Luận văn Tranh chấp về sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch tại Việt Nam

LỜI CAM ĐOAN.i

LỜI CẢM ƠN. ii

MỤC LỤC . iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.v

PHẦN MỞ ĐẦU .1

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP SỞ HỮU TRÍ TUỆ LIÊN

QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH.7

1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu .7

1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu.7

1.1.2. Phân loại nhãn hiệu .8

1.1.3. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu .8

1.1.4. Căn cứ xác lập quyền và thời hạn bảo hộ nhãn hiệu .11

1.2. Bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu .14

1.2.1. Quyền SHCN đối với nhãn hiệu.14

1.2.2. Các biện pháp bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu.15

1.3. Khái quát về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch .19

1.3.1. Khái niệm tranh chấp nhãn hiệu.19

1.3.2. Phân loại tranh chấp .21

1.3.3. Chủ thể trong tranh chấp .21

1.3.4. Đối tượng của tranh chấp .22

1.3.5. Phương thức giải quyết tranh chấp.23

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

SỞ HỮU TRÍ TUỆ LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU.37

TRONG DU LỊCH .37

2.1.Các quy định pháp luật hiện hành về tranh chấp và giải quyết tranh chấp nhãn hiệu

trong du lịch.37

2.1.1. Quy định về tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch .37

2.1.2. Các biện pháp giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch .40

2.1.3. Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch .44

pdf104 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 533 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tranh chấp về sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó, đối với các tranh chấp về nhãn hiệu, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hiện ít được sử dụng. Tại Việt Nam, khi hai DN du lịch có tranh chấp về tên miền “.vn” liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, các DN thường nộp đơn đến Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC). Theo Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet hiện nay, VINNIC chỉ có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính về quy trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký tên miền theo quy tắc đăng ký trước được xét cấp trước cũng như các khiếu nại trong quá trình thu nộp phí duy trì tên miền. Đối với các khiếu nại có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tên miền “.vn” giữa các bên, VNNIC chỉ có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Luật Công nghệ thông tin quy định các hình thức giải quyết tranh chấp cụ thể bao gồm: (1) Thông qua thương lượng, hòa giải; (2) Thông qua trọng tài; (3) Khởi kiện tại tòa án. Việc giải quyết tranh chấp tên miền liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa thông qua trọng tài sẽ giúp các bên chủ động, linh hoạt hơn, bảo mật được thông tin và tiết kiệm thời gian so với giải quyết bằng tòa án. Tuy nhiên, hình thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài cần phải có sự chấp thuận của cả hai bên. Nếu xét tên miền trong mối tương quan với nhãn hiệu thì có thể thấy các đạo luật chưa hoàn toàn thống nhất với nhau trong 42 việc quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước. LSHTT không quy định các phương thức giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng. Trong khi đó, Luật Công nghệ thông tin theo mô hình của một số đạo luật trong lĩnh vực luật tư ở Việt Nam ghi nhận cụ thể tên của các phương thức giải quyết tranh chấp, tuy rằng không đầy đủ như các đạo luật khác ở Việt Nam. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp chính thức và kết quả được thực thi chắc chắn nhất nhưng lại gây ảnh hưởng tới mối quan hệ của các bên tranh chấp. Bởi vậy, xuất hiện nhiều trường hợp lựa chọn con đường hòa giải khi đang trong quá trình tố tụng tại tòa án. Khi đó, các bên có tâm lý tốt hơn vì đã thống nhất ý chí đối với kết quả giải quyết tranh chấp. 2.1.2.3. Đánh giá các phương thức giải quyết tranh chấp bằng cơ quan nhà nước Trước hết, xét một cách tổng thể, giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch bằng các cơ quan nhà nước mang lại một số lợi ích chung cho các đối tượng tranh chấp. Thứ nhất, nhà nước là một thực thể có quyền lực bao quát xã hội và được thực hiện cưỡng chế một cách hợp pháp trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Do đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng cơ quan nhà nước được bảo đảm thi hành nhanh chóng. Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng con đường nhà nước có thủ tục tương đối chặt chẽ, rõ ràng và nếu được thực hiện một cách nghiêm túc có thể đưa ra những phần quyết chính xác, công bằng. Thứ ba, hoạt động lưu giữ hồ sơ vụ việc chắc chắn và lâu dài giúp theo dõi mối quan hệ giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm, bảo vệ quyền của bên bị vi phạm, đảm bảo bên vi phạm thực hiện đúng nghĩa vụ tôn trọng quyền của bên bị vi phạm, ngăn ngừa, triệt tiêu khả năng tái phạm. Thứ tư, nhà nước có đầy đủ các cách thức, phương tiện và công cụ hỗ trợ cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm này, giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước cũng tồn tại những hạn chế như: việc giải quyết tranh chấp thường kéo dài, gây tốn kém vềthời gian và công sức của các bên, gây tâm lý nặng nề đối với các bên; khó đảm bảo bí mật thông tin khi sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước so với phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước bởi nhiều người có thể tham gia vào thủ tục giải quyết cũng như thiếu linh động 43 hơn so với giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước bởi quy trình giải quyết do luật định và trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp phải được tuân thủ chặt chẽ. 2.1.2.4. Đánh giá các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước Hầu hết các nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước được khắc phục trong phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước. Tuy vậy, giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước thiếu đi tính cưỡng chế thi hành nên vẫn phải dựa vào quyền lực công để bảo đảm tính hiệu quả. Dù pháp luật ghi nhận quyền tự do thỏa thuận và tự định đoạt của đương sự nhưng để nhận được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp, hầu hết các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước đều phải được pháp luật thừa nhận dưới các hình thức khác nhau. Với phương thức thương lượng, đây là phương thức giải quyết tranhchấp được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết bằng cách các bên hoặc đại diện của các bên tranh chấp tự động liên hệ để trao đổi, bàn bạc và thỏa thuận với nhau trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm tháo gỡ mâu thuẫn, xung đột khi có tranh chấp xảy ra. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thực chất là việc giải quyết nội bộ, hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có sự can thiệp của bất kỳ cơ quan nhà nước hay người thứ ba nào. Do đó, phương thức giải quyết tranh chấp này có các ưu điểm gồm:Thủ tục giải quyết đơn giản và không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý, giúp hai bên tiết kiệm chi phí, thời gian, tiền bạc và giữ được bí mật, uy tín trong hoạt động kinh doanh. Nhược điểm của phương pháp thương lượng là kết quả giải quyết tranh chấp phải phụ thuộc vào thiện chí hợp tác của các bên và không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc Trong khi đó, đặc điểm của hoà giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập gọi là hoà giải viên, đây chính là điểm khác biệt so với phương thức thương lượng. Hòa giải viên giữ vai trò là trung gian, độc lập để phân tích, tư vấn cho các bên về bản chất của tranh chấp, quy định của pháp luật, hỗ trợ và thậm chí đề xuất cách giải quyết tranh chấp để giúp các bên tìm ra một giải pháp phù hợp nhất mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận nhưng không có quyền xét xử và ra phán quyết mà kết quả phụ thuộc vào 44 sự thỏa thuận của các bên. Do đó, hòa giải sẽ có ưu điểm gồm: thủ tục đơn giản, linh hoạt, các bên hoàn toàn làm chủ quy trình hòa giải cũng như quyết định nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp; tối thiểu hóa chi phí, tính bảo mật cao. Trong khi đó, nhược điểm của phương thức này là: kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của hòa giải viên cũng như quyết định hòa giải chỉ có giá trị như một hợp đồng giữa các bên và không được đảm bảo thi hành bởi các cơ quan có thẩm quyền Phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ngoài nhà nước cuối cùng mà các DN có thể áp dụng là trọng tài. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập do các bên lựa chọn, nhằm chấm dứt xung đột giữa các bên tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên phải thực hiện. Ưu điểm của phương thức trọng tài gồm: thủ tục đơn giản nhưng vẫn bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của các bên đương sự, linh hoạt, chủ động; tính bảo mật cao và tiết kiệm thời gian. Các nhược điểm của phương thức trọng tài gồm chi phí tương đối cao; phán quyết của trọng tài là chung thẩm nhưng không mang tính cưỡng chế nhà nước và việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi dophần lớn vào ý thức tự nguyện của các bên. 2.1.3. Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch 2.1.3.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch Theo pháp luật Việt Nam thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm quyền SHTT, người xâm phạm có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự. Việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp36. Tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm 36Điều 199 Luật SHTT 45 phạm quyền SHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền SHTT37. Về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về quyền SHTT tại Tòa án, theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết các tranh chấp SHTT của Tòa án theo tố tụng dân sự được xác định như sau38: – Nếu tranh chấp SHTT thuần túy là tranh chấp dân sự, thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện; – Nếu tranh chấp SHTT thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng SHTT ở nước ngoài, thuộc quyền của Tòa án cấp tỉnh; – Nếu tranh chấp SHTT giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh39. Trước đây, để phân biệt hai loại tranh chấp này pháp luật đã đưa ra dấu hiệu “mục đích lợi nhuận”. Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã giải thích rõ: “Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS năm 2004 thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì đó là tranh chấp về dân sự quy định tại khoản 4 Điều 25 BLTTDS năm 2004”40. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau mà không có mục đích lợi nhuận thì thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện; tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương41. Đồng thời, Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi 37Điều 202 Luật SHTT 38Khoản 4 Điều 26 và khoản 2 Điều 30 BLTTDS năm 2015 39Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34 BLTTDS năm 2004 40Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. 41Điểm a Khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015 46 nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp đó là tranh chấp về dân sự42. Thực tế cho thấy, hầu hết các hành vi xâm phạm quyền SHTT đều vì mục đích lợi nhuận. Khi thụ lý các vụ án tranh chấp Quyền SHTT, các cấp Tòa án khó xác định rõ ràng được cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận; căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tòa án có thể xác định được bên bị đơn có mục đích lợi nhuận, còn nguyên đơn, không xác định được. Vì vậy, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp Quyền SHTT, có Tòa án xác định vụ án kinh doanh, thương mại; có Tòa xác định vụ án dân sự; nên giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh nhiều trường hợp đẩy thẩm quyền cho nhau; gây khó khăn cho người khởi kiện. Có ý kiến cho rằng: “Nên thống nhất giao các vụ án giải quyết tranh chấp quyền SHTT, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện”43. So với các tranh chấp dân sự nói chung, tranh chấp về quyền SHTT thường phức tạp, nên năng lực của Thẩm phán Tòa án cấp huyện không thể đảm đương được. