Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng thống kê, biểu đồ
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.6
1.1. Nhận thức chung về tội phạm hủy hoại rừng .6
1.1.1. Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng.6
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng trong luật hình sựError! Bookmark not d
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quy phạm pháp
luật về quản lý và bảo vệ rừng .
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành
BLHS năm 1985.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi ban hành
BLHS năm 1999.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến nay.
1.3. Phân biệt tội hủy hoại rừng với một số tội phạm khácError! Bookmark not define
1.3.1. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng theo quy định tại Điều 175 BLHS.
1.3.2. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội vi phạm các quy định về quản lý
rừng theo quy định tại Điều 176 BLHS .
1.4. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật
một số nước quy định về tội hủy hoại rừng.
1.4.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình
sự Liên Bang Nga.
1.4.2. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình
sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Kết luận Chương 1 .
Chương 2: TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .
22 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 587 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
not defined.
2.2.1. Khái quát chung về tỉnh Đắk Lắk................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Kết quả hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tội
hủy hoại rừng ............................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong thực tiễn xét xử
tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk LắkError! Bookmark not defined.
2.3.1. Hạn chế thiếu sót khi xét xử trong trường hợp có tình tiết định khung
hình phạt ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạtError! Bookmark not defined.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng các
quy định về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk LắkError! Bookmark not defined.
Kết luận Chương 2 .................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNGError! Bookmark not defined.
3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội
hủy hoại rừng và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luậtError! Bookmark not defined.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật quy định về tội hủy hoại rừngError! Bookmark not defined.
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sựError! Bookmark not defined.
3.2.2. Kiến nghị sửa thông tư liên tịch số 19 hướng dẫn áp dụng một số
điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý
rừng, bảo về rừng và quản lý lâm sản ......... Error! Bookmark not defined.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội hủy
hoại rừng .................................................... Error! Bookmark not defined.
Kết luận Chương 3 .................................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .............................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 11
PHỤ LỤC ................................................................. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
TTLT: Thông tư liên tịch
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng, biểu
đồ
Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng của tỉnh Đắk Lắk bị phá giai
đoạn 2009 - 2014
Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.2. Kết quả xét xử sơ thẩm tội hủy hoại rừng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014
Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.3. Kết quả xét xử phúc thẩm tội hủy hoại rừng trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014
Error!
Bookmark
not
defined.
Biểu đồ 2.1. Thống kê vụ án phạm tội hủy hoại rừng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014
Error!
Bookmark
not
defined.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều
thành tựu to lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với
thành tựu chung đó là hệ thống pháp luật hình sự nước ta ngày càng tiến bộ, đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các quy định cũng từng bước
hoàn thiện và phát triển, trong đó có các quy định tội phạm về môi trường nói chung
và tội hủy hoại rừng nói riêng. Từ xưa đến nay, rừng được xem là lá phổi của thế
giới, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giữ cân bằng sinh
thái, môi trường, ổn định khí hậu toàn cầu, góp phần ngăn chặn, hạn chế hậu quả
khốc liệt do thiên tai gây ra. Mặc dù rừng có vị trí vai trò quan trọng như vậy nhưng
hiện nay tình trạng chặt, đốt phá, hủy hoại rừng đã, đang và diễn biến ngày càng
phức tạp, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, tiềm ẩn những nguy cơ làm suy
vong hệ sinh thái trong hiện tại cũng như trong tương lai, làm mất cân bằng sinh
thái, đa dạng sinh học, ảnh hưởng đến môi trường sống của con người, vấn đề phát
triển kinh tế, xã hội trên toàn thế giới, từng khu vực nói chung và từng quốc gia
trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, nếu như trước đây với 3/4 diện tích là rừng thì hiện nay đã suy
giảm nhiều, riêng địa bàn tỉnh Đắk Lắk là tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước,
nhưng hiện nay tình trạng chặt phá, đốt rừng, hủy hoại rừng vẫn diễn biến phức tạp,
trong giai đoạn 2009 - 2014 trên địa bản tỉnh đã phát hiện 173 vụ vi phạm luật bảo
vệ và phát triển rừng [37] trong đó số vụ án đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử theo thống kê của Văn phòng - Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk là 49 vụ, diện tích rừng bị lấn chiếm trái phép theo thống kê của Cục kiểm lâm
tỉnh khoảng 12.000 ha [37]. Trên thực tế, những hành vi hủy hoại rừng vẫn diễn ra
và ngày càng gia tăng, với những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, tình hình hủy
hoại rừng vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nơi, trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại một số
“điểm nóng” về hủy hoại rừng như: Vùng biên giới, các huyện Ea Súp, Ea H’Leo,
2
Krông Bông, M’đrắk, Buôn Đôn. Việc điều tra, thống kê phân loại các đối tượng
hủy hoại rừng đã được thực hiện nhưng chưa xử lý, giải quyết triệt để, tình trạng
đốt, chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép diễn biến phức tạp mặc dù cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đã có sự kiểm tra, giám sát, thực hiện các biện pháp ngăn chặn,
