Luận văn Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO 7

1.1. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với dân 8

1.2. Đường lối trị nước 15

Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 30

2.1. Đối với chính trị 31

2.2. Đối với kinh tế 47

2.3. Đối với đạo đức 56

2.4. Đối với gia đình và giáo dục 62

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM KHAI THÁC NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ LOẠI BỎ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 75

3.1. Giải pháp về nhận thức 75

3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện 80

KẾT LUẬN 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100

 

 

doc103 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5152 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ham muốn địa vị và thực hiện quyền lực đối với người khác. Đây không phải là hành vi đạo đức đơn thuần như một số người quan niệm. Cách làm việc gia trưởng, tác phong gia trưởng ở người cán bộ lãnh đạo, quản lý là hành vi ứng xử chính trị xã hội, do đó ảnh hưởng của nó vượt xa phạm vi quan hệ giữa các cá nhân. Độc đoán chuyên quyền theo lối gia trưởng của cán bộ là sự vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Về mặt nguyên tắc, quyền dân chủ của nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực, phạm vi của đời sống xã hội. Nó bao gồm những hoạt động làm chủ trực tiếp và gián tiếp của mỗi công dân. Làm chủ gián tiếp, làm chủ thông qua đại diện của các tổ chức chính trị xã hội là một tất yếu khách quan, trong đó làm chủ bằng Nhà nước là yếu tố quan trọng. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân thì nhân dân phải thực sự là người kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan và cán bộ nhà nước. Nhưng trên thực tế, trên nhiều lĩnh vực, nhân dân không có quyền kiểm tra, giám sát thật sự. Cán bộ, chính quyền các cấp dường như là người đứng trên nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý dựa vào chức vụ, quyền lực do dân giao cho để hạch sách, gây phiền hà cho dân, thậm chí có nhiều trường hợp cán bộ cậy quyền thế ức hiếp, trù dập người vô tội. Nhân dân không được thực hiện quyền bãi nhiệm của mình khi cán bộ nào đó mắc khuyết điểm. Cán bộ mắc khuyết điểm ít chịu kỷ luật công khai mà chủ yếu là "xử lý nội bộ" rồi chuyển công tác khác, có người còn được đảm nhiệm chức vụ cao hơn... Có thể nói, đó là thứ dân chủ hình thức chứa đựng nhiều bất bình đẳng, áp đặt từ trên xuống, chứa đựng yếu tố đặc quyền đặc lợi, đẳng cấp, gia trưởng. Hạn chế này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức, đánh giá nghiêm túc và đang từng bước khắc phục. - ở người dân: ảnh hưởng của tư tưởng địa vị đẳng cấp không chỉ biểu hiện ở nhận thức và hành động của người cán bộ mà còn biểu hiện trong nhận thức và hành động của người dân. Sau nhiều năm xây dựng CNXH, khái niệm "dân chủ" đã gần gũi hơn với mọi tầng lớp nhân dân. Về cơ bản, người dân đã ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Song trong một bộ phận nhân dân, đặc biệt là người dân ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi mà quan hệ họ hàng, làng xóm và các tập tục cũ vẫn chi phối cuộc sống hàng ngày vẫn còn tư tưởng an phận, dễ chấp nhận hiện tại. Họ dường như vẫn sống theo phân vị trên dưới, đòi hỏi cấp trên thông cảm chứ không sống theo pháp luật, không đấu tranh để tự bảo vệ quyền lợi. Đối với công việc chung, họ im lặng và lảng tránh khó nhọc. Họ tìm cách vun vén, tìm sự yên thân. Con người trở lại thân phận nhỏ bé để ai lo phận nấy, lại chờ đợi vận may, chờ ở trên. Như vậy cần khẳng định rằng. tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia trưởng chưa mất đi. Trái lại khi bắt gặp mặt trái của cơ chế thị trường, nó tiếp tục tồn tại, thậm chí còn phát triển. Đây thực sự là điều đáng lo ngại bởi lẽ nó khó khăn chỉ gây tác động xấu đến nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân ta mà còn cản trở quá trình thực thi dân chủ ở nước ta. Bên cạnh đó tư tưởng "trọng quan" cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ. ở nước ta hiện nay đã có tình trạng phân biệt cán bộ và nhân dân theo kiểu "trọng quan". Tư tưởng này dẫn tới cách làm việc thiếu dân chủ của một bộ phận