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự cần có hướng dẫn áp dụng thống nhất tất cả tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau có mục đích lợi nhuận hay không có mục đích lợi nhuận thì đều thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.44 2.1.3.2. Trình tự giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch Hiện nay, phân loại tranh chấp nhãn hiệu, về mặt luật định chỉ được đề cập chi tiết tại Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BVHTT&DL- BKH&CN-BTP ngày 03/04/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT tại Tòa án nhân dân. Theo đó, các tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu được giải quyết tại Tòa án nhân dân được liệt kê gồm45: - Tranh chấp về quyền đăng ký nhãn hiệu 42Khoản 4 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC 43Phan Gia Quý (2016), “Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ” 44 Nguyễn Hải An (2018), “Thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án” 45Khoản 3 Điều 1 Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/04/2008 47 - Tranh chấp về quyền ưu tiên đối với đơn đăng ký nhãn hiệu - Tranh chấp về quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu (bao gồm cả tranh chấp về phần quyền của các đồng chủ sở hữu) - Tranh chấp phát sinh từ các hành vi xâm phạm nhãn hiệu - Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền SHCN, hợp đồng chuyển quyền sừ dụng nhãn hiệu - Tranh chấp về quyển thừa kế, kế thừa quyền SHCN đối với nhãn hiệu - Tranh chấp phát sinh từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh - Các tranh chấp khác về quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Có thể nói, quy định nêu trên mang lại cho cái nhìn tổng thể về các dạng tranh chấp liên quan tới nhãn hiệu có thể xảy ra kể từ thời điểm nộp đơn đăng ký đến quá trình sử dụng nhãn hiệu. Tuy vậy, nếu phân chia như trên thì có thể thấy các tranh chấp 5, 7 là tranh chấp kinh doanh - thương mại còn các tranh chấp theo phân loại 1,2,3,4 và 6 thuộc về tranh chấp dân sự. do luật dân sự và tổ tụng dân sự điều chinh. Trong đó, tranh chấp thừa kế (số 6) đối với nhãn hiệu và tranh chấp giữa các đồng sở hữu nhãn hiệu (số 3) không nên xem là tranh chấp nhãn hiệu và đó chi là tranh chấp dân sự thuần túy. Với các tranh chấp còn lại thì sự phân chia này chưa phản ánh được thực tế của thị trường bởi tranh chấp nhãn hiệu nói chung và tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch nói riêng có tính chất đa dạng và phức tạp. Trên thực tế, không thể phân biệt rạch ròi giữa tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại mà còn bao gồm tranh chấp dân sự - thương mại hỗn hợp. Bên cạnh đó, hành vi vi phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu không chỉ xâm phạm đến quyền lợi của doanh nghiệp, của khách du lịch mà còn ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong thị trường, do đó đây nên được coi là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Phân loại tranh chấp liên quan tới nhãn hiệu trong Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/04/2008 chỉ như là một giải pháp tình thế tránh tranh chấp thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trong tình trạng pháp luật hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn hình thức phân loại tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch theo thời gian, có nghĩa là gồm 2 giai đoạn: trong quá trình xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu và trong quá trình sử dụng nhãn hiệu. Cách phân loại 48 này phù hợp với thực tế cũng như thuận tiện cho quá trình nghiên cứu. Từ đó, có thể phân chia các tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch giữa thành hai loại: - Tranh chấp trong quá trình xác lập quyền SHCN với nhãn hiệu Tranh chấp trong quá trình xác lập quyền đối với nhãn hiệu thường phát sinh khi có nhiều nhãn hiệu trùng hoặc tương tự cùng có đơn yêu cầu bảo hộ, hoặc trên cơ sở có đơn yêu cầu của một bên thứ ba đối với cơ quan đăng ký xác lập quyền SHTT về việc phản đối đơn, chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của một nhãn hiệu khác theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp du lịch đã xuất hiện trên thị trường từ rất lâu, một số doanh nghiệp đã tạo dựng được nhãn hiệu có uy tín nhất định trên thị trường. Tuy nhiên cũng phải xét rằng các nhãn hiệu của các doanh nghiệpdu lịch vẫn chưa thể xét được là nhãn hiệu nổi tiếng để được bảo hộ theo quy định của pháp luật về việc bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Trước đây, các doanh nghiệpdu lịch hầu như chưa có nhận thức đúng về vai trò quan trọng của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói riêng, do đó việc đăng ký văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu của các doanh nghiệp du lịch tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn khá xa lạ. Chỉ đến khi một doanh nghiệp khác đăng ký văn bằng bảo hộ với một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các doanh nghiệp nói trên để lợi dụng uy tín, bán dịch vụ cho khách du lịch, các doanh nghiệpdu lịch mới phản ứng lại và từ đó tranh chấp sẽ xảy ra. Như vậy, tranh chấp trong quá trình xác lập quyền SHCN với nhãn hiệu giữa hai doanh nghiệp du lịch chủ yếu là tranh chấp về việc đăng ký nhãn hiệu, mà một doanh nghiệp sẽ có đơn yêu cầu gửi tới cơ quan đăng ký xác lập quyền SHTT về việc phản đối đơn, chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của một nhãn hiệu khác theo quy định của pháp luật. Các trường hợp tranh chấp về quyền ưu tiên trong quá trình đăng ký nhãn hiệu vẫn có xảy ra nhưng không nhiều và điển hình. Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp du lịch có tên trùng nhau rất nhiều nhưng sự quan tâm của các doanh nghiệpdu lịch đối với đăng ký sở hữu trí tuệ cho nhãn hiệu của mình chưa lớn. Do đó các trường hợp tranh chấp về quyền ưu tiên với đơn nộp đầu tiên (first to file) trong trường hợp có nhiều chủ đơn khác nhau cùng nộp các đơn đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhau cho một sản phẩm hoặc dịch vụ để xác định nhãn hiệu nào sẽ được bảo hộ là khá hiếm gặp. 49 Với các tranh chấp này, trình tự có ý kiến phản đối đơn, chấm dứt hoặc hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của một nhãn hiệu khác sẽ theo quy định tại Điều 122 Luật SHTT, cụ thể như sau: “Kể từ ngày đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp đến trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ đối với đơn đó. Ý kiến phải được lập thành văn bản kèm theo các tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh.” Sau khi nhận được ý kiến của người thứ ba liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ tiến hành xử lý ý kiến của người thứ ba trước khi ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ46 trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của người thứ ba. Cục Sở hữu trí tuệ thông báo về ý kiến đó cho người nộp đơn và ấn định thời hạn tối đa là 01 tháng kể từ ngày ra thông báo để người nộp đơn trả lời bằng văn bản. Sau khi nhận được ý kiến phản hồi của người nộp đơn, nếu xét thấy cần thiết, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo về ý kiến phản hồi cho người thứ ba và ấn định thời hạn tối đa là 01 tháng kể từ ngày ra thông báo để người thứ ba trả lời bằng văn bản về ý kiến phản hồi đó. Cục Sở hữu trí tuệ xử lý ý kiến của người nộp đơn và người thứ ba trên cơ sở chứng cứ, lập luận do các bên cung cấp và tài liệu có trong đơn.Trong trường hợp xét thấy ý kiến của người thứ ba là không có cơ sở, Cục Sở hữu trí tuệ không phải thông báo về ý kiến đó cho người nộp đơn, nhưng phải thông báo cho người thứ ba về việc từ chối xem xét ý kiến, có nêu rõ lý do.Trong trường hợp ý kiến của người thứ ba liên quan đến quyền đăng ký, nếu xét thấy không thể xác định ý kiến của người thứ ba là có cơ sở hay không, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo để người thứ ba nộp đơn cho Toà án giải quyết. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày Cục Sở hữu trí tuệ ra thông báo mà người thứ ba không thông báo cho Cục Sở hữu trí tuệ về việc đã nộp đơn cho Toà án giải quyết thì Cục Sở hữu trí tuệ coi như người thứ ba rút bỏ ý kiến. Nếu Cục Sở hữu trí tuệ được thông báo trong thời hạn như trên của người thứ ba, Cục Sở hữu trí tuệ tạm dừng việc xử lý đơn để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của Toà án. Sau khi nhận được kết quả giải quyết của Toà án việc xử lý đơn sẽ được tiến hành phù hợp với kết quả đóCục Sở hữu trí tuệ tổ chức đối thoại 46điểm 6, mục 1 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN 50 trực tiếp giữa người thứ ba và người nộp đơn để làm rõ hơn vấn đề có ý kiến phản đối nếu xét thấy cần thiết và có yêu cầu của cả hai bên.Thời hạn dành cho người nộp đơn trả lời ý kiến phản đối của người thứ ba không tính vào thời hạn dành cho Cục Sở hữu trí tuệ thực hiện các thủ tục liên quan theo quy định”. - Tranh chấp trong quá trình sử dụng nhãn hiệu Đây là dạng tranh