đấu tranh cũng như các quy định các biện pháp từ xử phạt vi phạm hành chính đến
truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả thực hiện Chỉ thị số 08/2006/CT-TTg ngày
08/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách
ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép; Chỉ thị số
12/2003/CT-TTg ngày 16/5/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các
biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng; Chỉ thị 1685/2011/CT-TTg ngày
27/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng,
ngăn chặn tình trạng phá rừng và chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk đã thu được nhiều kết quả, song vẫn tồn tại không ít những khó khăn,
vướng mắc trong việc thi hành pháp luật hình sự cũng như các quy định của pháp
luật chuyên ngành trong việc phát hiện, xử lý kịp thời, đấu tranh phòng, chống và
đẩy lùi tội phạm hủy hoại rừng, góp phần vào công cuộc bảo vệ nguồn tài nguyên
quý giá của đất nước. Trước tình trạng diễn biến phức tạp, mạnh mẽ của những
hành vi hủy hoại rừng trong khi vấn đề áp dụng pháp luật, chế tài hình sự đối với
loại tội phạm này còn hạn chế, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu về việc áp dụng pháp
luật, phương hướng hoàn thiện pháp luật liên quan góp phần đấu tranh phòng ngừa,
xử lý tội phạm hủy hoại rừngtrên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực
tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tội hủy hoại rừng trong luật
hình sự Việt Nam ở cấp độ luận văn và bài viết như: Luận văn Thạc sĩ luật học
“Hoạt động phòng ngừa tội phạm hủy hoại rừng của lực lượng cảnh sát nhân dân
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” của tác giả Nguyễn Mạnh Long, thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2013;
3
Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng” trong luật hình sự Việt Nam
của tác giả Lê Thị Phương Minh, Hà Nội, năm 2013 v.v.
Các công trình đã nghiên cứu, khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn
trong việc áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng, nhưng nghiên cứu ở góc độ
phòng ngừa tội phạm hoặc tội phạm học, không nghiên cứu áp dụng ở địa bàn tỉnh
Đắk Lắk. Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chưa có công trình nghiên cứu về
đề tài tội hủy hoại rừng. Do vậy, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ, rõ
ràng, để có luận cứ khoa học cho việc đưa ra những kiến nghị, các giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp góp phần đấu tranh, phòng chống, ngăn
ngừa, xử lý có hiệu quả tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy,
tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam
trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tội
hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các quy định của BLHS năm 1999 và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hủy
hoại rừng, trên cơ sở số liệu thực tiễn về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn 2009 - 2014.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích của đề tài: Tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và các
quy định của pháp luật liên quan đến tội hủy hoại rừng. Trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự xuất phát từ thực trạng, số liệu thực tiễn xét xử về tội
hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng tỏ các vấn đề về định tội danh, quyết
định hình phạt khi xét xử tội hủy hoại rừng để tìm ra những hạn chế, thiếu sót và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng và pháp luật chuyên
ngành liên quan, nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử của Tòa án cũng như góp phần
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến tội
hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam như: Tìm hiểu lịch sử hình thành, phát
triển của các quy phạm pháp luật về tội hủy hoại rừng; các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng; so sánh tội hủy hoại rừng với các tội phạm khác có liên quan.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội hủy hoại
rừng trong luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; rút ra những hạn chế,
thiếu sót và nguyên nhân, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý
nghĩa về mặt thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng:
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện quy định của tội hủy hoại rừng tại
Điều 189 BLHS năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Những kiến nghị, giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng,
đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho lực lượng điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm này trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
6. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Trên cơ sở nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường
nói chung và tội hủy hoại rừng nói riêng. Các văn bản liên quan trong công tác chỉ
đạo, phối hợp, đấu tranh phòng, chống các hành vi phạm tội hủy hoại rừng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong đề tài đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học luật hình sự và tội phạm học như: Phương pháp thống kê
hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp
chuyên gia, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp đối chiếu, phương pháp
5
chứng minh v.v. Các phương pháp nghiên cứu nêu trên được sử dụng một cách đan
xen, linh hoạt để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại rừng.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về tội phạm hủy hoại rừng
1.1.1. Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng
Trong lịch sử phát triển của đất nước, ý thức về bảo vệ tài nguyên rừng được
chú ý và quan tâm trong nửa cuối thế kỷ XX, khi hậu quả của việc tàn phá rừng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội và con người, đặc biệt phải kể đến thiên
tai hiện hữu như: Ô nhiễm đất, nước và không khí, lũ lụt, nạn sa mạc hóa, hiệu ứng
nhà kính v.v. Nguyên nhân chủ yếu là do rừng bị suy giảm, để đấu tranh có hiệu quả
với những hành vi hủy hoại rưng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tích
cực đem lại kết quả bước đầu, khả quan, việc bảo vệ rừng là yếu tố quan trọng đóng
góp cho sự phát triển thịnh vượng, lâu dài, vững chắc của đất nước nhưng vẫn còn
những tồn tại, vướng mắc, tình trạng hủy hoại rừng có chiều hướng diễn biến phức
tạp, tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế bảo
vệ rừng có hiệu quả hơn. Một trong những mắt xích chủ yếu, quan trọng của cơ chế
này là chính sách hình sự áp dụng đối với những hành vihủy hoại rừng.
