MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình vệ sinh môi trường. 3
1.1.1. Các khái niệm cơ bản. 3
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường. 4
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường. 11
1.2.1 Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực hành 11
1.2.2 Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành vệ sinh môi trường của người dân 13
1.2.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường. 14
Chương 2: ĐỐI TưỢNG VÀ PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 21
2.1 Đối tượng nghiên cứu 21
2.2 Địa điểm nghiên cứu 21
2.3 Thời gian nghiên cứu 22
2.4 Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu 23
2.4.2. Chỉ số nghiên cứu 23
2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên cứu 27
2.4.4. Phương pháp khống chế sai số 28
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 28
2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 29
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30
3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra 30
3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
môi trường của người dân tại các xã nghiên cứu 33
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh
môi trường của người dân ở các điểm điều tra 39
3.4 Một số kết quả nghiên cứu định tính. 43
Chương 4: BÀN LUẬN 47
4.1. Tình hình kinh tế văn hoá xã hội ở các điểm điều tra 47
4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ
sinh môi trường của người dân ở hai xã điều tra. 51
4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành
về vệ sinh môi trường của người dân 57
KẾT LUẬN 71
KHUYẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC 79
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3992 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của
ngƣời dân tại các xã nghiên cứu.
Bảng 3.4. Kết quả điều tra về nguồn nước
Các chỉ số n %
Số người kể được tên các loại nguồn nước sạch 213 49,88
Số người kể được tên các loại nguồn nước
không sạch
145 33,96
Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử
dụng nguồn nước không sạch gây ra
154 36,07
Số người dân tin rằng nguồn nước gia đình
mình đang sử dụng là nguồn nước sạch
122 28,57
Số người dân cho rằng cần tìm kiếm nguồn
nước cho gia đình sạch hơn
112 26,23
Số hộ có nguồn nước sạch 93 21,78
Số hộ không có nguồn nước sạch 334 78,22
Số hộ đã có những việc làm thiết thực để bảo vệ
nguồn nước sạch
71 16,63
Số hộ có nhà tắm 32 7,49
Số hộ có hố xử lý nước thải 11 2,58
Nhận xét: Bảng 3.4 cho chúng tôi thấy số người không kể tên được
nguồn nước sạch khá cao (50,12%). Số người không biết các bệnh lây theo và
do nguồn nước 63,93%, có 73,77% số người cho rằng không cần tìm kiếm
nguồn nước sạch hơn, số hộ không có nguồn nước sạch 78,28%, số hộ không
thực hiện các việc làm thiết thực để bảo vệ nguồn nước 83,37% đều là những
tỷ lệ cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Bảng 3.5. Kiến thức, thái độ, thực hành (KAP)
của người dân về nguồn nước.
KAP về nguồn nƣớc n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 131 30,68
Trung bình 190 44,5
Yếu 106 24,82
Thái độ
Tốt 75 17,56
Trung bình 227 53,16
Yếu 125 29,28
Thực hành
Tốt 72 16,86
Trung bình 246 57,61
Yếu 109 25,53
Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt.
Biểu đồ 3.4. KAP của người dân về nguồn nước
Nhận xét: Kết quả trên cho chúng tôi thấy kiến thức, thái độ, thực hành
của người dân về nguồn nước còn rất thấp: Tỷ lệ số người có kiến thức tốt đạt
30,68% và thái độ tốt, thực hành tốt chỉ chiếm 17,56% và 16,86%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Bảng 3.6. Kết quả điều tra về quản lý phân
Các chỉ số n Tỷ lệ %
Số người kể được tên các loại hố xí hợp vệ sinh 97 22,72
Số người kể được tên các loại hố xí không hợp vệ sinh 92 21,55
Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử dụng
hố xí không hợp vệ sinh gây ra
112
26,23
Số người dân tin rằng hố xí gia đình mình vệ sinh 81 18,97
Số hộ có hố xí 154 36,07
Số hộ có hố xí hợp vệ sinh 49 11,48
Số hộ phóng uế bừa bãi (Không có hố xí) 273 63,93
Số hộ dùng phân để bón ruộng và hoa màu 123 28,80
Nhận xét: Bảng 3.6. cho chúng tôi thấy số hộ có hố xí chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng số hộ điều tra (36,07%); trong số các hộ có hố xí, tỷ lệ hố xí hợp vệ
sinh cũng chiếm tỷ lệ thấp (11,48%). Số người kể tên được các hố xí hợp vệ
sinh thấp: 22,72%. Có 26,23% số người dân kể tên được các bệnh do sử dụng
hố xí không hợp vệ sinh gây ra và còn 28,8% số hộ còn dùng phân tươi để
bón ruộng.
