MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VÀ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG . 9
1.1. Khái niệm và đặc điểm vi phạm hợp đồng tín dụng. 9
1.2. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín dụng . 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
QUA THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG VIETCOMBANK QUẢNG NGÃI
. 27
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín dụng. 27
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín
dụng qua thực tiễn ngân hàng Vietcombank Quảng Ngãi . 39
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG . 51
3.1. Quan điểm, yêu cầu hoàn thiện và thực hiện pháp luật về trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng tín dụng . 51
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín
dụng. 53
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng tín dụng. 56
KẾT LUẬN . 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
70 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 528 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín dụng từ thực tiễn ngân hàng ngoại thương Việt Nam (vietcombank) – Chi nhánh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT về HĐTD thì "Hợp đồng tín dụng được hình thành hợp pháp
ràng buộc các bên giao kết" (Điều 1.3). Từ đó có thể thấy HĐTD tuy là sự
thỏa thuận giữa các bên, là sự thể hiện ý chí thống nhất giữa các bên, song
một khi đã được xác lập, ký kết thì việc thực hiện các nghĩa vụ HĐTD là bắt buộc.
Vi phạm HĐTD là việc không thực hiện hay thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ HĐTD, là hành vi trái pháp luật và chủ thể thực hiện
hành vi đó phải chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm. Pháp luật các nước
đều coi vi phạm HĐTD là yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm HĐTD.
Bộ Luật Dân sự 2015 và LTM 2005 quy định một trong những căn cứ để áp
dụng trách nhiệm do vi phạm HĐTD là phải có hành vi vi phạm HĐTD. Khi
xem xét hành vi vi phạm HĐTD, ngoài việc xác định thế nào là hành vi vi
phạm HĐTD thì còn cần thiết phải làm rõ thế nào là vi phạm cơ bản, vi phạm
không cơ bản và vi phạm trước thời hạn vì hậu quả pháp lý của các hành vi vi
phạm này là khác nhau.
Yếu tố thứ hai: có thiệt hại về tài sản
Có thiệt hại về tài sản mới có cơ sở để áp dụng trách nhiệm do vi phạm
HĐTD. Đây là những thiệt hại vật chất thực tế tính được thành tiền do bên vi
phạm gây ra, bao gồm: "tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút" [19, Điều
307 khoản 2]. Theo quy định của LTM 2005 thì thiệt hại này bao gồm: giá trị
tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên vi phạm phải chịu và khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng [19, Điều 302 khoản 2].
Yếu tố thứ ba: có lỗi của bên vi phạm
Lỗi là một trong những căn cứ quan trọng trong việc xác định trách
nhiệm do vi phạm nghĩa vụ HĐTD. Về nguyên tắc, pháp luật dân sự quy định
người có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm dân sự
25
bất luận hành vi đó được thực hiện với lỗi vô ý hay lỗi cố ý. Khi tham gia
giao kết HĐTD, các bên đã biết và buộc phải biết rằng mục đích của HĐTD
cũng như quyền lợi của một bên chỉ có thể đạt được thông qua việc thực hiện
đúng nghĩa vụ của bên kia. Điều đó cũng có nghĩa các bên nhận thức rõ rằng
việc vi phạm nghĩa vụ của mình sẽ đem lại thiệt hại vật chất cho phía bên kia.
Yếu tố thứ tư: hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng của bên vi phạm là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm.
Theo quy định tại Điều 303 khoản 3 LTM 2015 thì mối liên hệ giữa
hành vi vi phạm HĐTD và thiệt hại vật chất phải là mối liên hệ trực tiếp. Một
sự thiệt hại có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, để buộc bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm về thiệt hại đó thì phải chứng minh rằng thiệt hại là hậu quả
trực tiếp của hành vi vi phạm mà không phải là hậu quả của các nguyên
nhân khác.
Một bên muốn đòi bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh được mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm HĐTD và thiệt hại tài sản phát sinh.
