Luận văn Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 5

1.1. Khái niệm nguồn lực con người 5

1.1.1. Định nghĩa nguồn lực con người 5

1.1.2. Cấu trúc nguồn lực con người 10

1.1.3 Những nhân tố tác động nguồn lực con người 16

1.2. Vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 21

1.2.1. Con người - nguồn lực của mọi nguồn lực 21

1.2.2. Khơi dậy nguồn lực con người trong nông nghiệp - cơ sở, tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp 27

1.2.3. Khơi dậy nguồn lực con người tạo động lực cho sự phát triển văn hóa - xã hội và phát triển của chính con người 32

1.3. Thực trạng việc phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang - vấn đề đặt ra 35

1.3.1. Đặc điểm chung về dân số và việc phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang 35

1.3.2. Những vấn đề đặt ra, nhằm phát huy nguồn lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 47

Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở KIÊN GIANG TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 51

2.1. Phương hướng phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 51

2.1.1. Khơi dậy nguồn lực con người thông qua động lực lợi ích 51

2.1.2. Quy hoạch việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ dựa trên chiến lược phát triển kinh tế của Kiên Giang 55

2.1.3. Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người hiện có 57

2.2. Giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 64

2.2.1. Đổi mới cơ chế chính sách theo hướng phát huy tối đa nguồn lực con người 64

2.2.2. Đổi mới công tác giáo dục - đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng 72

KẾT LUẬN 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

PHỤ LỤC 92

 

 

 

 

