MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .1
NỘI DUNG .15
Chương 1. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN.15
1.1. Tình hình dạy học phần thực hành Tiếng Việt trong nhà trường THPT
hiện nay .15
1.1.1. Về chương trình dạy học .15
1.1.2. Các dạng bài tập Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT.16
1.1.3. Khảo sát tình hình dạy học Tiếng Việt (bậc THPT) hiện nay.24
1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động thực hành và việc phát triển tư duy cho học
sinh trong dạy học Tiếng Việt hiện nay .28
1.2.1. Vai trò của thực hành ngôn ngữ .28
1.2.2. Tư duy và vấn đề phát triển tư duy cho học sinh qua dạy thực hành.29
1.2.3. Hoạt động tư duy của HS khi thực hành thông qua việc giải bài tập.36
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC SINH .39
2.1. Cơ sở phân loại hệ thống bài tập Tiếng Việt .39
2.1.1. Nhóm bài tập dựa vào mục đích – yêu cầu – đặc trưng của việc dạy học
các phân môn Tiếng Việt.39
2.1.2. Nhóm bài tập dựa vào hình thức tiến hành luyện tập.40
2.1.3. Nhóm bài tập dựa vào mức độ nhận thức hoặc chủ đích rèn luyện tư
duy cho HS .40
2.2. Những yêu cầu cơ bản khi tiến hành tổ chức hệ thống bài tập theo hướng
phát triển tư duy cho HS.41
2.2.1. Đảm bảo một số yêu cầu về hệ thống bài tập.41
156 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 683 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức và sử dụng hệ thống bài tập tiếng việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh bậc trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gôn ngữ sinh hoạt thể hiện trong câu (1), so sánh với câu (2) và chỉ ra
điểm khác nhau giữa chúng?
Việc so sánh như trên không chỉ giúp HS nhớ lại kiến thức cũ mà còn giúp cho
kiến thức được hình thành sau khi HS giải bài tập trở nên bền vững hơn, sâu sắc
hơn. Tương tự như các kiểu bài tập có mục đích hình thành kiến thức đã nói ở trên,
yêu cầu của kiểu bài tập này cũng tương đối đơn giản, mang tính chất gợi mở, tránh
tình trạng HS phải mất nhiều thời gian “mò mẫm” để tìm ra kiến thức mới.
Kiểu 2: Yêu cầu so sánh để rút ra nhận xét nhằm ôn tập, củng cố kiến thức.
Kiểu bài tập này có thể yêu cầu chuyển đổi ngữ liệu rồi so sánh ngữ liệu đã
cho với ngữ liệu chuyển đổi để rút ra nhận xét. Nó tương tự như dạng bài tập biến
đổi của SGK (xem 1.1.2.2).
Hay cũng có thể cho sẵn các ngữ liệu để HS so sánh. Chẳng hạn: So sánh hai
cách diễn đạt dưới đây xem cách nào được phong cách sinh hoạt ưa thích. Những
54
yếu tố dư có phải là những yếu tố thừa, vô ích? Nhà văn thường nhằm mục đích gì
khi sử dụng các yếu tố dư trong lời đối thoại?
A B
Nó chết một cái nhà tôi neo người quá, phải
đi, chứ những người như một mình tôi, thì tôi
ở lại làng với anh em cơ đấy. (Kim Lân)
Nhà tôi ít người quá nên tôi phải
đi, nếu không tôi đã ở lại làng với
mọi người.
Thì lạy thầy, thế này làng ta thì đông, thầy cắt
ai đi mà chẳng được. (Nguyễn Công Hoan)
Lạy thầy! Làng ta thì đông, thầy
cắt ai mà chẳng được.
Thì giá anh không há đã làm sao? Mà tôi
cũng không hiểu anh nghĩ thế nào anh lại há
mồm cho nó xem. (Nguyễn Công Hoan)
Hãy nói rõ vì sao anh há mồm cho
nó xem.