Trong lịch sử lập pháp hình sự, BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp
bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc đấu tranh với các hành vi xâm hại môi
trường và hủy hoại rừng. Điều này không chỉ thể hiện qua việc BLHS 1985 chưa
dành riêng một chương cho các tội phạm về môi trường, mà được quy định gộp lại
với những tội phạm khác như: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò,
khai thác và bảo vệ tài nguyên trong lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa
Việt Nam (Điều 179); tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (Điều
180); tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Điều 181), những tội
phạm này trong BLHS 1985 được hiểu là những tội phạm kinh tế và xếp vào
Chương VII “các tội phạm về kinh tế”. Tương tự như vậy, tội vi phạm các quy định
về bảo vệ và sử dụng danh lam, thắng cảnh (Điều 216) được hiểu là tội xâm phạm
7
trật tự quản lý hành chính (mục C của Chương VIII). Cả BLHS 1985 chỉ có một
điều duy nhất trực tiếp quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi xâm hại
đến môi trường đó là tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả
nghiêm trọng (Điều 195) [12].
Nền tảng của chính sách hình sự về bảo vệ môi trường trong đó có tài
nguyên rừng của Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 1992,
Hiến pháp đã khẳng định việc bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của mọi
người và toàn xã hội: Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, nghiêm cấm mọi hành động làm suy
kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường (Điều 29). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2013 xác định: Mọi người có quyền được sống
trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43); Nhà nước
có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo
vệ môi trường và rừng, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; tổ
chức, các nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và làm
suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi
thường thiệt hại(Điều 63) [22], từ những quy định nêu trên có thể thấy, Nhà nước ta
đã nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng.
Chính sách hình sự của Việt Nam hiện hành quy định tội hủy hoại rừng tại
Điều 189 của Chương XVII, của chương các tội phạm về môi trường, đây là một
bước đột phá quan trọng khi xây dựng một chương riêng trong BLHS năm 1999 cho
các tội phạm về môi trường,thể hiện quyết tâm đấu tranh với loại tội phạm này
thông qua việc quy định hình phạt hết sức nghiêm khắc với mức hình phạt cao nhất
lên đến 15 năm tù.
Hành vi cấu thành tội phạm quy định tại Điều 189 của Chương XVII của
BLHS là những hành vi xâm hại tài nguyên rừng, có tính nguy hiểm cho xã hội
8
cao,những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn, chưa đến mức phải truy cứu
trách nhiệm hình sự sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng trách
nhiệm hành chính. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội và tình hình tội phạm
hủy hoại rừng, những hành vi xâm hại tài nguyên rừng sẽ được nghiên cứu thường
xuyên góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự.
Từ những phân tích nhận định trên, thiết nghĩ cần phải có nhận thức chung
nhất về hành vi hủy hoại rừng để đưa ra khái niệm về tội phạm hủy hoại rừng, chỉ ra
tính chất, đặc trưng của tội phạm này đã được quy định tại Điều 189 của BLHS.
Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng:
Tội phạm hủy hoại rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện có lỗi,
xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm suy giảm
đáng kể giá trị của rừng.
Qua khái niệm nêu trên có thể thấy những nội dung bao hàm trong khái niệm
tội hủy hoại rừng gồm: Là tội phạm được quy định trong BLHS, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một trong các hành vi khách quan hủy hoại rừng
(đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác), chủ thể thực hiện tội phạm có lỗi và
gây thiệt hại về rừng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, đi sâu phân tích sẽ
giúp làm sáng tỏ nội dung khái niệm về tội hủy hoại rừng, cụ thể:
Tội hủy hoại rừng là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản
lý và bảo vệ rừng quy định tại Điều 181 BLHS năm 1985, do tính chất của hành vi
và thiệt hại do hành vi hủy hoại rừng gây ra nên nhà làm luật quy định hành vi hủy
hoại rừng là tội phạm về môi trường.