doc91 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật sản xuất, giáo dục xây dựng cung cách làm ăn mới và có ý thức tiết kiệm, khắc phục tập quán sản xuất, sinh hoạt lạc hậu... đi đôi đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, từ đó giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, giảm bớt dần hộ nghèo từ 14,49% năm 1997, xuống còn 10,1% năm 2000 (theo điều tra Cục thống kê tỉnh Kiên Giang 6 tháng đầu năm 2000). Một điểm đáng lưu ý là trong những năm qua, nhờ chủ trương khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, nên các ngành kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút được một số lượng khá lớn lao động vào làm việc. Nếu năm 1995 khu vực này chỉ có 592.469 lao động, thì đến năm 1999 đã tăng lên 701.432 [xem phụ lục 4]. Điều này chứng tỏ rằng kinh tế ngoài quốc doanh trong thời kỳ chuyển đổi đã giữ vai trò rất quan trọng trên thị trường lao động, góp phần giảm bớt sự căng thẳng quan hệ cung cầu lao động trong thời gian vừa qua. Nhìn chung trong thời gian qua, do tác động của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nên mặc dù giá trị sản lượng công nghiệp luôn tăng cao (cao hơn nhịp độ chung của nền kinh tế) nhưng lao động trong công nghiệp không tăng nhiều [phụ lục 4]. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình CNH, HĐH, lĩnh vực công nghiệp không phải là nơi thu hút nhiều lao động mà là lĩnh vực thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng cao hơn. Vì vậy số lượng lao động trong công nghiệp không tăng bao nhiêu, cũng là điều tất yếu trong CNH, HĐH. Khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, theo kết quả điều tra lao động việc làm tỉnh Kiên Giang năm 1995 có 492 ngàn lao động, tăng lên 582 ngàn năm 1999 [xem phụ lục 5]. Những năm gần đây, cùng với sự đổi mới chung của nền kinh tế, nông nghiệp nông thôn của tỉnh có bước phát triển mạnh mẽ, qua đó tác dụng tích cực đến giải quyết việc làm cho người lao động. Để tạo việc làm và tăng thêm thời gian lao động ở nông thôn tỉnh đã chú trọng phát triển các ngành nghề ngoài nông nghiệp. Có thể coi đây là bước phát triển đáng mừng cho nông nghiệp, nông thôn trong tình hình hiện nay ở Kiên Giang. Tuy nhiên, đánh giá chung thì nông nghiệp và nông thôn vẫn đang đứng trước những thách thức rất lớn để giải quyết việc làm, sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người hiện có. Ngoài ra còn phải giải quyết tạo thêm chỗ làm mới cho 33 ngàn lao động tăng thêm hàng năm. Đây thật sự là thách thức rất lớn không chỉ đối với nông thôn, mà còn đối với toàn tỉnh Kiên Giang. Bằng những phương thức có tính sáng tạo, huy động từ nhiều nguồn vốn tập trung đầu tư để thu hút được nhiều nguồn lao động vào những công trình, trong đó có những công trình mới có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt và có tính chất lâu dài như: Trung tâm Thương mại Rạch Giá với vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng hoàn toàn bằng nguồn vốn của nhân dân, đã hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1998, có hiệu quả về phát triển kinh tế, giải quyết việc làm trong xã hội. Đặc biệt dự án lấn biển, xây dựng khu đô thị mới, mở rộng thị xã Rạch giá (1999 - 2005). Đây là dự án hết sức táo bạo của lãnh đạo tỉnh, chủ chốt là Ban thường vụ, ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang. Qua nhiều năm suy nghĩ, trăn trở làm sao để giải quyết hiện trạng thị xã Rạch Giá kết cấu hạ tầng thấp, thị xã nhỏ hẹp, mật độ dân cư quá đông, thiếu khu vui chơi, giải trí bởi sự khống chế của kênh Rạch giá - Hà Tiên, ba bên, bốn phía đều sông và biển. Vấn đề đặt ra là mở rộng theo hướng nào? Nếu mở về hướng Đông thì việc thực hiện sẽ hết sức tốn kém, nhất là công tác giải tỏa, đền bù. Đồng thời việc sử dụng đất nông nghiệp phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng là không phù hợp với chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Nếu mở hướng Tây thì là biển. Theo chỉ đạo của UBND tỉnh Kiên Giang, các nhà kỹ sư tiến hành thăm dò đê biển và quyết định mở ra hướng Tây là hợp lý và mang tính khả thi cao, với ba lý do: Một là, không đụng đến đất đai và nhà ở của nhân dân. Hai là, bãi biển bồi rất cạn, do vậy, chi phí tạo mặt bằng ít tốn kém. Ba là, tạo ra dáng vẻ, bộ mặt của một đô thị biển, sẽ thu hút các nhà đầu tư để phát triển các ngành khác. Ngoài