Luận văn Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của trẻ dưới 5 tuổi tại một số xã miền núi tỉnh Bắc Kạn

MỤC LỤC

Nội dung Trang

Đặt vấn đề . . . 1

Chương 1. Tổng quan . . . 3

1.1. Khái niệm, phân loại nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và một số đặc điểm

giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp của trẻ em? . . 3

1.1.1. Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là gì?. . . 3

1.1.2. Phân loại các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. . 3

1.1.3. Một số đặc điểm giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp của trẻ em. . 4

1.2. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ d ưới 5 tuổi trên Thế giới

và tại Việt Nam. . . 5

1.2.1. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ d ưới 5 tuổi trên Thế giới. 5

1.2.2. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Việt Nam . 8

1.3. Các yếu tố nguy nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. . . 12

Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu . . 17

2.1. Đối tượng nghiên cứu . . . 17

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu . . 17

2.3. Phương pháp nghiên cứu . . . 17

2.4. Phương pháp chọn mẫu . . . 18

2.5. Các chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số. . 19

2.6. Phương pháp thu thập số liệu và xử lý sai số. . 24

2.7. Phương pháp xử lý số liệu: . . . 24

Chương 3. Kết quả nghiên cứu . . 25

3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu. . 25

3.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ d ưới 5 tuổi . 31

3.3. Kết quả về các yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính . 35

Chương 4. Bàn luận . . . 43

4.1. Tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội tại địa điểm nghiên cứu . 43

4.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ d ưới 5 tuổi . 44

4.3. Các yếu tố nguy c ơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính . 47

Kết luận . . . . 53

Khuyến nghị. . . 54

pdf73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7519 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của trẻ dưới 5 tuổi tại một số xã miền núi tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guyên nhân trẻ không được chăm sóc y tế trước khi tử vong hoặc tử vong trước 24 giờ tại bệnh viện cao là vì các bà mẹ không phát hiện được dấu hiệu của bệnh, hoặc khi trẻ mắc bệnh không được chữa trị đúng đắn, đến khi bệnh nặng chuyển đi bệnh viện thì bệnh đã quá nặng [13],[35],[36]. Điều tra 14.290 trẻ dưới 5 tuổi tại 18 xã thuộc đồng bằng sông Hồng của Viện Lao và bệnh phổi cho thấy tỷ lệ tử vong là 7/1000 trẻ đẻ sống trong đó tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp là 2,7/1000 trẻ đẻ sống [8]. Kết quả điều tra ở một số phường tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ tử vong chung là 5,2% trong đó do NKHHCT là 2,8% [13],[14]. Tác giả Nguyễn Thu Nhạn (2001) cũng nhận thấy tình hình tử vong trẻ em tại các khoa Nhi bệnh viện tỉnh trong 2 năm 1998 - 1999 tập trung vào 10 nhóm bệnh và đứng đầu vẫn là nhóm bệnh nhiễm khuẩn hô hấp. Trong khi tỷ lệ tử vong chung ngày một giảm thấp, thì tỷ lệ tử vong do viêm phổi chưa giảm nhiều (năm 1970 là 37%, năm 1990 là 42% năm 1995 là 35% và năm 2000 là 40%). Như vậy tỷ lệ tử vong do viêm phổi hầu như không giảm trong suốt 30 năm qua [24],[25]. Điều tra về tỷ lệ mắc bệnh NKHHCT ở một số dân tộc cho thấy: dân tộc Thái (Sơn La): 