Luận văn Tổng kết và theo dõi mô hình trồng bắp kết hợp chăn nuôi bò tại huyện Châu Thành, tỉnh An Giang năm 2004

MỤC LỤC

Nộidung Trang

1.1 Mởđầu . 1

1.2 Tínhcấpthiết của đềtài . 2

1.3 Mụcđích . 2

1.4 Mụctiêucụthể . 2

1.5 Giớihạnphạm vinghiêncứu . 3

a. Hiệntrạng mô hìnhcanhtáctổng hợpmàukết hợpchănnuôibò

tạixã BìnhThạnh, huyệnChâuThành. 15

4.1.1 Thông tinchung vềsảnxuất của nông hộ. 15

4.1.2 Lịchthờivụ .17

4.1.3 Mô hìnhhệthống canhtáctổng hợp.20

a. Phương phápvà kỹ thuật sảnxuất của nông dântạixã Bình

Thạnh, huyệnChâuThành. 22

4.1.4.1 Phương phápvà kỹ thuật canhtácmàu. 22

4.1.4.2 Phương phápvà kỹ thuật chănnuôibò. 23

a. Hiệuquả sảnxuất của mô hìnhmàukết hợpchănnuôibò. 25

4.3 Cơcấu(% đóng góp) của cácthànhphầnsảnxuất trong mô hình

canhtácmàukết hợpchănnuôibò.28

4.4 Cácyếutố quyết địnhsự thànhcông của mô hình. 29

4.5 Những thuậnlợicủa trồng trọt và chănnuôi . 30

i. Trồng trọt . 30

ii. Chănnuôibò . 31

a. Những khó khănkhimởrộng/phát triểnmô hình . 33

pdf62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2069 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổng kết và theo dõi mô hình trồng bắp kết hợp chăn nuôi bò tại huyện Châu Thành, tỉnh An Giang năm 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
diện tích trồng khoai mì công nghiệp) so năm 2003. Tuy nhiên, năng suất màu tăng so với năm 2003, trong đó bắp lai tăng 12,01 tạ/ha, rau các loại tăng 15,47 tạ/ha, đậu nành tăng 0,95 tạ/ha, mè tăng 2,97 tạ/ha. 11 Các kết quả trên có thể nhận thấy sự phát triển ngày càng mạnh theo hướng tăng năng suất, chất lượng của trồng trọt và vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp của Tỉnh. Đáng chú ý nhất là sự tăng về số lượng đàn trâu bò, cho thấy một bước ngoặt trong chiến lược chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi ở An Giang. 2.6 Hiện trạng và tiềm năng thức ăn phục vụ cho chăn nuôi bò trong mô hình canh tác tổng hợp - Đồng Bằng Sông Cửu Long bên cạnh những loại cây trồng truyền thống như mía, khoai mì,..còn có một số loại chưa được khai thác tốt dùng làm thức ăn cho bò là cỏ voi, cỏ sả, cỏ Stylo, bình linh, các loại thức ăn tinh (tấm, cám, bắp,..). Song song đó, các phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, thân lá bắp, dây khoai lang…) cũng rất đa dạng, do bắp và lúa được trồng ở nhiều nơi nên nguồn thức ăn xanh phục vụ cho chăn nuôi bò ở đây rất phong phú và đa dạng về chủng loại lẫn chất lượng. - Theo Lê Bá Lịch (2003) thì từ năm 1990 nhiều tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân trong nước, ngoài nước và một số tập đoàn quốc doanh đã chọn đầu tư vào ngành thức ăn chăn nuôi. Kết quả là hàng loạt các nhà máy chế biến thức ăn cho chăn nuôi được hình thành như: AFIEX (An Giang), VNFEED, NOPICO (Tổng Công ty Chăn Nuôi Việt Nam), Công ty chăn nuôi Tiền Giang và một số tập đoàn nước ngoài như tập đoàn Nông Lâm Đài Loan, BEYER (Đức). Do đó, đây là cơ hội để tiếp cận những kỹ thuật tiên tiến, những kinh nghiệm tốt trong sản xuất, đồng thời tạo nền tảng cơ bản để ngành chăn nuôi hàng hóa được hình thành và phát triển. 