ra Kiên Giang là một tỉnh tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, phía Bắc giáp với ranh giới Campuchia, phía Tây giáp với Vịnh Thái Lan. Do vậy, việc mở rộng thị xã ra phía biển sẽ tạo ra một vành đai phòng thủ vững chắc, với một tầm nhìn bao quát mặt biển về phía Tây (Vịnh Thái Lan). Do đó, về mặt chiến lược an ninh quốc phòng rất quan trọng khi dự án được mở ra. Dự án lấn biển là một dự án có quy mô lớn và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với địa bàn chật hẹp của thị xã như hiện nay, việc bố trí dân cư, hệ thống giao thông, các khu vui chơi giải trí, các khu du lịch và các công trình khác hết sức khó khăn và phức tạp. Do đó, việc mở rộng thêm diện tích thị xã về phía biển trở nên hết sức cần thiết cho việc bố trí lại dân cư, hệ thống giao thông, các khu du lịch, các công trình phúc lợi công cộng trên địa bàn thị xã. Dự án lấn biển mở ra, tạo mỹ quan cho đô thị, đồng thời thu hút hàng ngàn lao động, góp phần thực hiện tốt chính sách của tỉnh về giải quyết việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp một cách đáng kể. Đó là sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Thực tiễn cũng như kinh nghiệm các quốc gia thực hiện thành công CNH, HĐH đã khẳng định rằng: Có được nguồn lực con người đào tạo tốt về chuyên môn kỹ thuật cùng với việc phát huy có hiệu quả đội ngũ nguồn lực đó sẽ là nhân tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng. Điều này, chứng minh rằng: Công nghệ dù có lạc hậu, vốn dù có thiếu, đất nước ta nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng, vẫn có thể có được CNH, HĐH bằng con đường "nhập", "vay", nhưng nguồn lực con người thì không thể thay thế bằng con đường nhập khẩu. Đó là nguồn nội lực quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH. Để tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực, Kiên Giang rất chú trọng đến công tác giáo dục - đào tạo, và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề. Về công tác giáo dục - đào tạo: Hàng năm, tỷ lệ ngân sách của tỉnh đầu tư cho giáo dục chiếm 26% tổng chi. Riêng năm 1997 chiếm 28,2%, trong khi cả nước mới 20%. Năm 1999, toàn tỉnh có 348.696 học sinh phổ thông các cấp (năm 1995 có 297.057 em; đến năm 1998 có 333.581 em) với 12.844 giáo viên các cấp. Huy động học sinh từ 6-10 tuổi đạt 92,32%. Đặc biệt cuối năm 1999, Kiên Giang được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là tỉnh hoàn thành công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đó là sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục luôn được quan tâm và được coi là một trọng tâm nhằm làm chuyển biến chất lượng giáo dục - đào tạo. Đi đôi với việc đẩy mạnh đào tạo tại tỉnh, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân, đối với một số huyện vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, có chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút giáo viên (kể cả nơi khác) về giảng dạy, nhằm nâng cao mặt bằng trình độ dân trí trong tỉnh. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ (KHCN), nhằm tăng cường tiềm lực cho CNH, HĐH cũng được chú trọng. Từ năm 1995 đến nay, tỉnh Kiên Giang đã đổi mới cơ chế, chính sách đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ KHCN. Đến nay theo số liệu điều tra tiềm lực KHCN (bổ sung năm 2000), toàn tỉnh có 8.181 (năm 1996 có 5.135) cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên, trong đó có 14 tiến sĩ, 112 thạc sĩ (thuộc các lĩnh vực: Nông - lâm - thủy sản; KHKT; KHTN; KHXH-NV), 38 bác sĩ chuyên khoa cấp I và 8.055 là cao đẳng đại học, chiếm tỷ lệ 54,5/ vạn dân (năm 1996 có 11,7/ vạn dân) trong đó 469 bác sĩ, chiếm tỷ lệ 3/ vạn dân. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 18% (năm 1996: 24,2%). Ngoài ra, có 12.796 trình độ trung học chuyên nghiệp và 23.691 công nhân kỹ thuật. Toàn bộ đội ngũ trên, mặc dù chiếm tỷ lệ không lớn so với toàn bộ nguồn lực con người Kiên Giang (5,4%). Song, đây là bộ phận đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế trong những năm qua. Trên nhiều lĩnh vực, lao động khoa học kỹ thuật đã tiếp cận được trình độ khoa học tiên tiến trên thế giới và có khả năng vận dụng, sáng tạo vào điều kiện cụ thể tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang. Tiềm năng trí tuệ, chất xám bước đầu được chú trọng, khai thác, phát huy và sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Nhiều người đã phát huy được tài năng, lao động sáng tạo, với năng suất cao và có những cống hiến quan trọng vào thành tựu chung của tỉnh. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở Kiên Giang. Điều này thể hiện ở chỗ: - Kiên Giang là một tỉnh có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ khỏe, hùng hậu. Đây là một lực lượng đã và đang rất cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất lượng của nguồn lực con người rất thấp, lao động phổ thông chiếm 94,6%. Nguồn cung về số lượng lao động hiện nay là rất lớn và có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Trong khi đó, nhu cầu thu hút và sử dụng còn hạn hẹp, quy mô và tốc độ tăng trưởng không tương xứng với nhau đã làm cho quan hệ cung cầu về lao động ngày càng mất cân đối, dẫn đến sức ép về giải quyết việc làm ngày càng tăng. Nguồn lực con người trong CNH, HĐH đang đòi hỏi lao động lành nghề, lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Trong khi nhu cầu về công nhân kỹ thuật của thời kỳ công nghiệp hóa ngày một đòi hỏi nhiều, thì đến nay đào tạo nghề vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống quốc dân. Hậu quả là nền kinh tế hiện đang thiếu trầm trọng công nhân lành nghề và lao động kỹ thuật. Tình hình này dẫn đến thực trạng hiện nay là: trong khi hàng ngàn người không tìm được việc làm, thì một số ngành nghề và rất nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đang thiếu lao động kỹ thuật, lao động có chuyên môn và phù hợp với yêu cầu sản xuất. Tình trạng "vừa thừa vừa thiếu" đó chủ yếu do sự bố trí không hợp lý các nguồn lực cho phát triển, sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo, trình độ học vấn và nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, trong nền sản xuất xã hội hiện nay. Đơn cử như nhà máy xi măng Sao Mai cần tuyển dụng 50 lao động có tay nghề, nhưng qua thời gian dài thông báo và giới thiệu, nhà máy không tuyển dụng được một lao động nào. Điều đó cho thấy, trong rất nhiều việc cần phải làm thì điều chỉnh cơ cấu đào tạo lao động cho phù hợp với nhu cầu sử dụng là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Điều đáng lo ngại đến mức báo động là: trong xã hội nói chung, ở Kiên Giang nói riêng đang tồn tại một tâm lý khá phổ biến và nặng nề, coi đại học là con đường duy nhất tiến thân: "Phi đại học bất thành nhân". Đa số học sinh muốn ngồi bàn giấy, học để "thoát ly lao động chân tay". Điều này thật nguy hại và nó đi ngược lại với nguyên lý giáo dục của Đảng ta. Rõ ràng một vấn đề bức xúc đặt ra trong tình hình hiện nay là, phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông; phải tạo ra luồng liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề. - Không chú trọng đến hiệu quả sử dụng mà nặng về số lượng. Chính sách sử dụng dựa trên quan điểm "sử dụng hết nguồn lao động xã hội" đã dẫn đến tình trạng tuyển dụng ồ ạt không tính đến nhu cầu và khả năng của sản xuất. Một điểm đáng nói nữa là tình trạng sử dụng nguồn lực con người có trình độ chuyên môn - kỹ thuật không đúng với ngành nghề được đào tạo, sử dụng không đúng với khả năng hoặc dưới khả năng đã được đào tạo. Đó chính là do cấu trúc nguồn lực con người đã qua đào tạo không hợp lý giữa các bậc đào tạo, nên tình trạng thiếu lao động lành nghề, thiếu công nhân kỹ thuật bậc cao là tất yếu. Đó là do chúng ta chưa nắm bắt được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đối với việc sử dụng và phát huy nguồn lực con người đã qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật trong thời gian qua ở Kiên Giang còn nhiều hạn chế. Ngoài việc phân bố và sử dụng chưa hợp lý giữa các vùng, các ngành, các lĩnh vực... của nền kinh tế tỉnh, cán bộ khoa học công nghệ chủ yếu tập trung ở các ngành cấp tỉnh và thị xã Rạch Giá, tình hình khai thác và phát huy nguồn tiềm năng này đang bộc lộ những mặt hạn chế rất cơ bản, mà quan trọng nhất là chưa phát huy được tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này, chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy hết tài năng, sử dụng có hiệu quả cán bộ khoa học kỹ thuật. Tình trạng "lãng phí chất xám" dưới nhiều hình thức khác nhau đang tồn tại khá phổ biến ở Kiên Giang hiện nay nói riêng, cả nước nói chung. Trí tuệ - đó là yếu tố quan trọng nhất của nguồn lực con người. Do đó, lãng