47,0%, Giáy (Lai Châu): 61,34%, H‘Mông (Hà Giang): 72,36%, Mường (Hoà Bình): 59,34% [21]. Nghiên cứu của chương trình phòng chống NKHHCT trên 8.799 trẻ tại 50 xã đồng bằng thấy tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi mắc bệnh NKHHCT cao gấp từ 1,2 đến 2 lần so với trẻ từ 1–5 tuổi [8]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Để giải quyết vấn đề NKHHCT ở trẻ em, chương trình phòng chống NKHHCT được Bộ Y tế Việt Nam sớm đưa vào một trong các chương trình Y tế Quốc gia và bắt đầu triển khai trên cả nước từ năm 1984, chỉ sau 1 năm WHO triển khai chương trình ARI trên toàn cầu năm 1983 và là nước thứ 2 trên thế giới triển khai chương trình này (sau Brazil) [23]. Điều này thể hiện sự quan tâm và chú trọng của Đảng và Ngành y tế đối với việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho trẻ em. Theo chương trình Hợp tác Quốc gia, tính đến năm 2000 thì 100% số xã trong cả nước đã triển khai chương trình phòng chống NKHHCT cho trẻ dưới 5 tuổi với 3 mục tiêu chính là giảm tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ chết và giảm tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong điều trị NKHHCT. Tuy vậy theo các nghiên cứu hàng năm về NKHHCT cho thấy tỷ lệ mắc NKHHCT ở trẻ nhỏ vẫn không thuyên giảm trong những năm gần đây, đặc biệt ở những khu vực khó khăn vùng cao, miền núi, vùng đông các dân tộc thiểu số sinh sống [8],[23]. Trong suốt 2 thập kỷ triển khai thực hiện chương trình ARI, người ta thấy rằng tiến hành những chương trình hoạt động riêng biệt cho một đối tượng là trẻ em mặc dù có sự thành công nhất định nhưng bên cạnh đó lại bộc lộ nhiều mặt hạn chế như tốn thời gian, nhân lực, kinh phí... Mặt khác, trên thực tế, hầu hết trẻ bị bệnh thường có triệu chứng của nhiều bệnh kết hợp, xử trí từng bệnh có thể dẫn đến việc điều trị thiếu toàn diện. Để nâng cao hiệu quả của các chương trình y tế, WHO kết hợp UNICEF đưa ra một chiến lược mới nhằm quan tâm toàn diện đến trẻ em đó là hoạt động lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh (IMCI). Đây là một hoạt động nhằm mục đích giảm tỷ lệ tử vong, giảm tỷ lệ mắc, giảm nguy cơ mắc bệnh nặng và hạn chế di chứng cho trẻ em tại cộng đồng, đồng thời cải thiện sức khỏe trẻ em ở các nước đang phát triển. Một trong những điểm nổi bật của chương trình này là nhấn mạnh việc phát hiện sớm bệnh cho trẻ, phân loại và xử trí đúng bệnh ngay tại tuyến cơ sở. [22],[23],[56]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Vì tính chất đặc trưng đó, Bộ Y tế đã phê duyệt để thực hiện chương trình IMCI từ năm 1996 và đã có chỉ thị (08/1999/CT-BYT) để triển khai hoạt động lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh tại các tuyến. Tuy vậy để chương trình IMCI hoạt động thực sự hiệu quả tại tuyến cơ sở thì cần phải có 1 đội ngũ CBYT có năng lực và được tập huấn bài bản về IMCI, trong khi đó việc đảm bảo đủ số lượng bác sỹ phục vụ cho tuyến Y tế cơ sở ở khu vực miền núi đang là một vấn đề khó khăn của ngành Y tế. Mặt khác, đội ngũ NVYTTB là đối tượng gần với người dân nhất thì lại chưa được đào tạo đầy đủ, các thông tin về y tế thay đổi hàng ngày trong khi sự cập nhật thông tin của bản thân các CBYT cơ sở thường chậm chạm từ đó dẫn đến việc thực hiện chương trình phòng chống NKHHCT cho trẻ em còn gặp nhiều khó khăn [23],[32]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 1.3. Các yếu tố nguy nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rất