Bảng 3.7. KAP của người dân về quản lý phân.
KAP về quản lý phân n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 93 21,78
Trung bình 222 51,99
Yếu 112 26,23
Thái độ
Tốt 82 19,20
Trung bình 200 46,84
Yếu 145 33,96
Thực hành
Tốt 48 11,24
Trung bình 123 28,81
Yếu 256 59,95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt.
Biểu đồ 3.5: KAP của ngƣời dân về quản lý phân
Nhận xét: Về quản lý phân: tỷ lệ số người dân có kiến thức tốt về quản
lý phân chiếm tỷ lệ thấp 21,78 %, tỷ lệ thái độ tốt và thực hành tốt cũng thấp:
11,24% chiếm 19,2%.
Bảng 3.8. KAP của người dân về chuồng gia súc
KAP về chuồng gia súc n Tỷ lệ %
Kiến thức Tốt 138 32,32
Trung bình 133 31,15
Yếu 156 36,53
Thái độ Tốt 132 30,91
Trung bình 123 28,81
Yếu 172 40,28
Thực hành Tốt 103 24,12
Trung bình 26 6,09
Yếu 298 69,79
21.78 19.2
11.24
0
5
10
15
20
25
KAP
Tû lÖ %
1
2
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
32.32
30.91
24.12
0
5
10
15
20
25
30
35
KAP
Tỷ lệ %
Kiến thức tốt
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.6. KAP của người dân về chuồng gia súc
Nhận xét: Tổng hợp kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về chăn,
thả, xây dựng chuồng gia súc chúng tôi thấy: Kiến thức tốt của người dân về
vấn đề này còn thấp, mới chỉ đạt 32,32%. Thái độ, thực hành mức độ tốt của
người dân cũng còn thấp, chỉ có 30,91% và 24,12%.
Bảng 3.9. Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật
Chỉ số n Tỷ lệ %
Thái độ Tốt 81 18,89
Trung bình 125 29,27
Yếu 221 51,76
Thực hành Tốt 38 8,90
Trung bình 77 18,03
Yếu 312 73,07
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
18.89
8.9
0
5
10
15
20
KAP
Tỷ lệ %
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.7. Thái độ, thực hành của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật
Nhận xét: Thái độ và thực hành của người dân về hóa chất bảo vệ thực
vật còn chưa tốt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người dân có thái độ
tốt về hóa chất bảo vệ thực vật là 18,89% và thực hành tốt về hóa chất bảo vệ
thực vật của người dân cũng chỉ chiếm 8,9%.
Bảng 3.10. KAP của người dân về vệ sinh môi trường
KAP về vệ sinh môi trƣờng n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 73 17,1
Trung bình 265 62,05
Yếu 89 20,84
Thái độ
Tốt 61 14,29
Trung bình 236 55,27
Yếu 130 30,44
Thực hành
Tốt 35 8,2
Trung bình 189 44,26
Yếu 203 47,54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
17.1
14.29
8.2
0
5
10
15
20
KAP
Tỷ lệ %
Kiến thức tốt
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.8. KAP của người dân về vệ sinh môi trường
Nhận xét: Bảng 3.10 cho chúng tôi thấy kiến thức về vệ sinh môi trường
của người dân còn rất thấp mới đạt 17,1%. Tỷ lệ người dân có thái độ tốt và
thực hành tốt về vệ sinh môi trường cũng còn thấp (14,29% và 8,2%) .