12 CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Vật liệu - Sổ theo dõi và nhật ký nông trại. - Phiếu điều tra. - Các phần mềm như: Excel XP và SPSS version 11.5. - Phương tiện đi lại, văn phòng phẩm thiết yếu 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Thể thức thống kê Theo dõi 3 nông hộ có mô hình trồng màu kết hợp chăn nuôi bò điển hình, kết hợp điều tra 30 nông hộ tại 4 ấp của xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh An giang được chọn điều tra là theo chủ đích.. Sử dụng thống kê mô tả và phân tích tương quan giữa các biến để phân tích số liệu. 3.2.2 Phương pháp tiến hành 3.2.2.1 Theo dõi mô hình - Chọn 3 hộ để theo dõi trong suốt mùa lũ. Tiêu chuẩn để chọn hộ: •Nông dân đang áp dụng mô hình trồng màu kết hợp chăn nuôi. •Sẵn sàng hợp tác. •Có đủ lao động để thực hiện mô hình. •Có khả năng ghi chép hàng ngày. - Tiếp xúc với các hộ nông dân hợp tác nghiên cứu - Liệt kê tất cả các hoạt động hiện có của nông trại. - Thiết kế nhật ký nông trại (Phụ lục 1) - Hướng dẫn nông dân ghi chép nhật ký hằng ngày. - Thu thập số liệu 1 tuần/lần. 3.2.2.2 Điều tra nông hộ - Điều tra những nông hộ có áp dụng các mô hình màu kết hợp chăn nuôi. 13 - Số lượng điều tra: 30 hộ. - Các bước thực hiện: •Tiếp xúc địa phương: Thu thập số liệu thứ cấp về điều kiện kinh tế - xã hội, tổng diện tích đất, đất chuyên dụng (sản xuất nông nghiệp), dân số, khí hậu, các mô hình chuyên canh từ báo cáo hằng niên của xã. •Chọn 30 hộ, trong đó 20 hộ ở các ấp trong đê bao, 10 hộ ở các ấp ngoài đê bao của xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành để thực hiện điều tra hiệu quả của mô hình sản xuất bằng bảng câu hỏi (Phụ lục 2). •Thực hiện phỏng vấn nông hộ. 3.2.3 Chỉ tiêu theo dõi Các chỉ tiêu theo dõi phụ thuộc vào các hoạt động chính yếu của từng nông hộ, thuộc 2 nhóm: - Nhóm các hoạt động nông trại có liên quan trực tiếp đến mô hình trồng màu kết hợp chăn nuôi bò. - Các hoạt động khác có liên quan gián tiếp nhưng sẽ góp phần ổn định mô hình chính và/hoặc phát triển mô hình (làm thuê, buôn bán nhỏ, dịch vụ, ..) 3.3 Phân tích thống kê - Mã hóa số liệu, nhập số liệu bằng Excel. - Phân tích số liệu bằng SPSS (Statistical Package for Social Sciences). - Sử dụng công cụ thống kê mô tả (discriptive statistic) để phân tích các chỉ tiêu theo dõi các mô hình và điều tra nông hộ như tổng thu nhập của nông hộ, lợi tức bình quân, diện tích đất trung bình/hộ… - Các biến (chỉ tiêu) cần phỏng vấn như Phụ lục 2. - Diễn dịch kết quả và viết báo cáo. 14 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 Hiện trạng mô hình canh tác tổng hợp màu kết hợp chăn nuôi bò tại xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành 4.1.1 Thông tin chung về sản xuất của nông hộ Nông dân ở xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành là dân sống định cư lâu năm và có số nhân khẩu trung bình từ 5–7 người, có 2–4 lao động chính. Một số nông hộ do có diện tích canh tác lớn nên thường phải thuê lao động ngoài khi bắt đầu mùa vụ hoặc vào mùa thu hoạch. Về trồng trọt ở huyện Châu Thành, đã có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây màu là chính, mùa vụ và cây trồng được bố trí phù hợp hơn. Một số ấp trong đê (Thạnh Hưng và Thạnh Nhơn) hầu như canh tác màu quanh năm còn các ấp ngoài đê (Thạnh phú và Thạnh Hòa) chỉ sản xuất hai vụ màu hoặc hai vụ lúa hoặc màu xen canh lúa là chủ yếu. Cây màu chính là bắp lai lấy hạt và thân bắp dùng nuôi bò vỗ béo. Diện tích, năng suất và sản lượng bắp lai cũng tăng nhanh trong những năm