Để giải bài tập, HS cần tái hiện lại những đặc điểm của phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt, sau đó so sánh. HS có thể nhận ra hai cách diễn đạt trong mỗi ngữ liệu
không làm thay đổi nội dung cần diễn đạt. Nhưng cách diễn đạt A dài dòng hơn với
các yếu tố dư (thường là các hình thức lặp, nghi vấn, cảm thán, các trợ từ, ngữ khí
từ). Những yếu tố dư trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là do đối thoại trực tiếp
gây ra, giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ theo dõi, dễ tiếp nhận thông tin. Mặt khác,
những yếu tố dư còn giúp cho người nói có thể bày tỏ tình cảm, thái độ của mình
qua mạch suy nghĩ bên trong tự nhiên, sinh động. Đó là cách nhà văn thường dùng
để mô tả tính cách nhân vật. Bài tập này giúp HS nhận ra đâu là cách diễn đạt bình
thường và đâu là cách diễn đạt có dụng ý của người nói, người viết. Từ đó khái quát
được tác dụng của các yếu tố dư thừa trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
c) Loại bài tập tạo lập sơ đồ để rèn luyện thao tác tư duy khái quát
Sơ đồ hóa là phương pháp diễn đạt nội dung bằng ngôn ngữ sơ đồ, được thể
hiện bằng các kí hiệu khác nhau như hình vẽ, lược đồ, đồ thị, graph, Sử dụng sơ
đồ để mô tả sự vật, hoạt động, cho phép hình dung trực quan các mối liên hệ giữa
các yếu tố trong cấu trúc của sự vật. Bài tập tạo lập sơ đồ góp phần hình thành ở HS
55
thói quen và kĩ năng sơ đồ hóa, mô hình hóa logic phát triển của sự vật, hiện tượng
từ vi mô đến vĩ mô.
Việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học đã được vận dụng từ lâu và mang
lại hiệu quả cao. Những sơ đồ, bảng biểu thường giúp HS khái quát vấn đề tốt hơn,
hiểu được mối quan hệ logic giữa các nội dung trong một đơn vị ngôn ngữ. Tuy
nhiên, kiểu bài tập này chưa được SGK chú ý khai thác. Theo chúng tôi, có thể thiết
kế hai kiểu bài tập để rèn luyện thao tác tư duy khái quát cho HS.
Kiểu 1: Từ việc phân tích hai hay nhiều ngữ liệu để khái quát kiến thức
bằng sơ đồ.
Đây là kiểu bài tập yêu cầu HS rút ra nhận xét hoàn chỉnh, đầy đủ về đối
tượng khảo sát. HS phải biết phân tích, đối chiếu với các đơn vị (đồng loại, khác
loại) trong cùng hệ thống, biết sắp xếp các đặc trưng đối tượng theo trình tự logic,
hợp lý. Nói cách khác, kiểu bài tập này không chỉ có tác dụng rèn luyện thao tác tư
duy khái quát mà còn rèn luyện cả thao tác tư duy phân tích, so sánh. Khả năng khái
quát hóa vấn đề biểu thị mức độ tư duy khá cao, là cơ sở giúp HS tự học, tự khai
thác kiến thức.
Ví dụ 1: Phân tích biện pháp tu từ được sử dụng trong những ngữ liệu dưới
đây và cho biết khái niệm về biện pháp tu từ đó (thể hiện bằng sơ đồ)?
a) “Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
(Ca dao)
b) “Đầu xanh đã tội tình gì,
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”
(Nguyễn Du)
Đây là kiểu bài tập tương đối khó, GV nên cho HS làm việc nhóm, các HS
giỏi có thể giúp đỡ các HS yếu hơn. Mỗi nhóm HS có thể tạo được những sơ đồ
khác nhau. Qua đó, các em có thể học hỏi lẫn nhau ở cách tư duy, cách khái quát
vấn đề sao cho hiệu quả nhất. Muốn tạo được sơ đồ HS phải nắm rõ vấn đề. Qua sơ
56
đồ HS sẽ nhớ sâu, nhớ kĩ hơn kiến thức được học. Chẳng hạn, với 2 ngữ liệu trên,
HS có thể tạo được sơ đồ như hình 2.3 và hình 2.4.
a)
Hình 2.3. Sơ đồ khái quát về bản chất phép tu từ ẩn dụ
b)
Hình 2.4. Sơ đồ khái quát về bản chất phép tu từ hoán dụ
Kiểu 2: Yêu cầu hệ thống hóa kiến thức với sơ đồ, bảng biểu.