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trƣờng của ngƣời
dân ở các điểm điều tra
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa tình hình kinh tế
với thực hành vệ sinh môi trường của người dân
Thực hành
Kinh tế
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Đủ ăn 28 28,86 59 60,82 10 10,31 p<0,05
ữ2 =125.4 Nghèo 7 2,12 130 39,39 193 58,48
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Bảng 3.11 cho chúng tôi thấy có mối liên quan giữa tình trạng
đói nghèo với thực hành vệ sinh môi trường của người dân, với p<0,05 chứng
tỏ người dân ở các hộ gia đình đủ ăn có thực hành về VSMT tốt hơn người
dân trong các hộ gia đình nghèo đói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với thực hành
vệ sinh môi trường của người dân
Thực hành
PTTT
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Có PTTT 30 8,67 178 51,45 138 39,88
p>0,05
ữ2= 4.52
Không có PTTT 5 6,17 11 13,58 65 80,25
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên chúng tôi thấy: Không có mối liên quan giữa
thực hành của người dân về vệ sinh môi trường với tình trạng có hay không
có phương tiện truyền thông. Với p>0,05 chứng tỏ ở nhóm người dân có
phương tiện truyền thông và không có phương tiện truyền thông mức độ thực
hành về vệ sinh môi trường là như nhau.
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa trình độ học vấn
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
TĐHV
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Từ THCS trở
lên
25 19,23 92 76,67 13 10,00 p<0,05
ữ
2
=26,62
Tiểu học 16 12,41 41 31,78 72 55,81
Mù chữ, BĐBV 5 2,25 56 31,46 116 66,29
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên chúng tôi thấy: Với p<0,05 chứng tỏ có mối
liên quan giữa trình độ học vấn với thực hành của người dân về vệ sinh môi
trường. Nhóm có học vấn cao hơn thì thực hành về vệ sinh môi trường tốt
hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với thực hành
về vệ sinh môi trường
Thực hành
Lứa tuổi
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tuổi: 29 14 19,18 36 49,32 23 31,51
p<0,05
ữ2=
18,74
30-59 18 5,68 141 44,48 158 49,84
60 3 8,11 12 32,43 22 59,46
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tuổi với
thực hành của người dân về vệ sinh môi trường. Với p<0,05 chứng tỏ thực
hành về vệ sinh môi trường ở các lứa tuổi là khác nhau.
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa giới
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Giới
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Nam 18 4,90 157 42,78 192 52,32 p<0,05
ữ2=
53,55
Nữ 17 28,33 32 53,33 11 18,33
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa giới với thực
hành của người dân về vệ sinh môi trường, Với p<0,05 chứng tỏ thực hành về
vệ sinh môi trường ở cả hai giới là khác nhau. Tỷ lệ thực hành về vệ sinh môi
trường mức độ tốt và trung bình ở nữ giới cao hơn nam giới (28,33% và
53,33% so với 4,9% và 42,78%). Tỷ lệ thực hành yếu của nam giới cao
52,32%, cao hơn của nữ giới 18,33%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa thành phần dân tộc
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Dân tộc
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Kinh 25 19,08 70 53,44 36 27,48 p<0,05
ữ2=
40,15
Khác 10 3,40 119 40,2 167 56,4
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Có mối liên quan giữa dân tộc và thực hành của người dân về
vệ sinh môi trường (p<0,05).