Tuy nhiên, các chủ thể trong HĐTD có thể có quốc tịch khác nhau, trụ sở
thương mại đóng ở các nước khác nhau cho nên việc chứng minh mối quan hệ
trên cũng không hề đơn giản, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguồn luật
điều chỉnh, tập quán lĩnh vực tín dụng ngân hàng, điều ước quốc tế về thương
mại, sự bất đồng về ngôn ngữ,
26
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đã tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn
đề lý luận về vi phạm hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm, dấu hiệu vi
phạm hợp đồng tín dụng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín dụng, căn
cứ, cơ sở để xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín dụng.
Những phân tích trên cho ta thấy trách nhiệm do vi phạm HĐTD là hậu
quả bất lợi về vật chất mà bên vi phạm nghĩa vụ HĐTD phải gánh chịu. Trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung và trách nhiệm do vi phạm HĐTD nói
riêng đều thuộc trách nhiệm pháp lý, vì vậy, chúng đều mang đầy đủ các đặc
điểm cơ bản của trách nhiệm pháp lý cũng như những đặc điểm đặc thù liên
quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Pháp luật về trách nhiệm do vi phạm
HĐTD bao gồm những quy định chủ yếu về: các yếu tố cấu thành trách nhiệm
do vi phạm HĐTD; miễn trách nhiệm do vi phạm HĐTD; chế tài do vi phạm
HĐTD. Ngoài ra để tìm hiểu rõ hơn những quy định pháp luật hiện hành về
trách nhiệm do vi phạm HĐTD và thực trạng áp dụng các quy định này,
chúng ta sẽ cùng làm rõ qua chương 2 của đề tài với thực tiễn thực hiện pháp
luật về trách nhiệm do vi phạm HĐTD tại ngân hàngVietcombank Quảng Ngãi.
27
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC
TIỄN TẠI NGÂN HÀNG VIETCOMBANK QUẢNG NGÃI
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
tín dụng
2.1.1. Thực trạng pháp luật về căn cứ miễn trách nhiệm
Các căn cứ miễn trách nhiệm do thỏa thuận của các bên
Các bên có thể thỏa thuận đưa vào HĐTD những trường hợp cho phép
các bên không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm HĐTD. Cơ sở của
việc thừa nhận căn cứ này là dựa trên quyền tự do thỏa thuận HĐTD giữa các
bên, điều khoản thỏa thuận về căn cứ miễn trách nhiệm này có giá trị như mọi
điều khoản khác của HĐTD. Điều này được thể hiện qua quy định tại điểm e
Khoản 2 Điều 398 BLDS 2015 (về nội dung của HĐTD) và điểm a khoản 1
Điều 294 LTM 2005 (về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng).
Như vậy, pháp luật cho phép các bên tự do thỏa thuận về trách nhiệm
do vi phạm HĐTD cũng tức là cho phép các bên được quyền thỏa thuận về
việc miễn trừ trách nhiệm nếu có vi phạm HĐTD. Điều đó có nghĩa, các bên
có quyền thỏa thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm và các căn cứ miễn
trách nhiệm áp dụng riêng cho HĐTD đó và hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa
thuận của các bên dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng HĐTD. Những trường
hợp và những căn cứ này không phải là các trường hợp miễn trách nhiệm do
pháp luật quy định như đã phân tích ở trên. Khi điều kiện là căn cứ để miễn
trừ trách nhiệm do các bên thỏa thuận xảy ra, bên vi phạm đương nhiên được
miễn trách nhiệm, mặc dù trên thực tế cả hai bên không hề có lỗi và việc xảy
ra thiệt hại các bên vẫn có thể ngăn chặn và lường trước được, song để thực
28
hiện được việc đó là điều không phải dễ. Thực tiễn ở Việt Nam trong các
HĐTD không có thỏa thuận này hoặc có thì cũng sơ sài và không thực hiện
trong thực tế.
Căn cứ miễn trách nhiệm do gặp bất khả kháng.
Bên vi phạm HĐTD sẽ được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện
một phần hay toàn bộ nghĩa vụ HĐTD nếu việc không thực hiện này vì họ
gặp bất khả kháng.