Bài tập yêu cầu hệ thống hóa kiến thức có thể được sử dụng sau khi GV dạy
phần lý thuyết, trong các bài ôn tập hoặc để hướng dẫn HS tự học. Với những phần,
những chương gồm nhiều bài với dung lượng kiến thức nhiều và đa dạng, để tránh
sự dàn trải và rời rạc về những nội dung cần ghi nhớ, bài tập yêu cầu hệ thống hóa
kiến thức giúp HS có cái nhìn tổng thể – bao quát – tập trung về những kiến thức cơ
bản đã được học.
Tạo giá trị biểu cảm
Dùng tên gọi của B
(Thuyền, bến)
Để gọi tên cho A (A ẩn)
(Chàng, thiếp)
(Cố định – thủy chung;
Di chuyển – dễ thay đổi)
Quan hệ tương đồng
A B
Giống nhau
Liên tưởng tương đồng
Phép tu từ ẨN DỤ
Nhận thức vấn đề
Dùng tên gọi của B
(Đầu xanh; Má hồng)
Gọi tên cho A (A ẩn)
(Người con gái đẹp,
tuổi trẻ)
(Toàn thể - bộ phận)
Quan hệ tương cận
A B
Gần gũi nhau
Liên tưởng tương cận
Phép tu từ HOÁN DỤ
57
Ví dụ 1: Bài “Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết” có trọng tâm
hướng đến kĩ năng phân biệt để không sử dụng nhầm lẫn giữa ngôn ngữ nói vàn
ngôn ngữ viết nên sau khi GV hướng dẫn HS tìm hiểu từng dạng ngôn ngữ có thể
yêu cầu HS khái quát lại những kiến thức đã học trong sự so sánh với nhau qua bài
tập:
Viết lại truyện cười “Mất rồi” (Cháy) mà không dùng hình thức đối thoại.
Phân tích và thể hiện sự khác nhau giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết bằng sơ đồ,
bảng biểu.
Những HS khá có thể tự xây dựng được sơ đồ, bảng biểu; HS yếu hơn GV có
thể gợi ý cho HS như bảng 2.3.
Ngôn ngữ nói Ngôn ngữ viết
Phương tiện ngôn ngữ
Tình huống giao tiếp
Phương tiện phụ trợ
Đặc điểm ngôn ngữ
Bảng 2.3. So sánh đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Dựa vào những kiến thức đã học về đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết,
HS tiến hành phân tích, so sánh sau đó khái quát thành bảng biểu hoặc sơ đồ.
Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu khái niệm và các thành phần của ngữ
cảnh trong bài học “Ngữ cảnh”, GV có thể yêu cầu HS tóm tắt bài học bằng sơ đồ
hoặc bảng biểu để củng cố kiến thức.
Để tạo lập được sơ đồ, bảng biểu trước hết HS phải nắm vững nội dung bài
học, phải lựa chọn hình thức (sơ đồ hay bảng biểu) cho phù hợp, phải sắp xếp các
đơn vị kiến thức vào đúng vị trí của nó (để hiểu mối quan hệ giữa các đơn vị kiến
thức) HS có thể lập được graph như hình 2.5 hoặc sơ đồ tư duy như hình 2.6.
58
Hình 2.6. Sơ đồ hệ thống kiến thức bài học Ngữ cảnh
Vai trò
Với người nói
(viết)
Với người
nghe (đọc)
NGỮ CẢNH
Khái niệm
Nhân tố
Bối cảnh
ngôn ngữ
Người nói (viết) sản sinh ra
Người nghe (đọc) lĩnh hội
Nhân vật
giao tiếp
Bối cảnh
ngoài ngôn
Bối cảnh giao tiếp hẹp
Hiện thực được nói tới
Bối cảnh giao tiếp rộng
Văn cảnh
Hình 2.5. Graph hệ thống kiến thức bài học Ngữ cảnh
59
Ví dụ 3: Để ôn tập về các phong cách chức năng đã học, GV lập bảng 2.4 và
yêu cầu HS điền vào bảng. Bằng sự so sánh, đối chiếu các tiêu chí, HS một lần nữa
được ôn tập lại kiến thức và có cái nhìn khái quát về các loại phong cách chức năng.