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa kiến thức
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Kiến thức
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tốt 25 34,25 43 58,90 5 6,85 p<0,05
ữ2=
128,9
Trung bình 7 2,64 123 46,42 135 50,94
Yêú 3 3,37 23 25,84 63 70,79
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên cho thấy, với p<0,05 chứng tỏ có mối liên
quan giữa kiến thức về vệ sinh môi trường của người dân với mức độ thực
hành vệ sinh môi trường của họ. Kiến thức càng cao thì tỷ lệ thực hành tốt
càng cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa thái độ
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Thái độ
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tốt 30 49, 27 44,26 4 5,56
p<0,05
ữ2=
170,69
Trung bình 3 1,27 101 42,8 132 55,93
Yêú 2 1,54 61 46,92 67 51,54
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên cho thấy, với p<0,05 chứng tỏ có mối liên quan
giữa thái độ về vệ sinh môi trường của người dân với mức độ thực hành vệ
sinh môi trường của họ. Thái độ càng tốt thì tỷ lệ thực hành tốt càng cao.
3.5. Một số kết quả nghiên cứu định tính.
Tại cộng đồng chúng tôi tiến hành một số cuộc thảo luận nhóm với các
nhà lãnh đạo địa phương và người dân. Các cuộc thảo luận tập trung vào các
vấn đề như: Tỡnh hỡnh nguồn nước của người dân địa phương đang dùng để
ăn uống và sinh hoạt như thế nào? Tình hình quản lý phân người và gia súc ra
sao? tỡnh hình xử lý rác thải cũng như hóa chất bảo vệ thực vật? Chỳng tụi
đã thu được kết quả như sau:
*Về vấn đề hố xí: Đa số những người được hỏi và tham gia thảo luận cho
rằng tỷ lệ hộ gia đình có hố xí tại địa phương còn thấp, hố xí hợp vệ sinh cũng
còn thấp. Theo Ông Bàn Văn Ch. - Xóm Cây thị, xã Cây Thị cho rằng: "về hố
xí vệ sinh của các hộ gia đình trong 8 xóm, tôi thấy đa số các hộ gia đình
chưa có hố xí hợp vệ sinh.." Ông Bùi Đình X. - UBMTTQ Xã Cây Thị –
Trưởng ban chỉ đạo vệ sinh môi trường cho biết: "Tỷ lệ hộ gia đình có hố xí
hợp vệ sinh mới đạt gần 20% ..". Còn theo Ông Bàn Văn T. - UBND Xã Cây
Thị: "Số hộ có hố xí hợp vệ sinh rất ít, còn lại chủ yếu là hố xí không hợp vệ
sinh và tạm bợ, thậm chí nhiều hộ chưa có..."
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Theo Bà Đặng Thị V.- Nhân viên y tế thôn bản xóm Hoan: "Hố xí ở
vùng sâu chưa được thực hiện ở các hộ gia đình..." Còn Bà Lê Thị H. - Giáo
viên trường tiểu học Cây thị: "Các gia đình có nhà xí nhưng cũng chưa đảm
bảo vệ sinh (hố xí một ngăn) và có gia đình không có nhà xí còn đi bừa bãi..."
Theo Ông Triệu Phúc Ph. – Nhân viên Y tế thôn bản Khe Cạn: "Hố xí ở các
hộ gia đình hầu như chưa có, những hộ có là những hố xí không hợp vệ sinh,
vì có một ngăn và chuyên đi bừa bãi..."
Ông Nguyễn Chí Hiển - Trạm trưởng Y tế xã Cây Thị cho biết: "Hố xí
hợp vệ sinh ở xã Cây Thị mới chỉ đạt 13% tổng số hộ ở 4 xóm vùng sâu..."