nhiều yếu tố nguy cơ đến NKHHCT trẻ em. Các yếu tố nguy cơ có thể được xếp vào một số nhóm như sau: Yếu tố nhân khẩu học, Kinh tế xã hội, môi trường, dinh dưỡng và yếu tố hành vi. * Yếu tố nhân khẩu học: - Giới tính: Trong nhiều nghiên cứu về NKHHCT trẻ em tại cộng đồng, con trai thường hay mắc NKHHCT hơn con gái. Điều tra 5524 trẻ dưới 5 tuổi tại Tanzania năm 2007 về NKHHCT cho thấy tỷ lệ hiện mắc ở trẻ nam là 11,21% cao hơn ở trẻ nữ :9,85%. Nghiên cứu về NKHHCT trẻ em tại Huế năm 2003 cũng cho thấy tỷ lệ trẻ nam mắc NKHHCT là 40,57% cao hơn trẻ nữ: 39,11% [14],[28],[46]. - Tuổi của trẻ: Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng mắc NKHHCT nói chung tương đối ổn định trong nhóm trẻ từ 1 đến 5 tuổi, tử vong tập chung ở nhóm trẻ nhỏ dưới 1 tuổi. Thực tế, khoảng một nửa các trường hợp tử vong do bệnh đường hô hấp ở trẻ dưới 5 tuổi xảy ra chủ yếu ở trẻ 6 tháng đầu sau khi sinh [14],[45]. * Yếu tố kinh tế - xã hội. - Thu nhập bình quân theo đầu người. Yếu tố thu nhập liên quan tới NKHHCT này là rất khác nhau giữa các nước. mặc dù trẻ em dưới 5 tuổi ở trên toàn thế giới đều có số đợt NKHHCT là xấp xỉ như nhau (Khoảng 5 đợt/trẻ/năm), số mới mắc viêm phổi hàng năm ở các nước công nghiệp phát triển dao động từ 3% đến 4% và 10% đến 20% ở các nước đang phát triển. Sự khác biệt này cũng thấy rõ ngay trong một thành phố hoặc trong một nước. Ở khu vực phía nam Brazil, tỷ lệ tử vong do NKHHCT đối với trẻ ở các gia đình có thu nhập dưới 50 USD một tháng là 12/1000 trẻ đẻ sống, 16% trong số những trẻ này vào viện vì NKHHCT xảy ra ở trẻ dưới 20 tháng tuổi. Trong số trên 600 trẻ mà thu nhập gia đình trên 300 USD một tháng thì không có một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 trường hợp tử vong nào do viêm phổi và chỉ có 2% vào viện vì NKHHCT dưới [45]. Một nghiên cứu khác về nguy cơ cũng cho thấy trẻ em sống trong gia đình có điều kiện kinh tế thấp có nguy cơ mắc NKHHCT hơn [38],[54]. - Trình độ học vấn của bố, mẹ. Trình độ học vấn của các bà mẹ liên quan tới nguy cơ gia tăng tỷ lệ nhập viện và tử vong do nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp dưới. Nghiên cứu ở Brazil cũng đã cho thấy trẻ ở các gia đình mà bố, mẹ có trình độ học vấn của thấp (từ mù chữ đến lớp 4) có con vào viện bị viêm phổi cao gấp 2 đến 3 lần so với nhóm trẻ được chăm sóc bởi bố, mẹ học ở bậc cao hơn [14], [51]. * Yếu tố môi trường Yếu tố nguy cơ môi trường thường được nghiên cứu nhiều nhất bao gồm phơi nhiễm với khói bếp, khói thuốc lá, nhà ở chật trội đông đúc, phơi nhiễm với lạnh và ẩm ướt [15]. Các nghiên nghiên cứu về yếu tố nguy cơ NKHHCT đã dự tính rằng ở các nước phát triển, khoảng 30% các hộ gia đình ở thành phố và 90% các hộ gia đình ở vùng nông thôn sử dụng củi, rơm rạ và chất thải động vật như là nguồn chính cho đun nấu và suởi ấm. Thường thì các chất đốt này bị cháy không hoàn toàn và nồng độ các chất ô nhiễm trong nhà cao gấp 20 lần so với các nước công nghiệp phát triển [47]. Những nghiên cứu ở Nepal, Gambia, Zimbabure, Nam phi, Argentina đã thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh đường hô hấp cao hơn ở trẻ nhỏ khi bị phơi nhiễm với khói bếp trong nhà ở. Trong một nghiên cứu ở Nepal, tỷ lệ mới mắc NKHHCT liên quan trực tiếp với số giờ mà trẻ sống gần lò sưởi [44]. Khói thuốc lá bao gồm nhiều chất gây ô nhiễm tác động không tốt lên đường hô hấp của trẻ đặc biệt là khi hít phải