.61 13
Nhà
trường
Lối sống của bạn bè trong trường, lớp 3.12 23
Mục tiêu của nghề nghiệp trong tương lai 4.04 2
Những kiến thức học được từ sách vở 3.74 10
Thứ hai, tác động từ phía nhà trường tập trung chủ yếu vào việc đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH001.pdf