* Về vấn đề nguồn nước sạch: Theo Bà Đặng Thị V. – Nhân viên y tế
thôn bản xóm Hoan: "Nguồn nước xóm Hoan xa xôi, nước bị ô nhiễm là do
làm vàng nước đục..." Còn Bà Lê Thị H. - Giáo viên trường tiểu học Cây Thị
cho biết: "Đa số các gia đình sử dụng các nguồn nước từ giếng khơi, nhưng
một số gia đình còn có giếng ở gần chuồng gia súc nên chưa đảm bảo vệ
sinh..". Bà Nguyễn Thị Ph. - Trường tiểu học Cây Thị cũng cho biết: "Nguồn
nước mà người dân hiện nay đang dùng có khoảng 80% giếng đào xây miệng,
còn 20% là chưa hợp vệ sinh do nhân dân còn dùng nước khe, nước suối ở
các xóm vùng sâu..." Theo Ông Triệu Văn T. - Xóm Khe Cạn: "Nước ở trong
xóm có nhiều hộ không hợp vệ sinh vì sử dụng nước khe..." Theo Ông
Nguyễn Trọng Kh. - Hội nông dân xã Cây Thị: "Nguồn nước địa phương
đang dùng chủ yếu là giếng khơi, nguồn nước không hợp vệ sinh khoảng 80%
nguyên nhân ô nhiễm do chăn thả gia súc kết hợp do chặt phá rừng đầu
nguồn..." Ông Bàn Văn L. - Xóm Cây Thị cho biết: "Đa số các hộ gia đình
trong bản dùng nước giếng. Một số hộ dùng nước không đảm bảo vệ sinh do
gia đình đào giếng không xây thành xung quanh và vườn trồng vải thường
phun thuốc trừ sâu..."
Theo Bà Đỗ Thị H. - Xóm Khe Cạn: "Nước sạch ở trong xóm có nhiều
hộ không hợp vệ sinh vì sử dụng nước khe, phân gia súc thả rông"... Ông
Nguyễn Văn Th. - Xóm Suối Găng cho biết: "Dân ở xóm 90% dùng nước
giếng". Ông Bùi Đình X.- Ủy ban mặt trận tổ quốc xã Cây Thị cho biết:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
"Riêng xóm Cây Thị có dùng nước mạch từ núi về cho 11 hộ dùng và 3 xóm
vùng sâu có dùng máng dẫn nước từ suối về để sinh hoạt ăn uống từng
ngày..."
*Về vấn đề nhà tắm: Ông Bàn Văn T. - UBND Xã Cây Thị cho biết:
"Xã có trên 30% số hộ có nhà tắm đảm bảo, số còn lại còn tạm bợ, còn nhiều
hộ chưa có nhà tắm..". Theo Bà Nguyễn Thị Ph. - Trường tiểu học Cây Thị:
"Nhà tắm có khoảng 30 - 40% còn lại nhà tạm và có nhà còn chưa có chủ yếu
là vùng sâu..". Ông Triệu Phúc Ph. – Nhân viên y tế thôn bản xã Khe Cạn:
"Nhà tắm còn rất ít có vài chiếc chủ yếu là nhà tre"...
Khi phân tích các nguyên nhân của thực trạng không tốt về nhà vệ sinh,
nhà tắm, nguồn nước ở các bản vùng sâu của xã Cây Thị có một số ý kiến
chính sau:
Theo Ông Bùi Đình X.- Ủy ban mặt trận tổ quốc xã Cây Thị: "Nguyên
nhân gây ô nhiễm nguồn nước là do khai thác khoáng sản như quặng sắt , số
ít hộ còn chăn nuôi thả giông, công trình vệ sinh làm gần giếng nước ăn ở.
Còn hố xí chưa hợp vệ sinh do tập tục còn lạc hậu, công tác truyền thông
chưa sâu rộng, chưa thường xuyên..." Theo Ông Bàn Văn T. - UBND xã Cây
Thị: "Lý do nhận thức để chuyển đổi hành vi của các hộ gia đình còn hạn chế
về vệ sinh môi trường, còn nhiều hộ chưa có nhà tắm do các hộ đó còn nghèo
chưa có điều kiện xây dựng..." Ông Triệu Phúc Ph.- Nhân viên Y tế thôn bản
Khe Cạn: "Hố xí đa số là chưa có là do người dân còn nhiều tập quán lạc
hậu, quan niệm cũ kỹ đó là cứ ra rừng và vườn xung quanh nhà, ở đó rộng rãi
thoải mái..."