khói thuốc thụ động. Người ta đã phát hiện hơn 4000 hợp chất khí và giọt cặn tạo lên khói thuốc lá, trong đó có tới 30 chất gây tác hại xấu đến sức khỏe. Hai chất được biết đến rõ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 nhất là CO và Nicotin là những chất gây tác hại lên hệ hô hấp và tim mạch [47]. Khi trong gia đình trẻ có nhiều người hút thuốc lá hoặc trong phòng ngủ của trẻ có người hút thuốc lá thì nguy cơ trẻ phải vào viện do NKHHCT cao gấp 2 lần, kết quả này đã được chỉ ra trong nghiên cứu của Bruce Nigel (2000) [40]. Chật trội đông đúc, số người trong gia đình cao, gia đình đông con là thường khá phổ biến ở các nước đang phát triển, vấn đề này đã làm góp phần gia tăng sự lan truyền bệnh qua các giọt nước bọt nhỏ và đã được khảng định rõ có liên quan tới các bệnh đường hô hấp. Một nghiên cứu ở Brazil đã chỉ ra rằng sau khi điều chỉnh yếu tố kinh tế xã hội và môi trường thì thấy rằng gia đình có từ 3 con dưới 5 tuổi trở lên có nguy cơ tử vong do viêm phổi cao gấp 2 đến 5 lần so với gia đình ít con [48],[51]. * Phơi nhiễm với lạnh và ẩm ướt. Nghiên cứu về yếu tố môi trường ảnh hưởng tới NKHHCT đã chỉ ra tỷ lệ trẻ vào viện do NKHHCT tăng cao hơn vào mùa lạnh, khi chuyển mùa. Điều tra tại Tripura (Ấn Độ) cho thấy tử vong do viêm phổi cao một cách đáng kể vào những tháng mùa đông và có liên quan đến số trẻ sống trong nhà tạm, nền nhà chưa được lát (nền đất) và trẻ phải ngủ dưới nền nhà. [57] * Yếu tố dinh dưỡng. Các yếu tố dinh dưỡng có thể ảnh hưởng tới NKHHCT bao gồm cân nặng lúc sinh, tình trạng dinh dưỡng, sữa mẹ, nồng độ vitamin A và các vi chất dinh dưỡng khác. Trẻ em suy dinh dưỡng đáp ứng miễn dịch kém và dễ bị nhiễm khuẩn hơn so với trẻ không bị suy dinh dưỡng. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà về suy dinh dưỡng với NKHHCT kết luận rằng suy dinh dưỡng ở trẻ là yếu tố có nguy cơ cao gây NKHHCT. Sau khi can thiệp vào vấn đề suy dinh dưỡng, số đợt mắc NKHHCT trung bình ở nhóm trẻ can thiệp đã giảm xuống 2,24 lần so với nhóm không được can thiệp [15]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Trẻ em có cân nặng sơ sinh thấp hoặc một số trường hợp giảm cân do viêm phổi hay tiêu chảy đều có nguy cơ vào viện gấp 2 lần khi so sánh với trẻ bình thường. Điều này giải thích là do đáp ứng miễn d ịch kém, chức năng phổi bị tổn thương do đường kính của của đường hô hấp trên nhỏ hơn và có khuynh hướng tắc nghẽn đường thở ngoại vi [15]. Nascimento và cộng sự khi xác định các yếu tố nguy cơ gây viêm phổi ở trẻ em tại Brazil cũng chỉ ra trẻ đẻ non tháng và trẻ có cân nặng thấp khi sinh sẽ có nguy cơ mắc bệnh viêm phổi nặng cao hơn bao gồm cả viêm phổi nói chung và nhóm trẻ này có nguy cơ vào viện vì viêm phổi trong 1 và 2 năm đầu sau khi sinh [48], [51]. * Thiếu sữa mẹ, cai sữa sớm. Sữa mẹ có thể bảo vệ trẻ chống lại NKHHCT thông qua một số cơ chế như là: sữa mẹ có chứa các chất kháng khuẩn và kháng virus, tế bào hoạt tính miễn dịch và các chất kích thích hệ thống miễn dịch của trẻ. Một nghiên cứu đã cung cấp thông tin về tử vong đặc hiệu do nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp dưới liên quan tới trẻ nuôi bằng sữa mẹ, những đứa trẻ được nuôi bằng sữa nhân tạo có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 1,6 lần và những đứa trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ thì có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 3,6 lần