Các dạng
biểu hiện
Mục đích
giao tiếp
Phạm vi
giao tiếp
Đặc điểm về
nội dung
Đặc điểm về
hình thức
Phong cách
ngôn ngữ
sinh hoạt
Phong cách
ngôn ngữ
nghệ thuật
Phong cách
ngôn ngữ
báo chí
Bảng 2.4. Phân biệt các loại phong cách chức năng
Khi xây dựng sơ đồ, bảng biểu, tùy theo thời gian, phạm vi kiến thức và đối
tượng HS mà GV có thể tạo lập sẵn sơ đồ, bảng biểu và để trống một số ô cho HS
điền hoặc cũng có thể để các em tự lập cho mình một sơ đồ, bảng biểu. Điều này
thường được HS hào hứng tham gia, qua đó các em vừa củng cố kiến thức, vừa thể
hiện được sự sáng tạo và tư duy khái quát, tư duy logic. Thêm nữa, với những bài
tập có độ khó và phạm vi kiến thức tương đối rộng như thế này, GV nên cho HS
làm việc theo nhóm.
2.3.1.2. Dạng bài tập rèn luyện tư duy logic
Phát biểu “ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác) đã thể hiện
mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy. Ngay từ khi xuất hiện, tư duy đã
gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn ngữ. Nói cách khác, ngôn
ngữ vừa là công cụ vừa là cái vỏ vật chất của tư duy. Thực tiễn giảng dạy đã cho
60
thấy HS nào yếu về tư duy đồng thời cũng yếu về ngôn ngữ và ngược lại em nào
yếu về ngôn ngữ cũng yếu về năng lực tư duy.
Việc sử dụng các bài tập rèn luyện từng thao tác tư duy như đã nêu trên không
phải không có tác dụng trong việc rèn luyện tư duy logic. Tuy nhiên, với môn Tiếng
Việt, mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy logic cho thấy nếu tư duy
logic phát triển thì ngôn ngữ sẽ mạch lạc, có tính thuyết phục, lý lẽ chặt chẽ, kết cấu
đầy đủ; ngược lại tư duy logic kém thì hiệu quả sử dụng ngôn ngữ do đó cũng hạn
chế. Nói cách khác rèn luyện ngôn ngữ sao cho mạch lạc, thuyết phục cũng chính
là rèn luyện tư duy. Vì vậy chúng tôi đề xuất một số dạng bài tập rèn luyện tư duy
logic cho HS như sau:
a) Loại bài tập chữa lỗi diễn đạt (lỗi logic)
Khi nói tới lỗi diễn đạt chúng ta thường nghĩ ngay đến mặt sử dụng ngôn ngữ
chứ ít ai nghĩ rằng lỗi diễn đạt có liên quan đến tư duy của người nói, viết. Tuy
nhiên mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy cho thấy, để tránh lỗi diễn đạt, một mặt
phải nắm vững qui tắc sử dụng ngôn ngữ, mặt khác phải không ngừng rèn luyện
năng lực tư duy. Rèn luyện ngôn ngữ chính là rèn luyện từ câu rồi đến đoạn văn,
bởi câu là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống ngôn ngữ. Muốn sử dụng ngôn ngữ mạch
lạc, thuyết phục để có tư duy logic phát triển thì trước hết phải nói, viết câu đúng.
Thực tế cho thấy, dù đã học đến bậc THPT nhưng HS vẫn viết câu sai, hy vọng với
việc chú ý đến bài tập chữa lỗi diễn đạt, HS sẽ có ý thức hơn mỗi khi viết, nói để
phù hợp.
Bài tập chữa lỗi là một dạng bài tập quen thuộc trong môn Tiếng Việt. SGK
cũng có bài tập này nhưng không nhiều, chưa đủ để rèn luyện tư duy logic cho HS.
Mặt khác, ngữ liệu mà SGK sử dụng hầu hết là ngữ liệu do người biên soạn đặt ra
nên còn xa lạ với với HS. Trong khi đó, những bài làm văn, những bài tập tạo lập
câu, văn bản và thực tế giao tiếp hàng ngày của HS lại là một nguồn ngữ liệu vô
cùng phong phú, thiết thực để thiết kế loại bài tập chữa lỗi. Việc phát hiện và chữa
lỗi trong chính bài làm của HS sẽ thu hút được sự chú ý và hứng thú học tập của các
em, qua đó mà việc rèn luyện tư duy cũng đạt hiệu quả hơn.