qua (Hình1a, Hình 1b) và ở xã Bình Thạnh trong năm năm gần đây. Trong đó, vụ mùa năm 2004 tại xã có 78 hộ nông dân trồng 22 ha bắp nù dẻo và bắp G49 đạt năng suất và lợi nhuận tương đối cao. 24.8 28 27 32 37.4 0 5 10 15 20 25 30 35 40 1999 2000 2001 2002 2003 Năm N ăn g su ấ t ( t ạ /h a) 432 559 792 1333 1625 0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 1999 2000 2001 2002 2003 Năm S ả n lư ợ ng (t ấ n) Hình 1a. Sự biến động năng suất bắp lai của huyện Châu Thành, tỉnh An Giang từ 1999-2003 Hình 1b. Sự biến động sản lượng bắp lai của huyện Châu Thành, tỉnh An Giang từ 1999-2003 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2003 15 Về chăn nuôi, số lượng gia súc và gia cầm của huyện Châu Thành trong năm năm gần đây gia tăng rất nhanh (Hình 2). Riêng xã Bình Thạnh năm 2004 có tổng đàn gia súc, gia cầm là 9.880 con, trong đó đàn bò chiếm 1.657 con/310 hộ nuôi bò. Tuy nhiên, số lượng bò bình quân trên toàn địa bàn trên nông hộ chưa cân xứng với tiềm năng về sản xuất nông nghiệp và nguồn phụ phế phẩm của vùng. 629 1046 1011 1822 2118 0 500 1000 1500 2000 2500 1999 2000 2001 2002 2003 Năm S ố lư ợ ng (c on ) Hình 2: Số lượng bò tăng qua các năm ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2003 Về mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò, được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các ấp tại địa bàn nghiên cứu bởi một số hệ thống canh tác như: trồng bắp quanh năm + nuôi bò, trồng 2 vụ bắp + nuôi bò, trồng mía một vụ + nuôi bò, cỏ voi + nuôi bò quanh năm và 3 vụ bắp + nuôi bò (kết quả ghi nhận ở xã Bình Thạnh). Đặc biệt mô hình trồng xen canh các loại màu trong một vụ kết hợp nuôi bò là phổ biến nhất chếm khoảng 80% trên toàn địa bàn. Mục đích là bán sản phẩm (bắp giống) cho công ty cổ phần Bảo Vệ Thực Vật An Giang và cung cấp thức ăn xanh cho chăn nuôi bò. Bảng 5 cho thấy các thông tin chung về đặc điểm nông hộ áp dụng mô hình màu với chăn nuôi bò trong vùng điều tra. Kết quả cho thấy mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò đang được áp dụng phổ biến ở những nông hộ có độ tuổi trung bình từ 47-53 tuổi và kinh nghiệm sản xuất lâu năm, kinh nghiệm trồng màu từ 23-27 năm, kinh nghiệm chăn nuôi từ 3-7 năm. Đặc biệt ở đây một số 16 nông dân có kinh nghiệm sản xuất lên đến 40 năm (16,7%). Tuy nhiên, trình độ học vấn (3-5) và diện tích đất của họ lại tương đối thấp (0,2-0,4 ha), có thể gây ảnh hưởng đến quyết định thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cũng như khả năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của họ. Kết quả điều tra cho thấy không có sự chênh lệch lớn giữa thu nhập của nông hộ so với các yếu tố như tuổi, trình độ văn hoá, diện tích đất sản xuất. Tuy nhiên, kinh nghiệm sản xuất có sự khác biệt lớn giữa các loại hình sản xuất như trồng trọt và chăn nuôi trong hệ thống canh tác và giữa các nông hộ. Bảng 5. Thông tin chung về sản xuất của nông hộ xã Bình Thạnh năm 2004 Thông tin chủ hộ Ấp Thạnh Hưng Ấp Thạnh Nhơn Các ấp ngoài đê Trung bình Giới Nam Nam Nam Nam Tuổi 48 53 47 49 Trình độ văn hóa 5 3 3 4 Kinh nghiệm chăn nuôi (năm) 8 6 3 7 Kinh nghiệm trồng trọt (năm) 23 27 24 24 Diện tích đất (ha) 0,4 0,4 0,2 0,4 Mô hình áp dụng Màu + bò Màu + bò Màu + bò Màu + bò n = 30 17 4.1.2 Lịch thời vụ Bình Thạnh có điều kiện đặc biệt được chia thành 2 vùng, một nằm trong đê bao triệt để sản xuất màu của nông dân bắt đầu từ tháng 2–5dl vụ xuân- hè, tháng 6–9dl vụ hè- thu/thu- đông và vụ đông- xuân từ tháng 10- tháng 1dl năm sau và vùng nằm ngoài đê bao chỉ sản xuất được hai vụ màu, mùa lũ từ tháng 8–11dl nghỉ không canh tác nông nghiệp, chỉ chăn nuôi bò hoặc làm các công việc khác như làm thuê, đánh bắt thuỷ sản,...