chấp nhãn hiệu xảy ra phổ biến nhất trên thực tế và tính chất cũng phức tạp hơn nhiều so với tranh chấp trong giai đoạn xác lập quyền. Thông thường, tranh chấp trong quá trình sử dụng nhãn hiệu xảy ra khi có sự vi phạm quyền độc quyền được xác lập cho nhãn hiệu đó mà không được sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc bất kỳ bên nhận chuyển giao quyền nào (với điều kiện quyền đó nằm trong phạm vi của hợp đồng chuyển giao). Trong quá trình kinh doanh, các tranh chấp về nhãn hiệu có thể xảy ra giữa các doanh nghiệp du lịch cũng sẽ tương tự với các tranh chấp có thể xảy ra giữa hai bên là doanh nghiệp như trong các ngành khác. Tuy nhiên, tranh chấp điển hình trong quá trình sử dụng nhãn hiệu giữa hai doanh nghiệp du lịch thường làtranh chấp nhằm xác định ai là chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối với nhãn hiệu; Tranh chấp phát sinh từ các hành vi xâm phạm quyền SHCN với nhãn hiệu hoặc tranh chấp phát sinh từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định của Luật SHTT, khi có các dấu hiệu của các hành vi vi phạm trên, chủ sở hữu cần phải thực hiện các bước sau để xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ: Bước 1: Giám định xâm phạm sở hữu trí tuệ Việc giám định hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ rất quan trọng để giúp chủ sở hữu cũng như cơ quan chức năng xác định có hay không có hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ của bên thứ 3 từ đó làm căn cứ để tiến hành một trong các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự để xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.Việc giám định vi phạm sở hữu trí tuệ được thực hiện tại Viện khoa học Sở hữu trí tuệ. Bước 2: Gửi thư cảnh báo tới doanh nghiệp vi phạm Đây được coi là bước xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng tình cảm, 2 bên tự thỏa thuận. Tuy bước này không bắt buộc phải thực hiện, tuy nhiên sau khi có kết luận giám định thì chủ sở hữu nên gửi thư cảnh báo tới chủ thể vi phạm để nhằm mục đích: yêu cầu họ chấm dứt hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ ngay 51 lập tức để dừng lại hành vi vi phạm đồng thời cũng tránh thiệt hại có thể tiếp tục xảy ra. Mặt khác, do ý thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người dân Việt Nam nói chung còn thấp, đa phần đều không tự ý thức hoặc không biết hành vi của mình là vi phạm quyền đối với đối tượng đã được bảo hộ. Ngoài ra bên xâm phạm quyền có thể tự động chấm dứt hành vi xâm phạm sau khi nhận được thư khuyến cáo dẫn đến việc chủ sở hữu sẽ không cần phải tiến hành các biện pháp tiếp theo để xử lý hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ. Bước 3: Áp dụng các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ Trong trường hợp, bên vi phạm không tự động chấm dứt hành vi vi phạm sau khi nhận được thư khuyến cáo từ chủ sở hữu, chủ sở hữu có thể tiến hành nộp yêu cầu xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tới cơ quan chức năng như quản lý thị trường, tòa án, công an kinh tế để yêu cầu cơ quan chức năng tiến hành xử lý và buộc bên xâm phạm khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại 2.2. Nghiên cứu tranh chấp điển hình về SHTT liên quan đến nhãn hiệu trong du lịch giữa hai doanh nghiệp 2.2.1. Tranh chấp nhãn hiệu giữa các công ty du lịch giải quyết bằng biện pháp hành chính 2.2.1.1. Vụ Nguyên đơn – Công ty Cổ phần Fiditour khởi kiện bị đơn – Công ty Cổ phần Lữ hành Fiditour, tranh chấp trong quá trình góp vốn, chuyển giao nhãn hiệu Công ty cổ phần Fiditour (Công ty A) tiền thân là Công ty Thương mại dịch vụ du lịch Tân Định Tp. Hồ Chí Minh, hoạt động kinh doanh chính trong lĩnh vực dịch vụ lữ hành nội địa và quốc tế. Qua 30 năm xây dựng và phát triển (1989 - 2019), hiện nguồn ngân sách nhà nước tại Công ty A là 19,64% do Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn – Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên (Saigontourist) làm chủ đại diện. Công ty này đã đăng ký nhãn hiệu cho nội dung: Fiditour – Chất lượng tiên phong cùng các hình ảnh, tài liệu có liên quan, trong đó có thể kể đến logo Fiditour và tên giao dịch Fiditour với Giấy ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_tranh_chap_ve_so_huu_tri_tue_lien_quan_den_nhan_hie.pdf
Tài liệu liên quan