61
Tùy theo tình hình thực tế của từng lớp, từng trường, tùy vào từng đối tượng
HS mà GV sẽ thiết kế những bài tập chữa lỗi tương ứng.
Ví dụ: Phân tích lỗi trong các câu sau và chữa lại cho đúng (mỗi câu có thể có
nhiều cách chữa, nêu tất cả các cách chữa đó).
(1) Cháu nhớ kì nghỉ hè năm ngoái về quê lùa gà cùng bà vào chuồng.
(2) Chúng em đã giúp các bạn học sinh những vùng bị bão lụt quần áo, giày
dép và nhiều đồ dùng học tập khác.
(3) “Lão Hạc”, “Bước đường cùng” và Ngô Tất Tố đã giúp chúng ta hiểu sâu
sắc thân phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.
(4) Bài thơ không chỉ hay về nghệ thuật mà còn sắc sảo về ngôn từ.
(5) Trên sân ga chỉ còn lại hai người. Một người thì cao gầy, còn một người
thì mặc áo ca rô.
(6) Nam bị ngã xe máy hai lần, một lần trên đường phố và một lần bị bó bột
tay.
Việc phân tích và chữa lỗi có thể như trong bảng sau:
TT Phân tích lỗi Sửa lại
1 Sai về trật tự từ Cháu nhớ kì nghỉ hè năm ngoái về quê cùng bà
lùa gà vào chuồng
2 Nhầm lẫn quan hệ giữa các
đối tượng: “đồ dùng học
tập” không bao hàm “quần
áo, giày dép”
+ Chúng em đã giúp các bạn học sinh những
vùng bị bão lụt giấy bút, sách vở và nhiều đồ
dùng học tập khác.
+ Chúng em đã giúp các bạn học sinh những
vùng bị bão lụt quần áo, giày dép và nhiều đồ
dùng sinh hoạt khác.
+ Chúng em đã giúp các bạn học sinh những
vùng bị bão lụt quần áo, giày dép và nhiều đồ
dùng học tập.)
62
3 “Lão Hạc”, “Bước đường
cùng” và Ngô Tất Tố
không cùng trường từ
vựng.
+ “Lão Hạc”, “Bước đường cùng” và “Tắt đèn”
đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc thân phận của
người nông dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám 1945.
+ Nam Cao, Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất
Tố đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc thân phận của
người nông dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám 1945.
4 Nghệ thuật và ngôn từ
không bình đẳng với nhau.
+ Bài thơ không chỉ hay về nghệ thuật mà còn
sắc sảo về nội dung.
+ Bài thơ không chỉ hay về bố cục mà còn sắc
sảo về ngôn từ.
+ Bài thơ hay về nghệ thuật nói chung, sắc sảo
về ngôn từ nói riêng.
5 Cao gầy và áo ca rô không
cùng trường từ vựng.
+ Trên sân ga chỉ còn lại hai người. Một người
thì cao gầy, còn một người thì lùn và mập.
+ Trên sân ga chỉ còn lại hai người. Một người
thì mặc áo trắng, còn một người thì mặc áo ca
rô.
6 “Đường phố” và “bó bột
tay” không cùng một phạm
trù.
+ Nam bị ngã xe máy hai lần, một lần bị khâu
bốn mũi ở chân và một lần bị bó bột tay.
+ Nam bị ngã xe máy hai lần, một lần trên
đường phố và một lần ở ngay cổng nhà mình.
b) Loại bài tập sáng tạo
Đây cũng là loại bài tập có mục đích rèn luyện kĩ năng diễn đạt, lập luận hợp
logic cho HS. Mỗi HS có thể tìm ra nhiều đáp án khác nhau, các HS khác nhau cũng
63
có thể có những đáp án khác nhau nên GV có thể tổ chức cho HS sửa bài cho nhau
sau khi hoàn thành bài tập.
Kiểu 1: Sáng tạo mở rộng
Ví dụ 1: Dựa vào những từ ngữ sau đây, em hãy viết thành câu hoàn chỉnh:
không kém gì; không hơn gì; có thôi; những kia; Tuy
nhưng; Mới đã; Đã vẫn còn; Vì nên; Hễ thì
Đây là bài tập khá đơn giản giúp HS bước đầu chú ý đến việc lập luận sao cho
chặt chẽ, rõ ràng, rành mạch.