(Hình 3) Loại sản xuất Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Mùa vụ Cây trồng * Xuân hè Hè thu/thu đông Đông xuân Bắp Mía Sắn Trồng quanh năm/ xen canh cây khác Khác Tùy nơi trồng các loại cây khác nhau Chăn nuôi Chăn nuôi quanh năm * Các ấp ngoài đê không canh tác được vào mũa lũ Hình 3: Lịch sản xuất của nông hộ ở xã Bình Thạnh, Châu Thành năm 2004 Đối với các ấp nằm trong vùng đê bao triệt để, do không chịu ảnh hưởng của nước lũ, giá cả nông sản vào mùa này thường cao hơn (từ 5 – 7%) so với các mùa khác. Nên quá trình sản xuất màu, chăn nuôi được chủ động, diễn ra liên tục và đem lại hiệu quả cho sản xuất của nông hộ. Tuy nhiên, từ kết quả theo dõi nông hộ cho thấy sản xuất đang gặp phải một số khó khăn như: sâu bệnh có hiện tượng kháng thuốc bảo vệ thực vật và diễn biến thất thường, không có cách trị triệt để dẫn đến thất thu cho nông hộ. Đối với các ấp ngoài đê bao có sự khác biệt so với các vùng trên là do chịu ảnh hưởng của nước lũ, dẫn đến quá trình canh tác bị gián đoạn. Thông thường, cây màu chỉ sản xuất hai vụ, vào mùa lũ không canh tác được phải chuyển sang làm các công việc như: chăn nuôi, làm thuê, buôn bán, đánh bắt thủy sản,…để phụ thêm vào nguồn thu nhập của nông hộ (từ 20.000 - 30.000 18 đồng/ngày). Tuy nhiên, sản xuất vẫn được duy trì, đặc biệt là đối với mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò do không chịu nhiều ảnh hưởng và tác động của nước lũ nên mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân trong vùng. Như vậy, ở những vùng có điều kiện địa hình khác nhau thì quá trình sản xuất màu và chăn nuôi bò của nông hộ cũng có sự khác biệt. Do đó, tạo ra sự đa dạng về hình thức áp dụng và hiệu quả của mô hình canh tác tổng hợp ở những vùng sinh thái khác nhau. 19 Thu nhập 4.1.3 Mô hình hệ thống canh tác tổng hợp Hình 4: Hiện trạng của mô hình canh tác tổng hợp màu kết hợp chăn nuôi bò tại xã Bình Thạnh- Châu Thành- An giang năm 2004 Hình 4 là cơ sở để xây dựng mô hình canh tác tổng hợp của các hộ nông dân điều tra. Trong mô hình tương đối khép kín này cho thấy khả năng Nguồn vốn SX: + Vay ngân hàng. + Vốn tích lũy Chăn nuôi bò Đất canh tác màu: Bắp lai (G49, Nù dẻo) Mía Sắn Dưa hấu…… CHỢ + Địa phương + Các tỉnh khác Phân bò Ủ hoai, phơi nắng hoặc sử dụng trực tiếp Bò con, bò thịt, bò cái,.. Phụ phẩm nông nghiệp + Kinh nghiệm sản xuất lâu năm + Muốn làm giàu,…. Nông Hộ Chính sách: + Bao tiêu sản phẩm + Giống mới + Trợ giá,... 