Quy định nêu trên với nội hàm chứa các dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm
hủy hoại rừng, kết cấu quy định tại khoản 1 Điều 189 BLHS là liệt kê các hành vi
có thể thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm này. Trong khoản này bao hàm các
nội dung như chủ thể thực hiện tội phạm là “người nào”, ở đây xác định bất kỳ
người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
9
theo quy định của BLHS khi vi phạm một trong các tội phạm được quy định trong
BLHS, cụ thể ở đây là tội hủy hoại rừng.
Trách nhiệm hình sự, là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp
lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định đối với người phạm
tội. Việc áp dụng trách nhiệm hình sự chính xác đối với người phạm tội có mục
đích rất quan trọng, mang tính chất nhằm từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới thủ
tiêu tình trạng phạm tội và những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Trách nhiệm
hình sự là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách
nhiệm pháp lý nào khác, phản ánh thái độ của Nhà nước đối với người thực hiện tội
phạm bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế về hình sự để áp dụng đối với
người thực hiện tội phạm, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách
nhiệm hình sự chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội, không có việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị BLHS quy định là tội phạm thì không thể có
trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của
quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và
nghĩa vụ nhất định, một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội [34], người
thực hiện tội phạm hủy hoại rừng chính là người thực hiện những hành vi hủy hoại
rừng, xâm phạm tài nguyên rừng làm mất hoàn toàn hoặc làm giảm đáng kể giá trị
rừng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Một khi đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự
cũng cần cân nhắc và đảm bảo hai khía cạnh là điều kiện cần và đủ để buộc một
người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự khi người đó phạm vào một
tội được quy định trong luật hình sự, đó là về năng lực trách nhiệm hình sự của chủ
thể thực hiện tội phạm và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Dưới góc độ lập pháp, tuổi chịu trách nhiệm hình sự không được ghi nhận
chính thức như là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8 BLHS,
nhưng dấu hiệu này lại rất quan trọng, không thể thiếu trong yếu tố chủ thể của tội
phạm bên cạnh dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự [34].
10
Trên cơ sở cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu
tố tâm, sinh lý, độ tuổi, cũng như xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng
ngừa, chống tội phạm và qua tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật của nước ta,
BLHS hiện hành đã thể hiện quan điểm phân hóa trách nhiệm hình sự một cách cụ
thể, đã phân loại tội phạm thành bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với các
tiêu chí để phân loại bốn loại tội phạm bao gồm: Tính chất nguy hiểm cho xã hội,
mức độ nguy hiểm cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt (chế tài). Bên
cạnh đó, cùng với việc phân loại tội phạm là quy định cụ thể về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS, như sau:
1. Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Từ các phân tích trên, người thực hiện tội phạm hủy hoại rừng sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự, khi có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thỏa mãn các dấu
hiệu cấu thành tội phạm và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Trong BLHS hiện hành, không trực tiếp quy định vấn đề tình trạng có năng
lực trách nhiệm hình sự, mà quy định tình trạng đối lập là tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự, đây là quy định đúng đắn, hợp lý, có tính thực tiễn cao. Bởi
vì tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự là thuộc tính mang tính phổ biến và
bao quát ở tất cả mỗi con người, đồng thời tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự lại mang tính đơn lẻ và không phổ biến, dưới góc độ được thừa nhận chung
thì tình trạng có năng lực chịu trách nhiệm hình sự được hiểu là khả năng của một
người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoàn toàn nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và điều khiển được hành vi do mình
thực hiện [34]. Xuất phát từ nhận thức này thì người thực hiện hành vi hủy hoại
rừng, được xác định là phạm tội với lỗi cố ý, hoàn toàn ý thức được hành vi đốt, phá
rừng trái phép hoặc có các hành vi khác hủy hoại rừng sẽ xâm phạm đến tài nguyên
rừng, làm mất đi hoặc giảm đáng kể giá trị rừng và hoàn toàn có thể ý thức mức độ
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2007), Thông tư liên tịch số
19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08 tháng 3 năm
2007, hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm
trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo về rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb chính
trị Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Cảm (2001), “Vấn đề tội phạm hóa một số hành vi xâm hại môi trường
trong pháp luật Hình sự Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
(6), tr.19, 20.
4. Lê Văn Cảm (2005, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nghị định số
26/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định về Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Hà Nội.
6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nghị định số
135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005, về việc giao khoán đất nông
nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các
nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh, Hà Nội.
7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số
99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản, Hà Nội.
8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị định số
157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội.
12
9. Công hòa nhân dân Trung Hoa (1979), Bộ luật hình sự năm 1979, sửa đổi năm 1997.
10. Nguyễn Văn Dũng (2013), Bàn về Điều 189 Bộ luật hình sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hoang_van_van_5389_2010061.pdf