Ví dụ 2: Mở rộng các câu sau đây đến mức tối đa có thể. So sánh với những
câu ban đầu và nhận xét về tác dụng, hiệu quả của việc mở rộng câu
- Máy bay bay.
- Tôi mua.
- Vải đẹp.
Bài tập này có thể xem là một phương pháp hiệu quả giúp HS sử dụng ngôn
ngữ một cách hiệu quả (đúng và hay). Các câu cho ở đề bài đều là những câu rút
gọn ở dạng tối thiểu, yêu cầu mở rộng câu thực chất chính là mở rộng các thành
phần cấu tạo nên câu. Thường xuyên làm những bài tập này HS sẽ có kĩ năng diễn
đạt nội dung thông tin một cách phong phú. Câu văn tránh được tính cộc lốc, cụt
ngủn, nghèo nàn về ý tưởng và thô sơ về hình thức diễn đạt vì thế mà tư duy logic
cũng được rèn luyện.
Kiểu 2: Sáng tạo rút gọn
Ví dụ: Chuyển đổi 2 câu đơn thành câu ghép trong những trường hợp sau:
- Mẹ tôi đã mất. Chị tôi đi lấy chồng xa.
- Ông nổi giận. Bà không nói gì cả.
- Hắn nhân nhượng. Vợ hắn cứ làm già.
- Nó cố nín. Tiếng khóc bật ra tức tưởi.
64
Cho biết trong trường hợp nào việc ghép hai câu đơn thành câu ghép là cần
thiết, trường hợp nào không? Vì sao?
Với mỗi câu đơn, HS có thể ghép lại theo nhiều cách khác nhau. Từ những
cách ghép đó HS sẽ nhận ra ở câu thứ nhất, hai sự việc không có quan hệ nhân quả
và có thể xảy ra vào những thời điểm cách xa nhau về thời gian, do đó không cần
thiết phải ghép; ở câu thứ hai, hai sự việc có sự liên quan với nhau, tùy theo cách
ghép có thể là quan hệ nhân quả, quan hệ đối chiếu, nên việc ghép câu là hợp lý.
2.3.1.3. Dạng bài tập tích hợp kiến thức Tiếng Việt và Văn học để rèn luyện
tư duy hình tượng
Rèn luyện tư duy hình tượng là rèn luyện sự suy nghĩ, phán đoán, nhận xét,
đánh giá ngôn ngữ nghệ thuật để khám phá hình tượng, từ đó vươn lên cảm thụ hình
tượng và cuối cùng chủ động tích cực tìm hiểu cuộc sống. Môn Tiếng Việt có nhiều
lợi thế để hình thành tư duy hình tượng cho HS vì chữ viết được xem là một biểu
tượng. Học chữ là một trong những con đường để hình thành biểu tượng. Việc tích
hợp dạy Văn qua môn Tiếng Việt được xem là một trong những biện pháp góp phần
hình thành và phát triển tư duy hình tượng cho HS. Nhưng không phải ở bài học
nào, bài tập nào chúng ta cũng có thể tích hợp rèn luyện tư duy hình tượng cho HS.
Theo GS. Lê A: “Vận dụng tích hợp trong dạy học Ngữ văn cần lưu ý về nội dung,
mức độ, thời điểm cũng như cách thức tích hợp” [1, tr.47].
Theo chúng tôi, bài tập tích hợp kiến thức Tiếng Việt và Văn học để rèn tư
duy hình tượng phải là bài tập sử dụng ngữ liệu là các tác phẩm văn học, yêu cầu đề
bài phải hướng đến các biện pháp nghệ thuật ngôn từ mà tác giả sử dụng để giúp HS
tìm hiểu tầng sâu ý nghĩa ẩn giấu đằng sau lớp vỏ ngôn từ. Tuy nhiên, cũng không
nên lạm dụng dạng bài tập này bởi môn Tiếng Việt chỉ góp một phần nhỏ trong việc
rèn luyện tư duy hình tượng cho HS bởi Văn học mới chính là phân môn giúp hình
thành và phát triển tư duy hình tượng. Để rèn tư duy hình tượng,theo chúng tôi có
thể sử dụng một số loại bài tập sau đây:
65
a) Loại bài tập tích hợp Từ ngữ với Văn học
Việc dạy Từ ngữ liên quan trực tiếp và nhiều nhất đến việc dạy Văn học trong
nhà trường. Văn học xây dựng các hình tượng nghệ thuật bằng phương tiện ngôn từ.