Theo bà Phạm Thị M. - Giáo viên trường tiểu học Cây Thị: "Vấn đề chuồng
trại nuôi gia súc còn thả giông và làm chưa hợp vệ sinh..." Ông Nguyễn
Trọng Kh. - Hội nông dân xã: "Chuồng gia súc và nuôi thả gia súc hiện nay
cũng không còn mấy nếu có thì chủ yếu ở các xóm vùng sâu, tỷ lệ sử dụng hố
xí còn thấp do thói quen vì do tập quán..." Ông Dương Minh Th. - Uỷ ban
nhân dân xã Cây Thị: "Hiện nay hố xí các hộ chưa hợp vệ sinh nhất là các
xóm vùng sâu vùng xa lý do là theo thói quen gần rùng và suối. Hiểu biết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
nhân dân về vệ sinh còn rất hạn chế . Riêng 3 xóm vùng sâu vẫn còn thả
giông lợn..." Theo Bà Dương Thị Ch. – Nhân viên Y tế thôn bản xóm Suối
Găng: "Một số hộ chưa có nguồn nước hợp vệ sinh và một số hộ không đủ
nước ăn trong bốn mùa vì nước giếng cạn. Chuồng gia súc còn một số hộ làm
chưa đúng theo quy định..." Ông Hoàng Văn H. - Cán bộ văn hoá xã hội xã
Cây Thị: "Tình trạng hiểu biết của người dân 3 xóm vùng sâu về vệ sinh môi
trường còn chưa tốt vì dân cư sống không tập chung và nhiều dân tộc trình độ
dân trí còn thấp. Tình trạng vệ sinh nhà ở, xóm bản dân tộc chăn thả gia súc
ở một số xóm còn thả giông chưa quy hoạch. Nhà ở xóm bản còn ở thưa ở
trong các vùng sâu".
Như vậy qua thảo luận nhóm với cộng đồng chúng tôi thấy mọi người
đều xác nhận tỷ lệ người dân có nước sạch, hố xí vệ sinh, nhà tắm rất thấp.
Nguyên nhân hàng đầu là do tập quán, phong tục lạc hậu, do nghèo đói...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng kinh tế, văn hoá, xã hội ở các điểm điều tra
Huyện Đồng Hỷ là một huyện miền núi còn khó khăn của tỉnh Thái
Nguyên. Năm 2005 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 5 triệu đồng. 20/20
xã đã có điện lưới quốc gia, đến nay có 85% số hộ có điện sử dụng, 70% số
xã có đường nhựa tới trung tâm, 13/20 xã có chợ, 15/20 xã có trung tâm văn
hóa xã, tỷ lệ điện thoại 4 máy/100 hộ. Huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học
vào năm 2002, phổ cập trung học cơ sở vào năm 2003. Về phương tiện nghe
nhìn: 75% số hộ có truyền hình, 95% số hộ có phương tiện nghe nhìn. Tỷ lệ
hộ nghèo là 23,66% năm 2006 và 20,55% năm 2007. Như vậy, so với các tỉnh
thuộc vùng trung du bắc bộ, huyện Đồng Hỷ có các chỉ số kinh tế xã hội vào
mức chung của khu vực, đây cũng là yếu tố chi phối đến các vấn đề sức khỏe
của người dân [40].