Theo quy định tại Điều 156 khoản 1 BLDS 2015 thì: "Sự kiện bất khả
kháng là sự kiện xảy ra một cách khánh quan không thể lường trước được và
không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả
năng cho phép". Tuy nhiên, pháp luật lại không có quy định một cách rõ ràng
những sự kiện nào là sự kiện bất khả kháng. Trong thực tế các sự kiện này rất
đa dạng, ví dụ: những hiện tượng thiên nhiên như bão lũ, động đất, ; chiến
tranh; bạo loạn của dân chúng; đình công; . Theo quy định tại khoản 2 Điều
351 BLDS 2015 thì trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện
được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác. Điều 294 khoản 1 điểm b LTM 2005 cũng quy định khi xảy ra sự kiện
bất khả kháng, bên vi phạm HĐTD được miễn trách nhiệm.
Về nguyên tắc chung thì một bên không chịu trách nhiệm về việc
không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được
rằng việc không thực hiện ấy là do một cản trở nằm ngoài sự sự kiểm soát của
họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở
ngại đó vào lúc ký kết HĐTD. Như vậy, bất khả kháng là căn cứ miễn trách
nhiệm do vi phạm HĐTD nhưng từ nội dung trên có thể suy ra đây là trường
hợp bất khả kháng vì theo pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp thì bất
khả kháng được hiểu là hiện tượng khách quan mà các bên không lường trước
29
được, không khắc phục được. LTM 2005 có quy định về nghĩa vụ thông báo
của bên bị vi phạm. Theo đó, bên vi phạm HĐTD phải thông báo ngay bằng
văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả
có thể xảy ra (Điều 295 LTM 2005). Tuy nhiên, BLDS 2015 lại không có quy
định về nghĩa vụ thông báo của người vi phạm HĐTD. Sự thiếu sót này có thể
dẫn đến việc bên bị vi phạm HĐTD sẽ gặp phải những thiệt hại lớn hơn, trong
khi đó bên vi phạm lại được miễn trách nhiệm, điều đó sẽ là không công bằng
đối với bên bị vi phạm. Ngoài ra, việc miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả
kháng sẽ không được đặt ra nếu như các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác. Ví dụ như trong HĐTD các bên đã thỏa thuận rõ ràng
rằng, bên vi phạm HĐTD sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm HĐTD của mình cả trong trường hợp bất khả kháng. Tuy vậy, những
thỏa thuận như vậy là rất ít hoặc gần như không có bởi bản thân sự thỏa thuận
đã cho thấy rõ tình thế bất lợi của một bên giao kết HĐTD, hoặc có thỏa
thuận như vậy và khi có tranh chấp thì thỏa thuận này vẫn có nguy cơ bị tuyên
vô hiệu- do thỏa thuận trái quy định của pháp luật. Thực tiễn ở Việt Nam
trong các HĐTD đều quy định về căn cứ này, tuy nhiên cũng chỉ quy định
chung chung theo quy định của pháp luật.
Căn cứ miễn trách nhiệm do lỗi của bên vi phạm
Việc không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ HĐTD là do
hành vi hay sơ suất của bên bị vi phạm thì bên vi phạm sẽ được miễn trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm đó. Hay nói cách khác bên vi phạm HĐTD sẽ
không phải chịu trách nhiệm nếu như việc vi phạm đó hoàn toàn do lỗi của
bên có quyền.
Luật Thương mại không quy định lỗi của bên bị thiệt hại là căn cứ miễn
trừ trách nhiệm do không thực hiện hay thực hiện không đúng HĐTD. Tuy
nhiên, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề không trách nhiệm này, các
30
nhà làm luật đã đưa vấn đề trên vào BLDS 2015. Điều đó được quy định tại
khoản 3 Điều 351 của BLDS 2015: "Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách
nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn
toàn do lỗi của bên có quyền”.
Để phù hợp và thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự, đảm bảo sự
tương thích với pháp luật quốc tế, LTM 2005 đã có quy định về vấn đề này.