20 lợi dụng các sản phẩm từ trồng trọt một cách hiệu quả và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Trong đó, đầu vào của mô hình bao gồm: nguồn vốn tự có của nông hộ, nguồn vốn vay từ bên ngoài, lao động, kinh nghiệm sản xuất, đất đai, nguồn tài nguyên sẵn có,...Sự vận động chính của mô hình này dựa vào 2 thành phần chính là trồng trọt và chăn nuôi bò. Kết quả phỏng vấn nông hộ (65%) cho thấy việc mở rộng sản xuất hoa màu giúp làm tăng thêm số lượng và hiệu quả sản xuất của con bò nuôi vỗ béo. Đa số các hộ điều tra cũng cho thấy là khi nông hộ phát triển có tích lũy lợi nhuận họ sẽ đầu tư lại cho sản xuất (87%). Phân bò cũng được tận dụng bằng nhiều cách như ủ hoai, phơi khô, hay tươi để hoàn trả lại dinh dưỡng cho đất trồng trọt, giúp giảm chi phí trồng trọt, bảo tồn độ phì nhiêu đất, tăng năng suất cho cây trồng và hạn chế ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên giới hạn lớn nhất của kiểu mô hình này ở xã Bình Thạnh là diện tích trung bình trên nông hộ thấp (0,4 ha) nên việc mở rộng sản xuất cây màu đặc biệt là cây bắp rất giới hạn nên ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của nông hộ để tăng số lượng bò nuôi lên. Do vậy khả năng mở rộng của mô hình này sẽ bị hạn chế rất lớn. Ngoài ra, Chính sách phù hợp, sự quan tâm của các cấp chính quyền và điều kiện tự nhiên thuận lợi là yếu tố thúc đẩy các mô hình sản xuất phát triển. Sự phát triển đó tùy thuộc vào điều kiện sản xuất thực tế ở từng địa phương và sự tận dụng khai thác hết tiềm năng sẵn có của từng tiểu vùng sinh thái khác nhau. 21 4.2 Phương pháp và kỹ thuật sản xuất của nông dân tại xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành 4.2.1 Phương pháp và kỹ thuật canh tác màu Kết quả ghi nhận trong quá trình theo dõi nông hộ vào mùa lũ năm 2004 tại xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành cho thấy phương pháp canh tác và kỹ thuật sản xuất màu như sau: - Làm đất: Phương pháp áp dụng phổ biến ở đây là làm đất bằng máy xới nhỏ (96,7%). Thời gian bắt đầu thực hiện làm đất là 3 ngày trước gieo sạ hoặc sáng làm đất thì chiều gieo sạ. Sau khi làm đất bón phân nền (phân hữu cơ hoặc phân vô cơ) giúp cây phát triển tốt trong giai đoạn cây con và sử dụng các loại thuốc diệt mầm để diệt cỏ như sofit (13,4%), Jalikin (73,3%), còn lại (13,3%) không sử dụng (cỏ để nuôi bò). - Giống: Trong năm 2004 tại địa bàn nông dân sử dụng các loại màu như: Bắp G49 và nù dẻo, sắn củ, mía và một số loại hoa màu khác như: cải bẹ dúng, đậu que,…Đặc biệt là cây bắp được trồng nhiều nhất vào vụ xuân hè (56,7%), kế đến là vụ hè-thu/thu-đông (53,3%) và vụ đông-xuân (46,7%). Nông dân Đặng Văn Đơ, Chủ nhiệm câu lạc bộ nông dân, xã Bình Thạnh giải thích vụ hè- thu/thu-đông là thời điểm có mưa nhiều dẫn đến chi phí tưới nước thấp, thời tiết thuận lợi cho cây bắp phát triển nên nông dân chọn trồng bắp thay vì trồng các loại khác. - Phương pháp gieo sa: Nông dân ở đây sử dụng phương pháp gieo hạt bằng tay là chủ yếu (100%). Tuy nhiên, đối với từng loại cây màu khác nhau mà nông dân sử dụng các biện pháp gieo sạ khác nhau. Đối với bắp phương pháp áp dụng là gieo trực tiếp hạt giống lên nền đất ruộng sau khi đã được chuẩn bị; Đối với sắn, sau khi để hạt nẩy mầm trong bầu được chuẩn bị trước mới bắt đầu đem ra đồng để trồng… 22 - Chăm sóc: Sau khi xuống giống nông hộ bắt đầu các công việc như tưới nước, tưới phân, xịt thuốc, làm cỏ…Tùy loại cây trồng, tùy theo thời tiết (mưa nhiều hay ít hay khô hạn), tùy loại đất, tùy nông hộ mà có chế độ chăm sóc khác nhau. Đặc biệt đất ở đây đa phần là loại cát pha khả năng giữ nước kém và đất thịt nên vào mùa khô hạn thường phải tưới nước nhiều lần dẫn đến chi phí đầu tư cho sản xuất tăng. Ví dụ: gia đình ông Huỳnh Văn Nhịnh (ấp Thạnh Hưng, Bình