so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. Các nghiên cứu đã cung cấp các dữ liệu về sự liên quan giữa sữa mẹ và vào viện do viêm phổi ở Trung Quốc, Brazil, Canada, Argentina. Tất cả các nghiên cứu này đều chỉ ra rằng trẻ em không được nuôi sữa mẹ có nguy cơ vào viện do NKHHCT cao gấp từ 1,5 đến 4 lần [14], [36]. * Nhận biết về NKHHCT của bà mẹ Nghiên cứu của WHO cho thấy nếu bà mẹ biết dấu hiệu của viêm phổi và đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời, đồng thời nếu trẻ được xử trí đúng thì sẽ giảm được tỷ lệ mắc và tử vong do viêm phổi ở trẻ [56]. Nghiên cứu tiến hành ở vùng thành phố tại Ethiopia, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính chiếm tỷ lệ 33% trong tổng số các bệnh ở trẻ nhỏ và 20% trong số tử vong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 ở trẻ dưới 5 tuổi [50]. Trong nghiê cứu này, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 222 bà mẹ, hầu hết các bà mẹ không nhận biết được các dấu hiệu của viêm phổi bao gồm thở nhanh và rút lõm lồng ngực. Một số các mẹ nhận biết được dấu hiệu này nhưng không phân tích lý giải được tình trạng nặng của bệnh. Nghiên cứu này đã đưa ra kết luận bằng cách đưa ra các khuyến cáo là cần tăng cường công tác giáo dục sức khoẻ và nghiên cứu sâu hơn về niền tin của cộng đồng đối với NKHHCT ở trẻ, đặc biệt nhấn mạnh vào các dấu hiệu, triệu chứng của NKHHCT mà các gia đình có thể xác định được có phải con cái của họ có bị mắc NKHHCT hay không [50]. Nghiên cứu được tiến hành tại một cơ sở y tế tại Enugu, miền đông Nigeria để xác định kiến thức của các bà mẹ về việc nhận biết viêm phổi ở trẻ trước tuổi đi học [55]. Nhóm tác giả phỏng vấn 400 bà mẹ bằng bảng câu hỏi có cấu trúc và thấy rằng 65% bà mẹ nhận biết được viêm phổi qua dấu hiệu khó thở, 42% bà mẹ nhận biết được dấu hiệu thở nhanh và 26,5% biết dấu hiệu ho ở trẻ. Chỉ rất ít bà mẹ nhận biết được viêm phổi qua dấu hiệu: Rút lõm lồng ngực (8,5 %) và tím tái (1%). Nghiên cứu này cũng cho thấy điểm kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu viêm phổi gia tăng một cách có ý nghĩa với trình độ học vấn và tầng lớp xã hội của các bà mẹ (p <0,05). Trong khi đó 51% các bà mẹ tin rằng dấu hiệu thở nhanh là một dấu hiệu quan trọng để xác định viêm phổi ở trẻ, một số khá lớn các bà mẹ (87,5%) không tin tưởng rằng các dấu hiệu muộn như là rút lõm lồng ngực, tím tái có phải là dấu hiệu biểu hiện của tình trạng bệnh nặng hay không. Trên cơ sở các các tiêu chuẩn của WHO, nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng nhận biết viêm phổi ở trẻ em của các bà mẹ ở mức trung bình, trong khi đó kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu chỉ điểm viêm phổi nặng ở mức rất kém. Vì thế cần đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ về NKHHCT cho các bà mẹ đặc biệt là cách nhận biết các biểu hiện của viêm phổi và viêm phổi nặng [55]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Bà mẹ có con dưới 5 tuổi - Trẻ em dưới 5 tuổi - Sổ sách, báo cáo thống kê của trạm y tế xã 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian: Từ tháng 12/2006 – 12/2007 - Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. 2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu mô tả: Sử dụng phương pháp điều tra cắt ngang để mô tả thực trạng tình hình NKHHCT tại cộng đồng nghiên cứu [2]. Cỡ mẫu được tính theo công thức sau: 2 2 . 