phí chất xám là lãng phí nghiêm trọng nhất. Chẳng hạn có một bộ phận không nhỏ trí thức có thu nhập quá thấp không đủ đảm bảo cuộc sống đã ảnh hưởng đến khả năng hoặc chất lượng làm việc. Trong nhiều trường hợp, lao động giản đơn hoặc lao động chân tay lại có thu nhập cao hơn lao động phức tạp và sáng tạo của tri thức. Đơn cử như người có trình độ học vấn cao, có chức vụ, công tác trong các cơ quan Đảng, là nơi nghiên cứu, hoạch định nghị quyết, chủ trương, đường lối chung của tỉnh nhưng thu nhập không bằng nhân viên trong các ngành kinh tế. Hoặc chẳng hạn, như người thầy giáo, cán bộ nghiên cứu khoa học, lại có thu nhập thấp hơn một nhân viên phục vụ ở các ngành kinh tế hoặc công ty liên doanh. Điều kiện làm việc không có, động lực làm việc cũng không, từ đó nhiều người phải đi làm thêm ngoài chuyên môn, thậm chí phải bỏ nghề để đi làm những dịch vụ đơn giản. Những kiến thức được đào tạo ít có điều kiện sử dụng, sự mai một là điều khó tránh khỏi. "Hao mòn hữu hình và vô hình" của lao động trí tuệ đang làm chúng ta mất đi một nguồn tài sản quý giá trong cơ chế thị trường hiện nay. - Chính sách thu hút và phát huy nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật hiện còn nhiều bất cập. Đến nay Nhà nước nói chung vẫn chưa có chính sách thực sự rõ ràng trong việc quy định chế độ trọng dụng và đãi ngộ những người có trình độ học vấn cao. Chẳng hạn một tiến sĩ, có trình độ chuyên môn cao, có công trình khoa học quan trọng cấp Nhà nước, nhiều năm giảng dạy, nhưng bậc lương chỉ bằng cô kế toán của một đơn vị kinh tế. Các chính sách còn bình quân chủ nghĩa nên còn rất nhiều bất hợp lý. Nhìn ra các nước, những chuyên gia giỏi sau 25 - 30 năm công tác, thường được xếp bậc trên cùng của thang lương nghề nghiệp. Nhưng ở Việt Nam, vị trí cao nhất trong thang lương nghề nghiệp hầu như dành cho người có chức vụ. Do vậy, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý để cho đội ngũ làm công tác khoa học sống bằng khoa học một cách tự tin hơn. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra nhằm phát huy nguồn lực con người trong CNH, HĐH Từ những nội dung đã trình bày, cần khẳng định: Đổi mới đã đem lại kết quả tích cực trong việc khai thác và phát huy ngày một đầy đủ và có hiệu quả hơn vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, nguồn lực con người - người lao động đang được thu hút ngày càng đông đảo hơn vào các hoạt động lao động sản xuất cũng như các dịch vụ việc làm khác. Sự thay đổi quan điểm, nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm đã thúc đẩy người lao động chủ động, linh hoạt, sáng tạo tự tìm việc làm cho mình và tạo việc làm cho người khác, không ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như trước đây nữa. Số lượng lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh đã tăng khá cao (trình bày 1.3.1). Trong nông thôn, các ngành nghề ngoài nông nghiệp, các làng nghề truyền thống được phát triển và khôi phục trở lại đã thu hút phần lớn lao động dư thừa trong vùng. Những chuyển biến tích cực về lao động, việc làm như trên, một mặt cho phép sử dụng đầy đủ hơn tiềm năng nhân lực. Mặt khác, góp phần tích cực làm giảm bớt sức ép về việc làm ngày càng lớn hiện nay ở Kiên Giang. Cùng với việc thu hút rộng rãi người lao động sản xuất, hiệu quả sử dụng tiềm năng nguồn lực con người cũng ngày càng được chú trọng hơn. Cơ chế sử dụng nguồn lực gắn với quan hệ thị trường, đã buộc người lao động và người sử dụng lao động, phải luôn luôn tìm cách sử dụng có hiệu quả hơn, chất lượng cao hơn. Những hình thức, biện pháp động viên người lao động đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển được chú trọng tìm kiếm và áp dụng. Về phía người lao động, để đảm bảo có việc làm và thu nhập ổn định đã biết tự thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của bản thân. Đặc biệt là những lao động trẻ, khi được tuyển vào làm việc ở các thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường đã tự thường xuyên học tập, bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng chuyên môn và học thêm kỹ năng khác như tin học, ngoại ngữ... Quá trình đó đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực con người cũng như sự đóng góp của nhân tố con người vào mục tiêu phát triển chung. Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách về sử dụng lao động - đặc biệt với đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật. Nhờ đó tiềm năng trí tuệ của nhân tố con người Việt Nam cũng như con người Kiên Giang bước đầu được phát huy và có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của Kiên Giang. Tiềm năng trí tuệ được biểu hiện đầy đủ nhất ở tiềm lực khoa học công nghệ. Trong những năm qua, khoa học công nghệ đã góp phần đáng kể tạo ra khả năng an toàn về lương thực và có xuất khẩu, đảm bảo hàng hóa tiêu dùng và tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra một lực lượng sản xuất, trước hết là lao động kỹ thuật, từng bước làm chủ công nghệ hiện đại. Cùng với khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc xây dựng hệ thống chiến lược CNH, HĐH Kiên Giang, nhằm bảo đảm cho các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các dự án đầu tư có căn cứ khoa học, đem lại hiệu quả kinh tế. Khoa học nói chung, cũng đã kịp thời đánh thức dư luận xã hội về nguy cơ suy thoái về môi trường, tạo nên trào lưu mạnh về phát triển bền vững. Những kết qủa nghiên cứu, điều tra cơ bản là cơ sở khoa học để giúp Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh hoạch định đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đó là những đóng góp hết sức quan trọng của nguồn lực trí tuệ con người Kiên Giang. Tuy nhiên, trước yêu cầu sử dụng nguồn lực con người với tư cách là nguồn lực cơ bản nhất để CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang, việc phát huy tiềm năng này vẫn còn nhiều mặt hạn chế. - Xét về mặt thu hút và sử dụng, tỉnh Kiên Giang vẫn còn chưa sử dụng hết tiềm năng nguồn lực con người. Tỷ lệ thất nghiệp và chưa có việc làm, làm việc cầm chừng, không có hiệu quả khá phổ biến. Đây có thể coi là sự lãng phí rất lớn về nguồn lực. Mặt khác, nó cũng cho thấy tính bức xúc và gay cấn trước yêu cầu giải quyết việc làm. - Đánh giá dưới góc độ hiệu quả phát huy, chúng ta còn chưa khai thác và phát huy được hết tiềm năng trí tuệ của nguồn lực con người. Đây là một vấn đề thách thức rất lớn là làm thế nào để phát huy tiềm năng trí tuệ cho mục tiêu CNH, HĐH tỉnh nhà, bởi đây là vấn đề cơ bản nhất của việc phát huy nguồn nhân lực cho CNH, HĐH. Để có thể đưa ra giải pháp nhằm phát huy được nguồn tiềm năng quan trọng và có "trữ lượng vô hạn" này cần đi vào phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Có thể nêu ra rất nhiều nguyên nhân nhưng chúng tôi cho rằng, điều quan trọng nhất là Nhà nước nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng, chưa tạo ra được môi trường lao động thuận lợi, phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mỗi cá nhân để họ có thể phát huy cao độ nhất năng lực cống hiến cho xã hội. Mặc dù Nhà nước cũng như địa phương đã có rất nhiều cố gắng xây dựng một môi trường thuận lợi cho việc phát huy tiềm năng trí tuệ nhưng giữa đòi hỏi thực tiễn và những nỗ lực chung vẫn còn khoảng cách khá xa. Các yếu tố vật chất và tinh thần với tư cách là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo vẫn chưa được triển khai và áp dụng đầy đủ. Vì vậy, một vấn đề đặt ra trong sử dụng và phát huy nguồn lực con người là chúng ta cần phải tác động vào đâu và tác động như thế nào đến các yếu tố kinh tế, chính trị, tâm lý - xã hội... để khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực, sáng tạo của người lao động? Câu hỏi lớn đó đã và vẫn đang tiếp tục đòi hỏi, phải tìm kiếm lời giải đáp. - Bên cạnh yếu tố môi trường không thuận lợi, cũng cần phải tính tới một yếu tố có ảnh hưởng đến động cơ, thái độ làm việc của người lao động, là ảnh hưởng của cơ chế bao cấp. Mặc dù cơ chế bao cấp đã được xóa bỏ từ lâu, song, tác phong làm việc thụ động, trung bình chủ nghĩa, ít tính toán đến hiệu quả... vẫn còn "rơi rớt lại theo quán tính" của nó ở không ít người lao động. Chúng ta có thể xóa bỏ nhanh hơn các yếu tố tâm lý tiêu cực trên, đẩy nhanh việc hình thành các yếu tố tâm lý tích cực như năng động, sáng tạo, có ý thức kỷ luật cao, chú trọng hiệu quả làm việc... Nếu động viên và tạo điều kiện để mỗi cá nhân tự nỗ lực, phấn đấu, nếu có sự quản lý, tuyên truyền giáo dục thường xuyên và tích cực về vấn đề này. - Một vấn đề khác đang đặt ra trước yêu cầu sử dụng và phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang là làm thế nào thu hút và phát huy hết nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật vào các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh. Nguồn lực con người hiện đang được duy trì và sử dụng rất bất hợp lý giữa các ngành, các vùng của nền kinh tế đã và đang gây ra những hậu quả xấu cho quá trình phát triển, làm sâu sắc thêm sự chênh lệch giữa các vùng, các ngành. Tình hình này đang đi ngược mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tỉnh Kiên Giang. Không thể duy trì và kéo dài mãi tình trạng đó nhưng giải pháp nào cho việc thu hút lao động có tri thức đến các vùng nông thôn? Vấn đề này cần phải được giải quyết với tư cách là một nội dung quan trọng của việc phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH. Từ những vấn đề đang được đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết như đã nêu trên có thể thấy rằng, những yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc của việc phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang hiện nay là: Sử dụng hợp lý và phát huy có hiệu quả lực lượng dồi dào, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy những yếu tố tinh thần gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Thực hiện được những yêu cầu trên, tỉnh Kiên Giang mới có thể biến tiềm năng thành sức mạnh để phát huy nguồn lực con người trong CNH, HĐH một cách có hiệu quả nhất. Chương 2 Phương hướng và giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.1. Phương hướng phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.1.1. Khơi dậy nguồn lực con người thông qua động lực lợi ích Cơ chế bao cấp cùng với chế độ phân phối mang nặng tính bình quân chủ nghĩa đã mất đi động lực khơi dậy, kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người. Thay vào đó là tâm lý trông chờ, thụ động và thái độ thiếu nhiệt tình trong công việc. Đây là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Cơ chế bao cấp ngày nay đã được xóa bỏ, song tác phong làm việc thụ động, trung bình chủ nghĩa, ít chú trọng đến hiệu quả... đã thấm sâu vào đời sống tâm lý của nhiều người lao động nói chung, ở Kiên Giang nói riêng. Điều này đã trở thành thói quen, trong tác phong làm việc hàng ngày của nhiều người trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Điều đó cho thấy, vấn đề hết sức cấp bách hiện nay là phải khơi dậy và tạo ra được thái độ làm việc tích cực của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội để có thể nhanh chóng khắc phục tình trạng lãng phí tiềm năng nguồn lực con người ở Kiên Giang nói riêng, cả nước nói chung. Vấn đề đặt ra là, trong điều kiện hiện nay ta phải tác động vào đâu để khơi dậy nguồn lực con người, khơi dậy tính tích cực của người lao động. Trả lời câu hỏi này không đơn giản, bởi đây là vấn đề hết sức phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, tâm lý - xã hội và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi xin đề cập đến một vấn đề mang tính định hướng cơ bản trong tình hình mới hiện nay. Đó là việc phải căn cứ vào những thay đổi trong định hướng giá trị chủ yếu, những xu thế hình thành nhân cách và lối tư duy mới dưới tác động của quá trình đổi mới và mở cửa, để đưa ra các biện pháp, chính sách động viên có hiệu quả tính tích cực - sáng tạo của người lao động. Định hướng đó là: có trình độ học vấn cao; sống có nghĩa tình; có khả năng tổ chức quản lý công việc, làm việc tận tâm, có trách nhiệm; sáng tạo trong học tập và công tác. Rõ ràng, trong tình hình mới hiện nay, mỗi cá nhân đều có ý thức rất rõ sự cần thiết phải vươn lên, khẳng định mình để tồn tại và phát triển. Những định hướng trên cho thấy, xu hướng hình thành nhân cách độc lập ngày càng rõ nét hơn. Lòng tự trọng được đề cao, nhu cầu tự khẳng định và tự thực hiện nhân cách được coi trọng. Điều này cho thấy, việc tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần để mỗi cá nhân tự khẳng định bản thân và tự thực hiện nhân cách là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng kích thích tính tích cực của người lao động. Khi đó, họ sẽ tự ý thức được cần phải làm gì và làm như thế nào để phát huy tốt nhất năng lực của bản thân. Tính chủ động, sáng tạo nhờ đó được phát huy. Về định hướng giá trị nghề nghiệp, hầu hết mọi người đều cho rằng nghề có thu nhập cao là tiêu chuẩn quan trọng nhất. Những định h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN1.DOC
  • docBIA-THS.DOC
  • docMUCLUC1.DOC
Tài liệu liên quan