Thạnh) với 0,4 ha dưa hấu thay vì 5–7 ngày tưới nước và tưới phân một lần (chi phí một lần tưới là 35.000–40.000 đồng/1000m2) vào mùa khô (năm 2004) 2-3 ngày tưới một lần. Điều này dẫn đến chi phí chăm sóc tăng gấp 2 lần. - Thu hoạch và bảo quản: Kết quả điều tra cho thấy, cây trồng sau hoạch được bán tại ruộng cho thương lái (50%) hoặc cho công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (BVTVAG) (50%) và không qua chế biến hay tồn trữ lâu dài. Đối với những nông hộ trồng bắp lai thì bán sản phẩm cho công ty BVTVAG qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa công ty và nông dân. Các loại màu khác như đậu que, sắn củ,.. thông thường đều do thương lái đến tận ruộng để mua, theo giá thỏa thuận. - Sử dụng phụ phế phẩm: Sau khi thu hoạch các sản phẩm chính để bán, số phụ phẩm còn lại được phục vụ cho chăn nuôi, đặc biệt cây bắp có 83,3% nông dân thường sử dùng phần phụ phẩm của nó như thân, lá để sử dụng cho chăn nuôi bò và 16,7% bán cho các nông hộ khác để nuôi bò. Các phụ phẩm từ hoa màu khác như mía, đậu bắp, bắp cải,..rất ít được nông dân sử dụng cho gia súc (bò) ăn vì phụ phẩm từ cây bắp đã đủ cho bò ăn. 4.2.2 Phương pháp và kỹ thuật chăn nuôi bò - Chọn giống: Nông dân trong vùng đều chọn các giống bò địa phương và bò lai Sind để nuôi vỗ béo do khả năng thích ứng của hai giống bò này đối với điều 23 kiện trong vùng và kinh tế của nông hộ. Đối với những nông hộ điều kiện kinh tế khá họ thường chọn bò lai Sind do giá trị của nó cao hơn bò địa phương (Chương 2). Ngược lại, đối với những nông hộ có điều kiện thấp hơn lại chọn bò địa phương để nuôi vỗ béo do thời gian vỗ béo ngắn và vốn nhẹ. - Chuẩn bị chuồng trại: Chuồng được xây dựng bằng vật liệu địa phương như tre, trúc là cách sử dụng phổ biến của nông dân tại địa bàn. Chi phí xây dựng chuồng trại thấp khoảng từ 300.000–500.000 đồng, có thể nuôi được từ 4–6 con và thời gian sử dụng được trên hai năm. - Phương pháp nuôi: Nuôi nhốt hoàn toàn là phương pháp chăn nuôi phổ biến tại địa bàn nghiên cứu (100%). Nguyên do là diện tích canh tác màu lớn nên không thể chăn thả gia súc và do một số vùng còn chịu ảnh hưởng của nước lũ nên phải nuôi bò trên chuồng sàn. Mục đích để đảm bảo không ảnh hưởng đến quá trình chăn nuôi của nông hộ vào bất cứ mùa nào và không làm thiệt hại đến sản xuất màu của các nông hộ xung quanh. - Chăm sóc và phòng bệnh: Tắm rửa ngày 2 lần, dọn vệ sinh chuồng trại, cho bò ăn là những công việc hàng ngày đối với nuôi bò. Ngoài ra, sau khi thả bò được khoảng 7–10 ngày, nông dân thường mướn cán bộ thú y của địa phương để tiêm ngừa lở mồm long móng, tụ huyết trùng cho bò (sau 6 tháng tiêm ngừa một lần và giá từ 6.000–8.000 đồng/con). Kết quả của biện pháp chăm sóc này là tương đối tốt, được áp dụng ở hầu hết các hộ có chăn nuôi bò tại địa bàn. - Cách bán gia súc: Bò khi đạt kích thước và trọng lượng thương phẩm (trung bình 10 tháng), nông dân tìm thương lái từ các Tỉnh khác (56,7%) hoặc ở địa phương (43,3%) để bán khi cần thiết. Bán gia súc theo giá thỏa thuận giữa nông hộ và người mua, mức giá trung bình từ 5,5 – 7 triệu đồng/con. - Sử dụng phụ phế phẩm: Phân bò và thức ăn thừa (rơm rạ, thân bắp) là nguồn phụ phế phẩm chính trong chăn nuôi bò tại địa phương và nó được sử dụng làm phân bón để 24 cải tạo đất (56,7%), tăng dinh dưỡng cho cây (23,3%), giúp cây phát triển nhanh/tốt trong các giai đoạn phát triển của cây (6,7%). Trong (80%) nông hộ sử dụng phân bò để bón cho các loại màu ở hầu hết các vụ thì bắp (50%), sắn (3,3%) và các loại khác (26,7%). Còn lại (20%) không sử dụng do chưa hiểu về công dụng của phân bò (3,3%) và không thích sử dụng do khối lượng sử dụng lớn (16,7%). 