1 2 p q n Z d Trong đó: n: cỡ mẫu cần có; 1 2 Z : hệ số giới hạn tin cậy với = 0,05 thì 1 2 Z = 1,96 p = 0,39; Tỷ lệ trẻ mắc NKHHCT = 39,75% [28] q = 1- p = 0,61; d= 0,06; Sai số mong muốn (d = 6%) -> n = 254 trẻ. Để tăng thêm độ chính xác khi nghiên cứu chúng tôi gấp đôi cỡ mẫu 2n = 508 trẻ. 2.3.2. Nghiên cứu bệnh chứng. Nhóm bệnh: Trẻ dưới 5 tuổi mắc NKHHCT Nhóm chứng: Trẻ dưới 5 tuổi không mắc NKHHCT Cỡ mẫu được tính theo công thức sau: [2] {1/[p1(1-p1)] + 1/[p2 (1- p2)} n = z2α/2 [Ln (1- ε) ] 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 n: Cỡ mẫu cần có ở mỗi nhóm Z α/2 : Hệ số giới hạn tin cậy = 1,96 p1 : Tỷ lệ cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ ở nhóm bệnh. p2 : Tỷ lệ cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ ở nhóm chứng. Theo 1 nghiên cứu trước đây thì tỷ lệ trẻ có trọng lượng khi sinh thấp ở nhóm chứng p2 = 0,26 (26%)[28]. Với p1 = OR x p2 = 0,41 OR x p2 + (1 - p2) ε : Mức độ chính xác mong muốn: ε = 0,33 Thay vào công thức trên tính được cỡ mẫu: n = 224 trẻ 2.4. Phƣơng pháp chọn mẫu - Chọn mẫu chủ đích: Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn là một huyện miền núi vùng cao mới tách ra từ huyện Bạch Thông từ năm 1998. Diện tích của huyện là 606,11 km 2 gồm 15 xã và 1 thị trấn. Về vị trí : - Phía Đông giáp huyện Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên và huyện Na Rì - tỉnh Bắc Kạn. - Phía Tây giáp huyện Định Hóa - tỉnh Thái Nguyên - Phía Nam giáp huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên, - Phía Bắc giáp thị xã Bắc Kạn. Dân số của huyện là 38.443 người, gồm các dân tộc sinh sống: Tày, Kinh, Nùng, Dao, H'Mông, Hoa, Sán Chí. Trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 70% dân số toàn huyện. Hơn 80% số hộ gia đình trong huyện làm nghề nông nghiệp, đời sống kinh tế của người dân nơi đây còn gặp rất nhiều khó khăn [10],[30]. - Lập danh sách các xã trong toàn huyện và chọn ngẫu nhiên 4 xã để điều tra hộ gia đình và khám trẻ. Chọn ngẫu nhiên bằng phương pháp bốc thăm. Kết quả gồm các xã: Bình Văn, Thanh Bình, Nông Hạ, Hòa Mục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 - Với mẫu nghiên cứu mô tả: Lập danh sách trẻ dưới 5 tuổi trong từng xã chọn ra 508 trẻ vào diện nghiên cứu. Do tổng số trẻ dưới 5 tuổi trong 4 xã tương đương với cỡ mẫu nghiên cứu nên chúng tôi lấy toàn bộ số trẻ vào diện nghiên cứu (kết quả n = 552 trẻ). - Với mẫu nghiên cứu bệnh – chứng: Nghiên cứu cần tối thiểu là 224 trẻ mắc NKHHCT vào nhóm bệnh và 224 trẻ không mắc NKHHCT vào nhóm chứng. Mẫu nhóm chứng nghiên cứu yêu cầu cùng lứa tuổi, cùng vùng địa dư nghiên cứu với nhóm bệnh. Qua nghiên cứu mô tả, số trẻ mắc NKHHCT là 225, số trẻ không mắc NKHHCT là 327 xấp xỉ cỡ mẫu tối thiểu và tương đương với tỷ lệ 1:1 nên chúng tôi lấy toàn bộ 225 trẻ mắc vào nhóm bệnh và 327 trẻ không mắc vào nhóm chứng. 2.5. Các chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số. 2.5.1. Chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu. - Kinh tế hộ gia đình: Theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2006 – 2010 [1]. + Hộ nghèo: Thu nhập bình quân trên đầu người dưới 200.000 đồng /người /tháng (2.400.000 đồng/người/năm) + Hộ không nghèo: Thu nhập bình quân quân trên đầu người từ 200.000 đồng /người /tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở lên [1]. - Trình độ học vấn của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi. + Mù chữ: là những người không biết đọc, biết viết. + Biết đọc, biết