Xã Hợp tiến và xã Cây Thị là hai xã đặc biệt khó khăn của huyện Đồng
Hỷ. Hoạt động kinh tế của người dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và
trồng rừng, vào thời gian nông nhàn, hầu hết lao động chính của các hộ gia
đình tham gia khai thác khoáng sản, chủ yếu là khai thác quặng sắt, vàng.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ hộ nghèo của các bản vùng sâu của hai
xã là 77,3%, cao gấp hơn 3 lần so với tỷ lệ chung của cả huyện. Cao hơn rất
nhiều so với tỷ lệ đói nghèo của tỉnh và tỷ lệ đói nghèo của khu vực theo kết
quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản toàn quốc năm 2006
[40]. Tỷ lệ này cũng cao hơn kết quả nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại
9 tỉnh phía bắc và Tây Nguyên (68,9%) [34], cao hơn rất nhiều so với nghiên
cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh tại xã La Hiên huyện Võ Nhai (19,9%) [32]
và cũng cao hơn so với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn và Lê Thị Ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Nguyệt tại hai xã Tân Long và Văn Lăng huyện Đồng Hỷ (49,1 và 47,7%)
vào năm 2003 [35]. Nếu so sánh về tính tương đồng về điều kiện địa lý, văn
hóa thì hai xã Văn Lăng và Tân Long trong nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn
và Lê Thị Ánh Nguyệt [35] có thể tương đương hai xã chúng tôi nghiên cứu,
nhưng về mặt thời điểm thì hiện nay cách tính tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mới
khác với chuẩn cũ trước kia ( Chuẩn cũ đối với hộ gia đình thuộc khu vực
nông thôn, miền núi có thu nhập trung bình dưới 120.000 đồng/ người/tháng
là hộ nghèo, hiện nay theo quyết định 170 năm 2005 của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội thì hộ nghèo ở khu vực này được tính có mức thu nhập
bình quân đầu người dưới 200.000đ/ người/ tháng) chính vì vậy chưa có cơ
sở để khẳng định tỷ lệ đói nghèo trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn Văn
Lăng và Tân Long, nhưng rõ ràng có thấp hơn mặt bằng chung của huyện vì
đây là hai xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ đói nghèo cao ảnh hưởng rất nhiều đến
tốc độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và là nguyên nhân chính tác động
tiêu cực đến các vấn đề sức khỏe, trong đó có vấn đề vệ sinh môi trường.
Trình độ học vấn của các đối tượng điều tra nhìn chung là thấp, tỷ lệ
chủ hộ mù chữ là 12,40% và biết đọc, biết viết là 29,30%, tỷ lệ chủ hộ có
trình độ tiểu học cũng khá cao (30,2%). Như vậy, tỷ lệ chủ hộ có trình độ học
vấn từ tiểu học trở xuống chiếm tới trên 70%, tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu
của Nguyễn Thị Khánh Linh ở La Hiên – Võ Nhai [32], cao hơn rất nhiều so
với nghiên cứu của Bế Ngọc Hùng tại hai xã của thị xã Bắc Kạn năm 2006
[26] tương đương với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn và cộng sự tại hai xã
vùng cao Văn Lăng và Tân Long của huyện Đồng Hỷ [21], tỷ lệ này cũng
tương đương với nghiên cứu của Lê Thị Ánh Nguyệt [36] nhưng thấp hơn
nghiên cứu của Đàm khải Hoàn, Nguyễn Thành Trung và cộng sự tại 9 tỉnh
miền núi và Tây Nguyên [18]. Trình độ học vấn của các đối tượng nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng tiếp cận đến các kiến thức nói chung
trong đó có kiến thức về vệ sinh môi trường và bảo vệ sức khỏe [23].
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ số hộ có các phương tiện nghe nhìn
của hai xã là 81%, kết quả ước tính trong quá trình điều tra của các điều tra
viên thì số hộ có tivi khoảng 70%, tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ chung của
toàn huyện năm 2005, nhưng cao hơn so với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn
và cộng sự [20] tại Tân Long và Văn Lăng (50% và 55%) năm 2003 và bằng
tỷ lệ chung toàn quốc tại thời điểm năm 2006 [40]. Tỷ lệ phương tiện truyền
thông còn thấp chắc chắn liên quan mật thiết đến thực trạng kinh tế và tình
hình đói nghèo tại hai xã điều tra. Về mặt chăm lo của xã hội: Hiện nay hệ
thống loa công cộng đã đến được hầu hết số thôn bản trong cả hai xã, nhưng
quá trình điều tra cũng như kết quả thảo luận với người dân cho thấy hiệu quả
trong công tác tuyên truyền chưa cao, chất lượng truyền thanh kém, hiện có 3
xóm của xã Cây Thị, 3 xóm của xã Hợp Tiến loa truyền thanh không còn sử
dụng được. Chúng tôi chưa có điều kiện điều tra và trong quá trình nghiên
cứu cũng chưa được tiếp cận với các tài liệu liên quan đến thói quen khai
thác, thưởng thức và sử dụng các phương tiện nghe nhìn của người dân, nhất
là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng thực trạng trên cũng cho thấy tỷ lệ
số hộ có các phương tiện nghe nhìn và vấn đề thông tin công cộng tại hai xã
điều tra của chúng tôi còn rất nhiều hạn chế, điều này ảnh hưởng nhiều đến
đến khả năng tiếp cận với chủ trương chính sách của Đảng về vệ sinh môi
trường nói riêng cũng như việc nâng cao kiến thức về chăm sóc sức khỏe của
người dân nói chung.