4.2.3 Hiệu quả sản xuất của mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò Kết quả ở Bảng 6 cho thấy thu nhập bình quân của mô hình này trên năm là 32.589.000 đồng/hộ/năm. Đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập cho nông hộ, trong đó cây màu chiếm trung bình 55,3%, chăn nuôi bò trung bình 33% và trung bình 11,7% là các nguồn thu khác. Tuy nhiên, tỷ lệ này khác nhau giữa hai vùng trong và ngoài đê bao. Bảng 6. Hiệu quả của mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò tại xã Bình Thạnh, năm 2004 Đơn vị: 1000 đồng/hộ/năm Loại sản xuất Diện tích TB Thu Chi phí Lợi nhuân Sản xuất màu* 0,4 (ha) 25.169 7.168 18.001 Chăn nuôi bò 25.949 15.197 10.752 Sản xuất khác** 3.836 Tổng 0,4 (ha) 51.118 22.365 32.589 n = 30 * Bao gồm cây bắp và một số loại khác ** Nuôi trùn quế hoặc nuôi lươn hoặc trồng vườn,… 25 Đối với vùng trong đê bao, lợi nhuận mà mô hình kết hợp màu và chăn nuôi bò mang lại cho nông hộ trung bình là 29.435.000 đồng/hộ/năm (Bảng 7). Trong đó, cây màu đóng vai trò là nguồn thu chính (63,5%) và chăn nuôi bò là nguồn thu nhập kế trong sản xuất của nông hộ (36,5%). Nguyên nhân là do không chịu ảnh hưởng của nước lũ nên nông hộ có thể chủ động được nguồn nước tưới, thuận lợi cho sản xuất. Đặc biệt đối với cây bắp lai nông dân có thể trồng xen quanh năm với các loại màu khác (mía, sắn củ, đậu bắp…) để cung cấp phụ phẩm cho chăn nuôi bò. Vì vậy, chủ động được nguồn thức ăn xanh phục vụ cho chăn nuôi bò và gia tăng lợi nhuận cho nông hộ. Tuy nhiên, sự đóng góp của chăn nuôi bò vào lợi nhuận của nông hộ chiếm khoảng 1/3 trong tổng lợi nhuận của mô hình và chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của mô hình. Do vậy, cần tăng số lượng bò nuôi trên nông hộ để khai thác tốt nguồn phụ phế phẩm trồng trọt và tăng thêm lợi nhuận cho mô hình. Bảng 7. Hiệu quả của mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò vùng trong đê bao năm 2004 Đơn vị: 1000 đồng/hộ/năm Loại sản xuất Diện tích TB Thu Chi phí Lợi nhuận Sản xuất màu* 0,4 (ha) 26.554 7.871 18.683 Chăn nuôi bò 25.949 15.197 10.752 Tổng 0,4 (ha) 52.503 23.068 29.435 n= 20 * Cây màu được sản xuất 3 vụ trên năm bao gồm bắp lai và một số loại khác Đối với các vùng ngoài đê bao, mặc dù chịu ảnh hưởng của nước lũ không canh tác được quanh năm, nhưng mô hình vẫn đem lại lợi nhuận cho nông hộ là 18.401.000 đồng/năm (Bảng 8). Trong đó, chăn nuôi bò chiếm tỷ trọng cao nhất (57,4%), cây màu (34%), và thu nhập khác (8,6%). Tuy nhiên, nếu xét trên cùng diện tích (0,4 ha) thì cây màu vẫn chiếm ưu thế. Ngoài ra, do chỉ sản xuất được hai vụ màu nên thu nhập từ chăn nuôi bò đối với nông dân trong vùng này là quan trọng, không chỉ ở về mặt kinh tế mà nó còn được thể hiện trên lĩnh vực xã hội như: giải quyết việc làm trong mùa nước nổi. Bảng 8. Hiệu quả của mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò ở vùng ngoài đê bao năm 2004 Đơn vị: 1000 đồng/hộ/năm Loại sản xuất Diện tích