Cụ thể, LTM 2005 đã quy định một trong những căn cứ miễn trách nhiệm là
do: "hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia" (Điều 294
khoản 1 điểm c).
Theo các quy định trên, nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên vi phạm
HĐTD. Theo nguyên tắc suy đoán lỗi, bên vi phạm phải chứng minh được là
mình không có lỗi và đồng thời chứng minh được việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ HĐTD là do lỗi của bên có quyền. Bởi vì, để
được coi là căn cứ miễn trách nhiệm, lỗi của bên bị vi phạm phải là nguyên
nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm HĐTD.
Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định rằng, lỗi đó phải hoàn toàn là lỗi
của bên có quyền, tức là nếu như lỗi thuộc về cả hai, thì bên vi phạm HĐTD
sẽ không được miễn hoàn toàn trách nhiệm. Trường hợp này luật cũng không
quy định rõ trách nhiệm của bên vi phạm sẽ như thế nào. Tác giả cho rằng nếu
như sự vi phạm HĐTD là do lỗi của cả hai bên giao kết HĐTD, tức là có cả
lỗi của bên có quyền, thì bên có nghĩa vụ sẽ được giảm một phần trách nhiệm.
Căn cứ miễn trách nhiệm do quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
Trường hợp miễn trừ này được LTM 2005 quy định tại Điều 294 khoản
1 điểm d: "Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết HĐTD". Theo đó, quyết định của cơ quan nhà nước trong một
31
số trường hợp cũng được coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm do vi phạm
HĐTD. Những quyết định này có thể là quyết định đơn phương của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, cũng có thể là quyết định của các tổ chức quốc tế
(lệnh cấm vận thương mại đối với quốc gia nào đó).
Cơ sở cho việc quy định căn cứ miễn trách nhiệm này là bên vi phạm
HĐTD hy sinh một lợi ích nhỏ hơn (lợi ích vật chất của các bên trong HĐTD)
vì một lợi ích lớn hơn (lợi ích của cộng đồng, của xã hội). Tuy nhiên khi
nghiên cứu về căn cứ miễn trách nhiệm này, có ý kiến cho rằng nên sử dụng
ngân sách nhà nước để bù đắp phần nào những tổn thất vật chất mà bên bị vi
phạm phải gánh chịu. Tác giả ủng hộ ý kiến này vì như vậy sẽ đảm bảo được
lợi ích vật chất của các bên trong HĐTD, đồng thời đảm bảo về mặt pháp lý
để các bên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân của mình khi được nhà nước
yêu cầu.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về các chế tài do vi phạm hợp đồng tín
dụng
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng tín dụng
Chế tài buộc thực hiện đúng HĐTD được sử dụng nhằm bảo vệ quyền
lợi cho bên bị vi phạm trong quan hệ HĐTD. Theo quy định tại Điều 297,
khoản 1 LTM 2005 thì chế tài này được hiểu là bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng HĐTD hoặc áp dụng các biện pháp khác để HĐTD
được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trong quan hệ
HĐTD thì cả bên vay và bên cho vay đều có thể là bên vi phạm nghĩa vụ
HĐTD. Khi đó, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải thực hiện
đúng HĐTD.
Trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ HĐTD là bên cho vay thì bên vay có
quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện đúng nghĩa vụ HĐTD. Nếu vi phạm là
giải ngân thiếu hay không giải ngân hoặc áp dụng sai lãi suất đã thỏa thuận thì
32
bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay giải ngân đủ số tiền hoặc áp dụng đúng
lãi suất theo HĐTD;
Nếu bên vay vi phạm nghĩa vụ HĐTD thì bên cho vay có quyền yêu
cầu bên vay trả tiền hoặc có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vay thực
hiện nghĩa vụ HĐTD [19, Điều 298]. Trong trường hợp này, bên cho vay
không mất quyền yêu cầu trả tiền phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận hay
đòi bồi thường thiệt hại do người mua chậm thực hiện nghĩa vụ [19, Điều 299
khoản 1]. Chế tài buộc thực hiện đúng HĐTD được quy định trong LTM 2005
tương tự như quy định của Công ước Viên năm 1980. Đây là một chế tài được
áp dụng tương đối phổ biến bởi nội dung của nó thường chứa đựng hướng
khắc phục những vi phạm, tạo điều kiện để các bên có thể bảo vệ được lợi ích
chính đáng của mình.