cán bộ ta như một thói quen khó nhận thấy. Pháp luật được áp dụng nghiêm minh đối với nhân dân, còn đối với cán bộ thì "nhẹ lý nặng tình". Như đã nêu, nhiều cán bộ mắc khuyết điểm, vi phạm pháp luật như tham nhũng, làm thất thoát tài sản xã hội... chỉ bị "xử lý nội bộ" rồi chuyển công tác khác, không chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong nhiều tổ chức, nhiều người chỉ tin, chỉ thích nghe báo cáo của cán bộ mà không tin, không thích nghe ý kiến của dân. Những hiện tượng này kéo dài ở nhiều địa phương làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước, gây nên sự phẫn nộ bất bình của quần chúng nhân dân. Khắc phục tình trạng thiếu dân chủ do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo gây ra không chỉ là yêu cầu của dân chủ hóa sinh hoạt xã hội, mà còn là điều kiện để Đảng và Nhà nước tiếp nhận được những thông tin chính xác, làm cơ sở cho việc đánh giá đội ngũ cán bộ và xây dựng đường lối chính sách đúng đắn. 2.2. Đối với kinh tế Trong vài thập kỷ gần đây, một số nước vốn theo Nho giáo đã có sự phát triển nhanh chóng về các mặt kinh tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật. Nhiều nhà sử học và xã hội học nước ngoài cho rằng, chính Nho giáo đã là nhân tố thúc đẩy sự phát triển ở những nước ấy. Đặc biệt, tại Hội nghị các nhà trí thức Đông á về chủ đề "Sự phát triển kinh tế của vùng Đông á và bối cảnh văn hóa của nó" họp tại Tôkiô tháng 12/1988, các nhà trí thức đã khẳng định vai trò tích cực của Nho giáo đối với sự phát triển kinh tế của khu vực. Ông Kim Nhật Thân, giáo sư trường Đại học Kim Sơn cho rằng: Nho giáo có những nguyên lý tổ chức xã hội. Có thể nói nó là nền văn hóa quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế các nước Đông á phát triển, tức là căn nguyên phát triển kinh tế của khu vực Đông á ở chỗ họ đã cùng bảo tồn được nền văn hóa trật tự mà Nho giáo đã hình thành. Nếu coi nhẹ điều đó thì không thể nào giải thích được nguyên nhân của sự phát triển kinh tế ở các nước Đông á [23, tr. 303]. Từ đó ông nói đến tác động tích cực của Nho giáo đến sự phát triển kinh tế ở những điểm sau: - Coi trọng giáo dục và trình độ giáo dục cao, do đó đã góp phần đào tạo nhân tài. - Có khả năng động viên, nhờ việc cổ động cho luân lý hiếu, trung mà người ta duy trì được trật tự. - Có tác dụng thúc đẩy cách lãnh đạo kinh tế theo kiểu chính phủ, với tư cách là một thể chế tập quyền truyền thống, sử dụng tài năng của các cá nhân, của nhân dân. - Góp phần vào sự củng cố nền văn hóa tập thể, cổ động cho những giá trị đạo đức, theo đó mọi người giúp đỡ lẫn nhau, cùng tồn tại cùng thịnh vượng. - Có một quan niệm về lao động vì dân tộc, vì quốc gia chứ không phải vì cá nhân. Một ý kiến khác, ông Ngưu Kim Chung, giáo sư Viện dân tộc Trung ương Đài Loan cho rằng: Nho giáo ít nhất không gây trở ngại cho việc hiện đại hóa mà thậm chí nó còn có tác dụng tích cực. Nhà nghiên cứu Điền Phú Tang lại nói về tác động tích cực của Nho giáo đối với việc quản lý kinh tế. Ông cho rằng không nên hiểu quản lý chỉ đơn thuần là kiếm lợi nhuận, mà nên hiểu rằng nó là một "chế độ xã hội" và là một phương pháp có liên quan đến các phạm trù "nhân"và nghĩa. Như vậy, các ý kiến trên đều cho rằng, Nho giáo có giá trị tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế đối với các nước Đông á. ở Việt Nam, trong nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo, các nhà nghiên cứu cho rằng Nho giáo, từ Khổng Tử trở đi ít quan tâm đến vấn đề kinh tế, đến lợi ích vật chất mà chỉ tập trung vào những vấn đề chính trị đạo đức. Cố giáo sư Trần Đình Hượu cho rằng, ở Nho giáo, "những vấn đề kinh tế không đặt ra theo góc độ kinh tế mà theo góc độ chính trị xã hội, được giải quyết không theo sách kinh tế mà theo cách đạo đức hành chính" [23, tr 99-100]. Là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức cho nên Nho giáo chủ yếu bàn về vấn đề con người, xã hội mà ít bàn đến kinh tế. Nho giáo bàn đến vấn đề Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà ít bàn đến vấn đề Lợi. Song như vậy không có nghĩa là Nho giáo phủ nhận vai trò của kinh tế; cũng không có nghĩa là đối với kinh tế Nho giáo chỉ hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực. Biện chứng