viết là những người học chưa hết lớp 4/10 hoặc 5/12. + Tiểu học là những người đã học hết lớp 4/10 hoặc 5/12. + Trung học cơ sở là những người đã học hết lớp 7/10 hoặc lớp 9/12. + Phổ thông trung học là những người đã học hết lớp 10/10 hoặc lớp12/12. - Dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hoa, H’Mông, Sán Chí và các dân tộc thiểu số khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 - Nghề nghiệp của bà mẹ: Làm ruộng, buôn bán, công nhân, giáo viên, công chức, nghề khác. 2.5.2. Chỉ số về tình hình bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ. - Tỷ lệ NKHHCT chung của trẻ dưới 5 tuổi tại các điểm nghiên cứu. - Phân bố tỷ lệ NKHHCT trẻ em dưới 5 tuổi theo mức độ nặng, nhẹ của bệnh, gồm 3 thể [28],[3]. + Không viêm phổi; ho hoặc cảm lạnh. + Viêm phổi. + Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng. Tiêu chuẩn chẩn đoán NKHHCT trẻ em tại cộng đồng theo quy định của Bộ Y tế như sau [3],[28]. Với trẻ từ 2 tháng – 5 tuổi Dấu hiệu Phân loại - Trẻ có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm toàn thân nào hoặc - Rút lõm lồng ngực hoặc - Thở rít khi nằm yên Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng - Thở nhanh: Đếm nhịp thở của trẻ trong 1 phút, thở nhanh xác định theo tháng tuổi: Trẻ 2 -<12 tháng tuổi: ≥ 50 nhịp/1 phút Trẻ 12 đến 5 tuổi: ≥ 40 nhịp/1 phút Viêm phổi Trẻ bị ho hoặc khó thở và không có dấu hiệu viêm phổi hoặc viêm phổi nặng. Không viêm phổi; ho hoặc cảm lạnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Với trẻ dưới 2 tháng tuổi Dấu hiệu Phân loại - Trẻ có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm toàn thân nào hoặc - Rút lõm lồng ngực hoặc - Thở nhanh: ≥ 60 nhịp/1 phút Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng Trẻ bị ho hoặc khó thở và không có dấu hiệu viêm phổi hoặc bệnh rất nặng. Không viêm phổi; ho hoặc cảm lạnh Các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân gồm: Không uống được hoặc bỏ bú; li bì hoặc khó đánh thức; nôn tất cả mọi thứ; co giật. Dấu hiệu rút lõm lồng ngực: là dấu hiệu thấy được khi quan sát lồng ngực trẻ khi trẻ hít vào, có dấu hiệu rút lõm lồng ngực khi thấy phần dưới lồng ngực của trẻ lõm vào khi trẻ hít vào. Dấu rút lõm lồng ngực xảy ra khi trẻ phải gắng sức để hít vào. Dấu rút lõm lồng ngực chỉ có ý nghĩa khi nhìn thấy liên tục và rõ ràng, nếu chỉ thấy lúc trẻ đang khóc hoặc đang bú thì không phải có dấu rút lõm. Thở rít khi nằm yên: Tiếng thở rít là một tiếng thở thô ráp tạo ra khi trẻ hít vào. Muốn nghe rõ tiếng này phải để sát tai vào miệng của bệnh nhân . Thở rít xảy ra khi có hẹp thanh quản, khí quản hoặc nắp thanh quản làm cản trở không khí vào phổi. Khi trẻ không b ị bệnh nặng, tiếng thở rít chỉ nghe được nếu trẻ kêu khóc hoặc giắng sức. Do đó tiếng thở rít chỉ được xác định chính xác khi để trẻ nằm yên . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 - Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ dưới 5 tuổi theo các nhóm tuổi, có 4 nhóm tuổi: 1 tháng tuổi; từ 2 – 11 tháng tuổi ; từ 12 – 35 tháng tuổi; từ 36 – 60 tháng tuổi. Cách tính tuổi theo quy ước của WHO (1983): + Tính tuổi theo tháng (đối với trẻ dưới 5 tuổi) Kể từ khi mới sinh đến tròn 1 tháng (từ 1 đến 29 ngày là tháng thứ nhất được) được gọi là tròn 1 tháng. Kể từ ngày tròn 1 tháng đến trước ngày tròn 2 tháng được gọi là 2 tháng tuổi. Các tháng tiếp theo tính tương tự. + Tính tuổi theo năm: Trẻ từ khi sơ sinh đến 11 tháng 29 ngày gọi là 0 tuổi hay dưới 1 tuổi. Các năm tiếp theo tính tương tự. Vậy trẻ dưới 5 tuổi là trẻ từ 0 – 4 tuổi hay từ 1 đến 60 tháng tuổi. - Phân bố tỷ lệ NKHHCT ở trẻ em dưới 5 tuổi theo giới. - Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ em dưới 5 tuổi theo dân tộc. - Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ em dưới 5 tuổi theo nghề nghiệp mẹ. - Tỷ lệ tử vong do NKHHCT tại các địa điểm điều tra. 2.5.3. Chỉ số về các yếu tố nguy cơ: - Bản thân trẻ: + Giới của trẻ. + Cân nặng khi sinh + Thời gian cai sữa cho trẻ:  Cai sữa sớm: Trước 18 tháng.  Cai sữa đúng: Từ 18 – 24 tháng. + Tình hình tiêm chủng phòng bệnh.  Tiêm chủng đủ, đúng lịch: là tiêm đúng thời gian theo lịch tiêm chủng đồng thời đủ số mũi tiêm và loại vacine theo độ tuổi của trẻ tại thời điểm điều tra. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23  Tiêm chủng không đủ, hoặc đủ nhưng không đúng lịch: là không đảm bảo 1 trong 3 điều kiện: đủ số mũi, đủ loại vacine theo độ tuổi, đúng thời gian. - Kiến thức về NKHHCT của bà mẹ: Các câu hỏi được thiết kế để đánh giá bà mẹ về kiến thức phát hiện dấu hiệu bệnh NKHHCT ở trẻ, kiến thức xử trí khi trẻ mắc NKHHCT, kiến thức dự phòng NKHHCT cho trẻ. Có 10 câu hỏi đánh giá kiến thức, mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm. Đánh giá bằng cách cho điểm theo 3 mức độ: Kiến thức kém: < 5 điểm Kiến thức trung bình: Từ 5 đến <7 điểm. Kiến thức khá, tốt: Từ 7điểm trở lên. - Yếu tố môi trường sống của trẻ Loại nhà ở: Nhà tạm, nhà bán kiên cố, kiên cố. Tình trạng nhà ở phân thành 2 nhóm: Ẩm thấp, trống trải; Thoáng, sạch sẽ. Tình trạng bếp đun trong nhà: có bếp đun đặt trong nhà không được cách ly bếp đun với phòng ngủ, phòng khách. Loại bếp đun bằng củi, than. Gia đình có người hút thuốc lá, thuốc lào: Hút thuốc lá hoặc thuốc lào trong nhà hoặc hút gần trẻ. Hút thuốc hàng ngày, tần suất trung bình 5 điếu/ngày. Quy mô hộ gia đình: Hộ gia đình hạt nhân (phổ biến tại khu vực vùng cao, miền núi): Từ 6 người trở xuống, gồm 3 thế hệ ông bà, bố mẹ, con cháu cùng sinh sống trong một gia đình. Hộ gia đình đông người: trên 6 người cùng sinh sống trong một nhà. Chuồng gia súc dưới gầm sàn nhà, gần nhà dưới 10m, không đảm bảo vệ sinh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 2.6. Phƣơng pháp thu thập số liệu và xử lý sai số. Phỏng vấn các bà mẹ có con dưới 5 tuổi, kết hợp với quan sát tại hộ gia đình, các kết quả được ghi chép vào phiếu điều tra in sẵn. Phiếu phỏng vấn được thiết kế theo đúng qui trình, được thử nghiệm, chỉnh sửa trước khi đưa vào điều tra chính thức. Phỏng vấn bà mẹ bởi các cán bộ khối Y tế công cộng – Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, được tập huấn kỹ các nội dung phỏng vấn trước khi điều tra tại khu vực nghiên cứu. Khám lâm sàng và phân loại NKHHCT cho trẻ dưới 5 tuổi bởi các bác sỹ chuyên khoa Nhi – Bệnh viện Đa khoa TW Thái Nguyên. Kết quả khám phân loại được ghi vào các phiếu khám in sẵn. 2.7. Phƣơng pháp xử lý số liệu: Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học dựa trên các phần mền EPIDATA 3.02, SPSS 16.0. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu. Qua nghiên cứu 552 trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn chúng tôi đưa ra một số kết quả sau. Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tình hình kinh tế hộ gia đình K

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_Y_DP_MAT.pdf