Chế tài phạt vi phạm
Theo quy định tại Điều 300 LTM 2005 thì phạt vi phạm là việc bên có
quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định
do vi phạm HĐTD nếu trong HĐTD có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định. Như vậy, bên bị vi phạm nhận được số tiền bị thiệt hại như dự kiến mà
không phải chứng minh thực tế mình có bị thiệt hại hay không, chỉ cần chứng
minh là đã có hành vi vi phạm theo đúng quy định trong điều khoản phạt là có
quyền đòi khoản tiền phạt.
Như vậy, khi HĐTD có quy định tiền phạt cho việc không thực hiện
HĐTD và không có quy định thêm gì khác thì bên vi phạm HĐTD phải nộp
tiền phạt cho bên bị vi phạm, không phụ thuộc vào việc bên kia có bị thiệt hại
hay không, bị thiệt hại nhiều hay ít. Nếu muốn căn cứ vào việc có thiệt hại
mới phải nộp phạt thì phải quy định trong HĐTD. Chế tài phạt vi phạm được
áp dụng trong hai trường hợp vi phạm, đó là: không thực hiện HĐTD hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ HĐTD. Khi áp dụng chế tài này, theo nguyên
33
tắc, sẽ thực hiện hai chức năng: thứ nhất, là chế tài bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ HĐTD; thứ hai, là hình thức trách nhiệm do vi phạm HĐTD.
Trường hợp không thực hiện HĐTD: thông thường, mức phạt trong
trường hợp này tương đối cao vì nó thực hiện chức năng bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ HĐTD, nhằm phục hồi lại trạng thái ban đầu cho bên bị vi phạm.
Các bên phải cố gắng thực hiện HĐTD, nếu không sẽ bị phạt số tiền lớn. Sau
khi đã nộp đủ số tiền phạt, bên vi phạm thoát khỏi nghĩa vụ HĐTD của mình.
Quy định này làm cho đối phương nhụt ý định không thực hiện hay thực hiện
không đúng HĐTD.
Các bên có thể thỏa thuận mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ
HĐTD bị vi phạm [19, Điều 301]. Vì vậy các bên phải tính toán rất cẩn thận
các hậu quả tài chính của các hành vi vi phạm như chậm giải ngân, chậm
thanh toán, để quy định mức tiền phạt. Chỉ trên cơ sở đánh giá hậu quả đó
thì mới đưa ra mức phạt hợp lý, tránh trường hợp số tiền phạt quá nhỏ hoặc
quá lớn so với thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Khác với
quy định của LTM, Luật các tổ chức tín dụng 2010 lại không có quy định về
chế tài phạt vi phạm. Trong thực tế, các bên thường áp dụng chế tài "Phạt vi
phạm" trong HĐTD.
Chế tài buộc bồi thường thiệt hại
Buộc bồi thường thiệt hại là một chế tài được áp dụng phổ biến đối với
các trường hợp vi phạm HĐTD, kể cả do không thực hiện hay thực hiện
không đúng nghĩa vụ HĐTD.
Theo quy định tại Điều 302 LTM 2005, Điều 307 BLDS 2005, buộc bồi
thường thiệt hại là việc bên vi phạm phải bồi hoàn những tổn thất do hành vi
vi phạm HĐTD gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi
34
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá
trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Mức bồi thường không cao hơn
mức tổn thất và khoản lợi được hưởng mà bên vi phạm nhìn thấy trước hoặc
buộc phải nhìn thấy trước khi ký kết HĐTD.
Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp chính là những thiệt hại thực tế, trực
tiếp; tức là thiệt hại đó phải có thể tính toán được một cách thực tế và phải do
chính hành vi vi phạm nghĩa vụ HĐTD gây ra chứ không phải do một nguyên
nhân nào khác. Khoản lợi đáng lẽ được hưởng là những khoản lãi mà bên bị
vi phạm lẽ ra sẽ được hưởng trong điều kiện bình thường nếu bên vi phạm
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Khi xác định phạm vi khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng phải xuất phát từ việc bên bị thiệt hại có quyền nhận
khoản lợi thực tế họ bị mất hay có thể chờ đợi, mà họ có thể nhìn thấy trước
được tại thời điểm ký kết HĐTD.
Luật Thương mại năm 2005 không quy định một cách cụ thể cách thức
xác định mức độ thiệt hại phải đền bù, mà chỉ quy định những nguyên tắc
chung khi xác định thiệt hại: số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất
thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và số tiền này
không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng (Điều 302
khoản 2).
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành và pháp luật các nước,
trách nhiệm do vi phạm HĐTD là trách nhiệm tài sản, trách nhiệm vật chất.
Bên vi phạm HĐTD không chịu trách nhiệm tinh thần. Vì vậy, khi đòi bồi
thường thiệt hại do vi phạm HĐTD thì không được tính thiệt hại về tinh thần,
nếu có đòi thì cũng không được chấp nhận. Thực tiễn ở Việt Nam yêu cầu bồi
thường thiệt hại chủ yếu là ngân hàng yêu cầu khách hàng vay tiền trả khoản
tiền gốc, tiền lãi (lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt) và các chi phí khác.
35
Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng tín dụng
Tạm ngừng thực hiện HĐTD là một chế tài do vi phạm HĐTD mới
được LTM 2005 quy định.
Theo quy định tại Điều 308 LTM 2005 thì tạm ngừng thực hiện HĐTD
là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ HĐTD trong trường hợp
xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện HĐTD hay một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ HĐTD, trừ trường
hợp bên vi phạm được miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm HĐTD do pháp
luật quy định hay do các bên thỏa thuận.
Khi HĐTD bị tạm ngừng thực hiện thì nó vẫn còn hiệu lực. Việc tạm
ngừng thực hiện HĐTD có nghĩa là các bên sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ
của mình trong một thời hạn cụ thể nào đó. Do pháp luật không quy định về
thời hạn tạm ngừng thực hiện HĐTD nên các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận
với nhau. Khi áp dụng chế tài này, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm phải bồi thường thiệt hại (Điều 309 LTM 2005).
Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng tín dụng
Đình chỉ thực hiện HĐTD cũng là một trong các chế tài do vi phạm
HĐTD mới được LTM 2005 quy định. Đình chỉ thực hiện HĐTD là việc một
bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ HĐTD trong trường hợp xảy ra hành vi vi
phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện HĐTD
hay một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ HĐTD, trừ trường hợp bên vi phạm
được miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm HĐTD do pháp luật quy định hay
do các bên thỏa thuận (Điều 310 LTM 2005).
Theo quy định tại Điều 311 LTM 2005 thì khi HĐTD bị đình chỉ thực
hiện thì hiệu lực của HĐTD chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông
báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ HĐTD. Bên đã
thực hiện nghĩa vụ HĐTD có quyền yêu cầu bên kia thanh toán thanh toán
36
hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng, ngoài ra, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại (Điều 312 LTM 2005).
Khi áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện HĐTD, khác với chế tài tạm
ngừng thực hiện HĐTD, pháp luật bắt buộc bên yêu cầu phải thông báo cho
phía bên kia biết về việc đình chỉ HĐTD, nếu không thông báo mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
Chế tài hủy bỏ hợp đồng tín dụng
Chế tài hủy bỏ HĐTD có thể coi là chế tài nặng nhất trong số các chế
tài do vi phạm HĐTD.
Trong thực tiễn, thông thường khi có vi phạm nghĩa vụ HĐTD thì bên
bị vi phạm chưa áp dụng chế tài này mà thường áp dụng các chế tài khác, sau
đó, nếu không mang lại hiệu quả thì mới áp dụng chế tài này.
Khi áp dụng chế tài hủy bỏ HĐTD thì các bên không tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong HĐTD; đồng thời, các bên có quyền đòi lại
lợi ích do việc đã thực hiện một phần nghĩa vụ đã thỏa thuận trong HĐTD và
bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm.
Theo quy định của pháp luật dân sự, một bên có quyền hủy bỏ HĐTD
mà không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm HĐTD là điều kiện
hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định [20, khoản 1
Điều 423].
Theo quy định tại Điều 312 khoản 4 LTM 2005 thì hủy bỏ HĐTD được
áp dụng trong trường hợp:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ
HĐTD;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ HĐTD. Như vậy, khác với các chế
tài khác, chế tài hủy bỏ HĐTD chỉ được áp dụng trong một số trường hợp
nhất định, với một số loại vi phạm nhất định, đó thường là những vi phạm
37
nghiêm trọng.
Luật Thương mại năm 2005 quy định muốn áp dụng chế tài hủy bỏ
HĐTD, bên bị vi phạm phải thực hiện một số nghĩa vụ. Đó là, thứ nhất, bên bị
vi phạm phải đưa ra các bằng chứng về hành vi vi phạm của bên kia là điều
kiện để hủy bỏ HĐTD; thứ hai, bên bị vi phạm phải gia hạn một thời hạn hợp
lý để bên vi phạm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ; thứ ba, bên bị vi phạm phải
thông báo cho bên vi phạm biết về việc hủy bỏ HĐTD, nếu không thông báo
mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Việc hủy bỏ HĐTD sẽ làm phát sinh một số hậu quả pháp lý. Về cơ
bản, đó là các hậu quả sau:
Thứ nhất, hủy bỏ HĐTD giải phóng các bên khỏi những nghĩa vụ được
quy định trong HĐTD. Ngay sau khi HĐTD được hủy bỏ, các bên được giải
thoát khỏi tất cả các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong HĐTD, trừ những khoản
bồi thường mà bên vi phạm phải chịu trách nhiệm (nếu có).
Thứ hai, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được của
nhau. Mỗi bên được yêu cầu hoàn trả những gì mình đã cung cấp, đồng thời
phải hoàn trả cho bên kia những gì mình đã nhận theo nguyên tắc hoàn trả
toàn bộ.
Thứ ba, bên vi phạm HĐTD mà có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại cho
bên kia hoặc nộp phạt nếu HĐTD có quy định phạt vi phạm HĐTD.
Khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Tổ chức
tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát
hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong
HĐTD”. Quy định này có nội dung tương tự với Chế tài đình chỉ thực hiện
hợp đồng tín dụng, hiệu lực của HĐTD chấm dứt và bên bị vi phạm, ở đây là
tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu bên vi phạm là khách hàng vay thực hiện
nghĩa vụ của mình theo HĐTD là trả nợ dù khoản vay chưa đến hạn thanh toán.
38
Để đánh giá rõ hơn về thực trạng quy định của pháp luật về các chế tài
nêu trên, ta có thể thông qua ví dụ sau đây.
Vietcombank Quảng Ngãi đồng ý cấp hạn mức tín dụng 1 tỷ đồng cho
Công ty TNHH TNT theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số
1502/19/HĐTD.QNg ký ngày 15/04/2019, lãi suất cho vay 7,5%/năm, thời
hạn vay cho mỗi khoản giải ngân tối đa là 03 tháng kể từ ngày tiếp theo của
ngày giải ngân vốn vay và được ghi trên giấy nhận nợ, tiền lãi vay trả vào
ngày 26 hàng tháng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là 02 bất động sản là
Quyền sử dụng đất của Giám đốc công ty, tổng giá trị định giá là 1 tỷ 500
triệu đồng.
Trong hợp đồng tín dụng luôn quy đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_trach_nhiem_do_vi_pham_hop_dong_tin_dung_tu_thuc_ti.pdf