Tỷ lệ dân tộc trong đối tượng điều tra tập trung chủ yếu là người Dao
(63,93%), tỷ lệ chủ hộ là người Kinh cũng tương đối đông (31%), kết quả này
có sự khác biệt so với nghiên cứu của Lê Thị Ánh Nguyệt tại xã Văn Lăng và
Tân Long (Văn Lăng: 20,6% và 26,1%; Tân Long: 54% và 26%) [36], và có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
sự khác biệt về thành phần dân tộc với nghiên cứu của Võ Thị Mai ở Ôn
Lương huyện Phú Lương cho kết quả thành phần dân tộc của chủ hộ chủ yếu
là dân tộc Tày (77,1%) và dân tộc Kinh: 20,5% [33]. Tỷ lệ này cũng có sự
khác biệt với nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại 9 tỉnh miền núi phía
bắc và Tây nguyên: Dân tộc Dao chiếm 16,2% [34]. Kết quả chung tổng điều
tra nông thôn nông nghiệp và thủy sản toàn quốc cho tỷ lệ thành phần dân tộc
chủ hộ như sau: Chủ hộ là dân tộc kinh: 85%; Tày 2,2%; Thái 2%; Dao: 0,9%
[40]. Rõ ràng khu vực nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so với rất
nhiều kết quả nghiên cứu khác, kể cả kết quả các cuộc điều tra trong cả nước
về thành phần và cơ cấu dân tộc. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân
tộc có một nét văn hóa và các phong tục tập quán riêng, có những tập quán tốt
cho sức khỏe con người nhưng cũng có những tập quán còn ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe [43]. Thành phần dân tộc của chủ hộ trong mẫu điều tra của
chúng tôi có tỷ lệ người Dao rất cao. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng: Trước
đây người Dao có tập quán du canh, du cư, nay đã cơ bản định cư, trồng lúa
nước, khai thác vườn rừng [24]. Nhà ở của người Dao thường là nhà thấp, nền
đất, chia nhiều phòng, trong phòng chứa nhiều thóc, ngô nên thường tối và
chật chội [43], người Dao thích đẻ nhiều con [24]. Do du canh du cư nên
người Dao chặt phá, đốt trụi hầu hết rừng cây nơi họ sinh sống làm cho nhiều
nguồn nước bị cạn kiệt. Việc chăn thả các loại gia súc, gia cầm bừa bãi,
không thích sử dụng hố xí là tập quán lâu đời của họ [24][44]. Tỷ lệ người
Dao sống tập trung cũng là những yếu tố cần nghiên cứu trong công tác tuyên
truyền giáo dục sức khỏe cũng như việc triển khai các chương trình mục tiêu
về y tế. Bên cạnh đó, một vấn đề cần lưu tâm đó là sự đan xen các dân tộc tại
địa điểm nghiên cứu, nhất là tỷ lệ người Kinh trong cộng đồng tại địa bàn
nghiên cứu, sự đan xen này chắc chắn sẽ tạo ra những thuận lợi trong giao lưu
văn hóa, nhất là văn hóa vệ sinh có lợi cho sức khỏe, đây là những gợi ý cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_Y_DP_DXH.pdf