TB Thu Chi phí Lợi nhuận 26 Sản xuất màu * 0,2 (ha) 8.690 2.439 6.251 Chăn nuôi bò 21.850 11.300 10.550 Khác ** 1.600 Tổng (0,2 ha) 30.540 13.739 18.401 n = 10 * Cây màu được sản xuất 2 vụ bao gồm bắp lai và một số loại khác ** Thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp và dịch vụ Hiệu quả của mô hình canh tác tổng hợp màu kết hợp chăn nuôi bò còn phản ánh ở khía cạnh xã hội là thu hút rất nhiều nông dân quan tâm ở địa phương đến học tập kinh. Khi so sánh về hiệu quả của mô hình này với các mô hình còn độc canh khác thì có hiệu quả hơn (76,7%) và các lý do dẫn đến sự thành công của nó là tận dụng nguồn phụ phẩm từ cây màu (40%), có lợi nhuận cao (16,7%), và cả hai là (20%). Bảng 9 trình bày kết quả theo dõi 3 nông hộ áp dụng mô hình sản xuất kết hợp màu và chăn nuôi bò năm 2004. Tổng lợi nhuận trung bình trên năm mô hình này mang lại cho nông hộ là 26.164.610 đồng, trong đó cây màu chiếm 66,2%, chăn nuôi bò 31,5% và 2,3% là nguồn thu từ các hoạt động phi nông nghiệp. Như vậy mô hình này cho thấy được ưu thế của cây màu từ việc tận dụng nguồn phụ phế phẩm làm thức ăn để chăn nuôi bò vỗ béo ở huyện Châu Thành. Song song đó mô hình đã tạo được tính bền vững trong quá trình phát triển của mô hình và tạo ra lợi nhuận đối với nông hộ, mặc dù về cơ cấu lợi nhuận giữa cây màu và nuôi bò chưa cân xứng. Bảng 9. Hiệu quả mô hình màu kết hợp chăn nuôi bò ở ba nông hộ theo dõi tại xã Bình Thạnh, Châu Thành năm 2004 Đơn vị: 1000 đồng/hộ/năm Loại sản xuất Diện tích TB Thu Chi phí Lợi nhuận Sản xuất màu 0,45 (ha) 27.154 9.423 17.731 Chăn nuôi bò 17.133 8700 8.433 Khác* 0,61 Tổng 0,45 (ha) 44.287 18.123 26.164,61 n = 3 * Thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp 27 4.3 Cơ cấu (% đóng góp) của các thành phần sản xuất trong mô hình canh tác màu kết hợp chăn nuôi bò Kết quả phỏng vấn và theo dõi nông hộ cho thấy: Cơ cấu thu nhập của nông hộ gồm hai thành phần sản xuất chính là cây màu và chăn nuôi bò. Cây màu là thành phần quan trọng và có đóng góp nhiều nhất cũng như khả năng quyết định của nó so với chăn nuôi và các thành phần sản xuất khác trong mô hình. Cụ thể, hàng năm nguồn thu nhập từ cây màu (bắp lai, mía, săn, đậu phộng, ..) đem lại chiếm khoảng 55,3% trên tổng thu nhập/hộ/năm, so với chăn nuôi bò chiếm khoảng 33% trên tổng thu nhập của mô hình/hộ/năm (Hình 5). Tuy nhiên, đối với những nông hộ có diện tích đất trồng trọt ít (từ 1– 3 công, có 26,7%), nguồn thu nhập quan trọng của họ thường phụ thuộc chủ yếu vào chăn nuôi bò và các nguồn thu nhập khác như làm thuê nông nghiệp, các hoạt động phi nông nghiệp và đánh bắt thủy sản vào mùa lũ là chính (46,7%). Sản xuất màu 55% Khác 12% Chăn nuôi bò 33% Hình 5: Biểu đồ cơ cấu thu nhập của nông hộ tại xã Bình Thạnh năm 2004 Sự đóng góp của chăn nuôi bò vào cơ cấu thu nhập của nông hộ sẽ có sự thay đổi theo hướng tăng về số lượng bò/hộ và hiệu quả kinh tế của nông hộ. Nguyên nhân là do nguồn thu nhập của chăn nuôi bò thịt, bò cái sinh sản hoặc nuôi bò vỗ béo đang được nông dân tại địa phương rất quan tâm (với 76,7% nông hộ được hỏi là sẽ mua thêm bò; 10 % mua thêm đất và 13,3% là nuôi lươn, nuôi trùn quế,..) và do lợi nhuận cũng như giá cả thị trường ổn định. Đóng góp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNguyenNgocTuan.pdf
Tài liệu liên quan