Tất cả các đơn vị của ngôn ngữ từ các đơn vị ngữ âm đến các đơn vị ngữ pháp đều
góp phần làm tròn nhiệm vụ này. Có thể nói, các nhà văn, nhà thơ lớn đều quan tâm
nhiều nhất đến việc lựa chọn từ ngữ, hao tâm tổn lực để làm công việc này. Nhiều
lúc, chỉ một “nhãn tự” cũng đủ làm cho hình tượng văn học khắc sâu vào tâm khảm
người đọc, nêu bật được tứ của câu thơ, khổ thơ. Việc dạy từ ngữ theo hướng ngôn
ngữ nghệ thuật, tích hợp với dạy Văn học là giúp HS cảm nhận đầy đủ nghệ thuật
văn thơ, góp phần bồi dưỡng tư duy hình tượng cho các em.
Ví dụ 1: Cho biết biện pháp tu từ nào được sử dụng trong các ngữ liệu sau.
Hãy phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ đó.
- Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
(Tố Hữu)
- Chỉ có thuyền mới hiểu,
Biển mênh mông nhường nào.
Chỉ có biển mới biết,
Thuyền đi đâu, về đâu.
(Xuân Quỳnh)
- Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau.
(Nguyễn Bính)
66
- Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu.
(Vũ Đình Liên)
Ví dụ 2: Phân tích hiệu quả của biện pháp nói giảm, nói tránh trong các ngữ
liệu sau:
a)
- Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.
Miền Nam đang thắng mơ ngày hội,
Rước Bác vào thăm thấy Bác cười.
- Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác – Lê nin thế giới người hiền.
- Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống!
Máu của anh chị, của chúng ta không uổng:
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam.
(Thơ Tố Hữu)
b) Rộng thương nội cỏ hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Nguyễn Du)
Phân môn Tiếng Việt bậc THPT có nhiều bài luyện tập về các biện pháp tu từ,
đây là một điều kiện thuận lợi để GV tích hợp với kiến thức văn học để HS nhận
biết, phân tích các biện pháp này.
b) Loại bài tập tích hợp Ngữ pháp với Văn học
Nổi bật nhất trong phần Ngữ pháp ở THPT mà có quan hệ mật thiết đến việc
rèn luyện tư duy hình tượng cho HS là phần hàm ý của văn bản nghệ thuật. Nhận
67
thức được hàm ý của câu và của văn bản nghệ thuật, HS được trang bị lí luận và
được rèn luyện về kĩ năng lĩnh hội ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa hàm ẩn của tác phẩm văn
chương. Ngoài ra việc lựa chọn trật tự sắp xếp các thành phần câu, lựa chọn kiểu
câu cũng tạo nên các sắc thái nghệ thuật khác nhau, tạo nên các giá trị biểu cảm
hoặc tạo hình của ngôn ngữ nghệ thuật.
Ví dụ 1: Phân tích cách đảo trật tự từ trong ngữ liệu sau:
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.
(Tố Hữu)
Trước hết HS phải nhận diện được cách đảo trật tự từ được thực hiện trong
những câu nào, sau đó phân tích để tiến đến kết luận: “Đẹp vô cùng” đảo lên phía
trước để nhấn mạnh vẻ đẹp của Tổ quốc mới được giải phóng; “hò ô” đưa lên phía
trước để bắt vần lưng với “sông Lô” gợi ra một không gian mênh mang sông nước,
đồng thời bắt vần chân “ngạt – hát” để tạo ra sự hài hòa về ngữ âm cho khổ thơ.
Ví dụ 2: Viết lại các câu sau mà không sử dụng các từ phủ định và nhận xét.
- Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường, song không phải
không có ý nghĩa.
(Hoài Thanh)
- Tháng tám, hồng ngọc đỏ, hồng hạc vàng, không ai không từng ăn tết trung
thu, ăn nó như ăn cả mùa thu vào lòng vào dạ.
(Băng Sơn)
- Từng qua thời thơ ấu ở Hà Nội, ai chẳng có một lần nghển cổ lên tán lá cao
vút mà ngắm nghía một cách ao ước chùm sấu non xanh hay thích thú chia nhau
nhấm nháp món sấu dầm bán trước cổng trường.