của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải tiếp thu khai thác những giá trị tích cực đồng thời kiên quyết loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đối với quá trình phát triển kinh tế. 2.2.1. ảnh hưởng tích cực Con người với tư cách là nhân tố thúc đẩy kinh tế Mục đích của Nho giáo là nhằm giáo hóa, đào tạo con người, hoàn thiện con người và hoàn thiện xã hội, làm cho xã hội luôn ổn định, thái bình, thịnh trị. Theo Nho giáo, sự hoàn thiện con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện, nguyên nhân của sự hoàn thiện xã hội. Nếu gạt sang một bên những điều kiện lịch sử, xã hội thì phải chăng Nho giáo đã sớm nhận ra vai trò của con người đối với sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tế, văn hóa ổn định phát triển xét cho cùng là do con người, vì con người. Nhịp độ phát triển kinh tế thời kỳ ở một số nước Nhật Bản, Hàn Quốc... bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu nhất, có ý nghĩa quyết định nhất là sự quan tâm đặc biệt tới việc đào tạo con người tới sự ổn định chính trị, xã hội. Trong các văn kiện của Đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề này. Bởi vì, không có sự ổn định về chính trị và xã hội, không quan tâm đào tạo, hoàn thiện con người về các mặt đức, trí, thể , mỹ thì không thể phát triển kinh tế, không thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên đến lượt nó, việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ trở thành động lực trong việc hoàn thiện, hiện đại con người, xã hội; chính trị, xã hội sẽ có cơ sở bền vững hơn. ở nước ta, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh tế nhưng cũng đồng thời tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Để ngăn ngừa những hiệu quả tiêu cực của nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho sự phát triển vật chất không kéo theo sự suy thoái tinh thần, chúng ta cần phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao những phẩm chất đạo đức vốn có trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những phẩm danh đạo đức tối thượng của con người như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí - Tín trong xã hội Nho giáo trước kia cho đến nay vẫn còn ý nghĩa, nếu chúng ta biết kế thừa, chắt lọc. Điều đáng chú ý là đề cao Nhân, Nghĩa trong cuộc sống của con người; nhưng Nho giáo cũng không bỏ qua vấn đề cơm ăn, áo mặc của nhân dân. Bởi nhân dân có đủ ăn đủ mặc thì mới thực hiện được đạo nghĩa đạo Nhân. Chính vì thế Nho giáo khuyên giới cầm quyền tìm mọi cách để giúp dân sản xuất, phải chăm lo đến việc sản xuất của dân. Mạnh Tử từng nói: Nếu vua chẳng làm trái nghịch thời tiết của kẻ làm ruộng, đừng bắt họ làm xâu trong mùa cấy gặt thì thóc lúa ăn chẳng biết. Nếu đừng để cho người ta bủa lưới nhặt trong các bưng hồ thì cá rùa ăn chẳng hết. Nếu đừng để cho lưỡi rìu, cạnh búa đốn phá rừng núi sau lúc sai mùa thì cây cối dùng chẳng hết. Lúa thóc và rùa cá dự ăn, cây cối dư xài, nhân dân nhờ đó mà nuôi dưỡng người sống, mai táng kẻ chết, họ chẳng sầu oán gì nữa. Trong nước mà dân chúng chẳng oán sầu vì họ nuôi người sống được no ấm, chôn người chết được đủ lễ, đó là bước đầu của một nền cai trị thịnh vượng vậy [6, tr. 13]. Nho giáo còn đòi hỏi giai cấp thống trị phải để cho nhân dân có tài sản riêng. Có như vậy dân mới yên tâm làm ăn, đời sống mới no ấm, nhà nước mới có dư thừa. Mạnh Tử nhấn mạnh trách nhiệm của người cầm quyền đối với cuộc sống của nhân dân. Theo ông, người cầm quyền phải đồng cam cộng khổ với nhân dân, không nên có cuộc sống quá chênh lệch so với cuộc sống của dân thường. Đó là điều đáng để các nhà lãnh đạo trong xã hội hiện đại suy ngẫm. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Để đạt được các mục tiêu sau khi kết thúc thời kỳ quá độ, chúng ta không thể không coi trọng ưu tiền phát triển kinh tế. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng để làm cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..." Đó cũng là tiền đề bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội. Muốn vậy, một trong những điều kiện cần thiết là Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Những biện pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước cần phải xuất phát từ con người và vì con người. Bởi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Sản xuất đi đôi với tiết kiệm Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm, sớm đặt ra vấn đề tiết kiệm: "Đạo lớn làm ra của cải là: số người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số người ăn tiêu phung phí ngày càng ít số người làm ra của cải phải mau mắn, siêng năng, những người tiêu dùng phải thư thả, từ từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ" [4, tr. 31]. Khổng Tử còn khuyên vua "tiết dụng nhi ái dân", nghĩa là phải tiêu dùng tiết kiệm mà thương yêu dân. Tuân Tử cho rằng nếu như hết sức làm việc nông, lại tiết kiệm tiêu dùng thì trời chẳng bao giờ làm mình đói. Với lời răn dạy về tiết kiệm ấy của Nho giáo, những người làm quan thanh liêm ngày xưa thường ăn uống đơn sơ, trang phục giản dị, coi vẻ đẹp của con người là sự thanh cao của tâm hồn chứ không phải ở sự xa xỉ trong nhà cửa, áo quần, vật liệu tiêu dùng. Xã hội Việt Nam ngày nay đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần có nhiều yếu tố: tài nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ mới và con người. Trong khi đó đối với nước ta, nguồn tài chính, nguồn lực vật chất còn rất hạn hẹp, thế nhưng "chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển" [12, tr. 63]. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là nước nông nghiệp, lao động nông nghiệp chiếm hơn 70%, đời sống nhân dân ở nhiều vùng nông thôn, các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn rất thấp, GDP bình quân đầu người chưa đến 300 USD/năm nhưng tình trạng tiêu dùng xa hoa, lãng phí diễn ra khá phổ biến cả ở nông thôn và thành thị, trong một số khá đông cán bộ và nhân dân. Đó là điều đáng lo ngại. Vì vậy, "chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để công nghiệp hóa, khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa, lãng phí. Đó là một trong những nhân tố thành công của chúng ta [14, tr. 11]. Tiết kiệm trong điều kiện hiện nay không phải là khuyến khích giảm nhu cầu tối thiểu mà chính là nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người như là tiền đề để phát huy nguồn lực con người - nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, tư tưởng về sản xuất đi đôi với tiết kiệm của Nho giáo cũng như đức tính cần kiệm truyền thống của dân tộc cần phải được kế thừa và đổi mới. Cần kiệm đi đôi với chống tham nhũng và lãng phí, dồn sức đầu tư cho sự phát triển của đất nước trong hiện tại và tương lai. Tóm lại, với cách nhìn biện chứng, chúng ta có thể khai thác giá trị tích cực của Nho giáo đối với sự phát triển kinh tế. Chúng có thể đồng tình với các nhà khoa học Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan... khi họ nêu lên khả năng hòa đồng giữa Phú và Nhân, giữa Nghĩa và Lợi, giữa đạo đức và kinh doanh trong sự phát triển đất nước. Nho giáo gợi mở cho ta suy nghĩ có thể đưa văn hóa vào kinh doanh, hướng kinh doanh không chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng một xã hội hội có văn hóa, xứng đáng với truyền thống dân tộc, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại. 2.2.2. ảnh hưởng tiêu cực Nho giáo - hệ tư tưởng của một xã hội được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chế độ ruộng công với chính sách cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên giờ đây vẫn ảnh hưởng tiêu cực tới suy nghĩ, quan niệm của nhiều người. Với tư tưởng "Trọng nông ức thương", Nho giáo từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo coi thường khoa học kỹ thuật; về mặt phân phối nó khuyến khích chủ nghĩa bình quân. Kinh tế Việt Nam không thể đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở đó của Nho giáo. Dưới chế độ phong kiến, ở nước ta đã có quan hệ tiền tệ và trao đổi hàng hóa ở mức độ nhất định. Nhưng với đặc điểm bảo trì lâu dài của các làng xã, quan hệ hàng hóa tiền tệ đã không phát triển được. Thêm vào đó, các quan điểm bảo thủ, khép kín "trọng nông ức thương" đã kìm hãm sự phát triển có tính chất tự nhiên của sản xuất xã hội. Sau cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta vẫn chưa có nền sản xuất hàng hóa, nền kinh tế vẫn trong tình trạng tự cấp tự túc là chủ yếu. Đó chính là thách thức cơ bản đối với dân tộc ta khi bước vào con đường phát triển hiện đại văn minh. Do những sai lầm chủ quan mang tính giáo điều, kinh nghiệm duy ý chí cùng với ảnh hưởng của tư tưởng "trọng nông ức thương", trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế hàng hóa ở nước ta không phát triển. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp cùng những chính sách xã hội kèm theo nó đã là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa nước ta tới khủng hoảng trầm trọng. Thực tiễn đã giúp Đảng ta nhận thức sâu hơn về CNXH, về con đường đi lên CNXH, vai trò tác dụng của sự phát triển và sử dụng các yếu tố, các khâu trung gian quá độ lên CNXH theo kiểu quá độ gián tiếp mà Lênin đã vạch ra. Nhận thức mới đưa đến chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế - nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới hiện nay. Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín, trì trệ của sản xuất và lưu thông, nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng cũ - tư tưởng "trọng nông ức thương" cùng với tư tưởng cục bộ bản vị (địa phương chủ nghĩa), nhiều địa phương vẫn còn xu hướng biệt lập khép kín trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế, không chú ý đến tính chỉnh thể thống nhất, đến yêu cầu phát triển chung của đất nước. Thực hiện nhiệm vụ tự cân đối các mặt của sản xuất và sinh hoạt của địa phương không có nghĩa là thực hiện tự cung tự cấp, từ bỏ giao lưu kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Do không nhận thức đúng yêu cầu trên, do ảnh hưởng của tư tưởng cũ, cộng với những khó khăn về giao thông, về nguồn vốn, một số địa phương không đưa hàng hóa ra khỏi địa phương mình. Cách làm đó về thực chất là tự cung tự cấp trên bình diện rộng. Vô hình chung dẫn đến hạn chế sự phát triển của sản xuất hàng hóa, làm nghèo nàn nhu cầu của đời sống xã hội. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng "Trọng nông ức thương" còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ và nhân dân, xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội mang tính thống nhất, xóa bỏ tình trạng phân tán, tự cung, tự cấp. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn chịu phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong lĩnh vực phân phối. Chúng ta biết rằng đặc điểm kinh tế nổi bật của xã hội Việt Nam truyền thống là sản xuất nhỏ, đặc biệt là sản xuất nhỏ trong nông nghiệp. Tính chất sản xuất nhỏ và tâm lý người tiểu nông in dấu ấn sâu sắc lên mọi mặt của xã hội Việt Nam cổ truyền và còn ảnh hưởng đến ngày nay. Nói đến sản xuất nhỏ ở Việt Nam chủ yếu là nói đến sản xuất nhỏ trong nông nghiệp với đặc trưng phổ biến là: quyền tư hữu của người tiểu nông với ruộng đất là cơ sở của nền sản xuất xã hội, ruộng đất bị phân chia manh mún, nông cụ ít và thô sơ thiếu sự hợp tác và phân công lao động; nền sản xuất có tính bảo thủ cao, tổ chức sản xuất hàng hóa thấp kém, đời sống vật chất và tinh thần của người dân gựp nhiều khó khăn và chậm được cải thiện. Nền sản xuất nhỏ tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam cùng với ảnh của tư tưởng Nho giáo đã tạo nên tâm lý cục bộ, bản vị, địa phương. Chế độ ruộng công trong điều kiện làng xã Việt Nam đã làm nảy sinh tư tưởng bình quân về nghĩa vụ và quyền lợi. Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tư tưởng bình quân đã trở thành lực cản lớn trong quá trình phát triển kinh tế cũng như các mặt khác của đời sống xã hội. Cách làm kinh tế theo giờ hành chính một cách máy móc ở các hợp tác xã nông nghiệp, các nông trường quốc doanh của miền Bắc trước đây với hình thức phân phối bình quân đã dẫn đến tình trạng người lao động thờ ơ với công việc và kết quả lao động của mình. Tâm lý ỷ lại vào tập thể, dựa dẫm, cung cách lao động "được chăng hay chớ", "cơm vua ngày trời", "đi làm theo kẻng, ăn chia theo định xuất", "chân ngoài dài hơn chân trong" trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các hình thức phân phối trong thời kỳ này cũng rất đa dạng: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn đầu tư, phân phối thông qua phúc lợi tập thể... Tuy nhiên, tình trạng bình quân trong phân phối vẫn còn tồn tại, biểu hiện rõ nét nhất ở khối hành chính sự nghiệp. Tiền lương nhìn chung chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao. Sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đòi hỏi phải khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó của Nho giáo. 2.3. Đối với đạo đức 2.3.1. ảnh hưởng tích cực Tu thân và vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức cho nên vấn đề tu thân được đặt lên hàng đầu: Từ Thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Đó cũng là bài học mà chúng ta không thể bỏ qua. Trên thực tế, nhiều nước châu á như Nhật Bản, Hàn Quốc... đã khai thác triết lý tu thân của Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị xã hội, nhất là trong thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước. Các nước này không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi người trong việc tu thân mà còn quy định trách nhiệm của mỗi gia đình, trường học, xã hội đối với việc tu thân. Tại những nước này, những nét đẹp truyền thống đã được duy trì, những mối quan hệ giữa người với người trong gia đình và xã hội đã được củng cố. ở nước ta, công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu của nó. Sau 16 năm nhìn lại, chúng ta có quyền tự hào về những chuyển biến đáng kể trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên những thành tựu của sự nghiệp đổi mới chỉ là bước đầu. Vẫn còn muôn ngàn khó khăn, thử thách đòi hỏi mỗi chúng ta phải nâng cao thêm niềm tin, ý chí cách mạng, không ngừng tu dưỡng trau dồi đạo đức cách mạng. Chúng ta thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường phát triển đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đem lại bộ mặt mới cho xã hội, nhưng cũng phải thừa nhận mặt trái của kinh tế thị trường đang tạo ra những xáo trộn về mặt đạo đức xã hội. Chúng ta đã bắt đầu chứng kiến những suy thoái đạo đức trong cả quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Điều đáng lo ngại là sự suy thoái phẩm chất đạo đức ở một số cán bộ đảng viên đang làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Trong điều kiện đó, thiết nghĩ chúng ta nên lấy triết lý tu thân của Nho giáo làm bài học, để rồi từ đó chắt lọc, kế thừa giá trị tích cực của nó. Chúng ta tiếp thu tư tưởng Nho giáo về tu thân, đặt nhiệm vụ tu thân lên hàng đầu, huy động các lực lượng gia đình, xã hội và cá nhân đẩy mạnh tu thân, nhưng không phải tu thân theo tinh thần đạo đức cũ - Đạo đức Khổng giáo - mà tu thân theo tinh thần đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đây là những khái niệm mang nội dung mới với những giá trị đạo đức cơ bản nhất của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những Đức, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và cải biến thành "Ngũ thường" của Việt Nam như thế. Người giải nghĩa: Nhân: là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.Vì thế mà sẵn lòng cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người không ham, không e, không sợ gì thì việc gì làm việc phải họ đều làm được. Nghĩa: là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao việc thì dù bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn. Trí: Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng cho nên đầu óc sáng suốt. Dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian. Dũng: là dũng cảm gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát. Liêm: là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng. Không tham người ta tâng bốc mình.Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham đọc, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng [34, tr. 35]. Hồ Chí Minh còn chỉ ra cốt lõi của đạo đức cách mạng gồm bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích như sau: Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí... Liêm là trong sạch, không tham lam... Tham tiền, tham địa vị, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm. Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn tức là tà [33, tr. 632-636]. Như vậy, cũng là tu thân nhưng chúng ta tu thân theo nội dung của đạo đức cách mạng đã được Hồ Chí Minh đề cập. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng đạo đức Nho giáo, việc sử dụng những từ ngữ vốn quen thuộc của Nho giáo để đưa vào n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.doc
  • docMUCLUC.doc