(Tạ Việt Anh)
68
Để làm bài tập này HS trước hết phải nhận biết được các câu trên đều là những
câu sử dụng cách nói phủ định của phủ định nhằm khẳng định, nhấn mạnh. Cụ thể:
Không phải là không = có (khẳng định).
Không ai không = ai cũng (khẳng định).
Ai chẳng = ai cũng (khẳng định).
Từ đó mới chuyển đổi và rút ra nhận xét (các câu chuyển đổi mặc dù tương
đương về nghĩa nhưng thường có ít sức thuyết phục hơn).
c) Loại bài tập tích hợp Phong cách học với Văn học
Phần Phong cách học nhằm đạt đến mục tiêu giúp HS thưởng thức được cái
hay của một văn bản viết, nói đúng phong cách và tự mình biết xây dựng cách viết,
cách nói đúng chuẩn.
Bài học về Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có nhiều thuận lợi để thiết kế một
số bài tập tích hợp kiến thức Tiếng Việt và Văn học nhằm rèn luyện tư duy cho HS.
Ví dụ 1: Khi dạy về đặc trưng tính hình tượng trong ngôn ngữ nghệ thuật, GV
có thể đưa ra bài tập sau:
Trong khổ thơ dưới đây, đâu là hình tượng ngôn từ, đâu là hình tượng văn
học? Hãy giải thích quan hệ giữa hình tượng ngôn từ và hình tượng văn học.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
(Nguyễn Du)
Hình tượng ngôn từ và hình tượng văn học là hai khái niệm mà lâu nay HS
chưa phân biệt được rõ ràng. Tất nhiên, việc phân biệt hai khái niệm này thuộc về
phân môn Đọc văn, nhưng khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật”, GV cũng
có thể tích hợp để làm rõ hơn. Từ việc phân biệt các loại hình tượng HS mới có thể
cảm thụ hình tượng được, nhờ đó tư duy hình tượng cũng được rèn luyện. Có thể
69
thấy, cả đoạn thơ là một hình ảnh của dung mạo nàng Vân, một hình tượng văn học.
Hình tượng này được xây dựng bằng từ ngữ, chủ yếu là những từ ngữ bóng bẩy,
giàu hình ảnh cho ta cảm nhận rõ ràng. Những tổ hợp từ đó chính là những hình
tượng ngôn từ. Ngôn ngữ là yếu tố cơ bản nhất để tạo nên hình tượng văn học.
Ví dụ 2: Phân tích những đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được
thể hiện trong bài thơ sau. Cho biết, việc tìm hiểu phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
và đặc điểm của nó có tác dụng gì đối với việc đọc – hiểu văn bản văn học?
Đêm mưa làm nhớ không gian,
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn.
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ
Tương tư hướng lạc, phương mờ
Trở nghiên gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Gió về lòng rộng không che,
Hơi may hiu hắt bồn bề tâm tư
(Buồn đêm mưa – Huy Cận).
Đây là bài tập giúp HS nhận thấy rõ mối liên hệ qua lại giữa phân môn Tiếng
Việt và Văn học, từ đó các em sẽ có ý thức vận dụng những hiểu biết về tiếng Việt
để giải quyết một số vấn đề trong Văn học.
2.3.1.4. Dạng bài tập trắc nghiệm – tự luận để gia tăng tốc độ tư duy
Đây không phải là dạng bài tập trắc nghiệm thông thường chỉ yêu cầu HS
chọn đáp án đúng. Bài tập kết hợp trắc nghiệm – tự luận với mục đích tăng tốc tư
duy cho HS phải là một bài tập có độ sâu, độ khó nhất định (tính may rủi ít mà tính
70
liên kết, hệ thống kiến thức cao), yêu cầu HS có kiến thức rộng, biết liên hệ các kiến
thức với nhau, biết phán đoán và đưa ra kết quả trong thời gian ngắn nhất. Nói cách
khác, bài tập dạng này phải là một bài tập chứa đựng tình huống có vấn đề. Qua đó,
HS cần thực hiện một hoạt động phức hợp của tư duy trong một thời gian nhất định:
tập trung kiến thức, so sánh, lựa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_18_3131072284_1906_1869370.pdf