MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC CÁC BẢNG 3
DANH MỤC CÁC HÌNH 4
PHẦN MỞ ĐẦU 8
1. Lí do chọn đề tài.8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .9
3. Mục đích nghiên cứu.10
4. Câu hỏi nghiên cứu .10
5. Giả thuyết khoa học.11
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .11
7. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .11
8. Phạm vi nghiên cứu.12
9. Phương pháp nghiên cứu.12
10. Đóng góp mới của đề tài .13
11. Cấu trúc của luận văn.13
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀNGHIÊN CỨU 14
1.1. Những vấn đề chung về dạy học tích hợp (DHTH) .14
1.1.1. Đổi mới giáo dục phổ thông sau năm 2015 ở Việt Nam.14
1.1.2. Khái niệm tích hợp và DHTH .15
1.1.3. Mục tiêu của DHTH.17
1.1.4. Sự khác biệt giữa dạy học tích hợp và dạy học một môn .19
1.2. Năng lực và sự phát triển năng lực cho học sinh phổ thông .20
1.2.1. Khái niệm năng lực .20
1.2.2. Đặc điểm của năng lực .21
1.2.3. Cấu trúc của năng lực.21
1.2.4. Năng lực chung và năng lực đặc thù môn học cần phát triển cho học sinh
trung học phổ thông .237
1.3. Năng lực hợp tác .24
1.3.1. Khái niệm năng lực hợp tác .24
1.3.2. Cấu trúc và biểu hiện của năng lực hợp tác .25
1.3.3. Các phương pháp đánh giá năng lực.26
1.4. Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học thường dùng trong DH tích hợp .27
1.4.1. Dạy học theo dự án.27
1.4.2. Dạy học hợp tác theo nhóm.29
1.4.3. Một số kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng trong day học tích hợp .31
1.4.4. Khả năng phát triển năng lực hợp tác của HS thông qua PPDH và kỹ thuật
dạy học tích cực.34
1.5. Thực trạng vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học ở một số trường
THPT Hà Nội .34
1.5.1. Mục đích, đối tượng và tiến hành điều tra .34
1.5.2. Kết quả điều tra .34
CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC TÍCH HỢP CHỦ
ĐỀ “CACBON-SILIC” TRONG CHƢƠNG TRÌNH LỚP 11
2.1. Phân tích chương “Cacbon - Silic” .
2.1.1. Cấu trúc, nội dung của chương “Cacbon - Silic”
2.1.2. Những điểm chú ý về nội dung và phương pháp dạy học
2.1.3. Mục tiêu của chương.
2.1.4. Những năng lực cần phát triển cho học sinh trong dạy học chương.
2.2. Xác định các nội dung liên quan của kiến thức chương “Cacbon – Silic” với
các môn học khác .
2.3. Xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp lồng ghép, liên hệ
2.3.1. Đề xuất nguyên tắc lựa chọn nội dung tích hợp ở trường phổ thông.8
2.3.2. Đề xuất qui trình xây dựng chủ đề dạy học tích hợp
2.3.3. Tổ chức dạy học các chủ đề tích hợp lồng ghép, liên hệ
2.3.4. Cấu trúc chủ đề tích hợp ở mức độ lồng ghép, liên hệ
2.3.5. Một số chủ đề chương “Cacbon – Silic”.
2.4. Đánh giá năng lực hợp tác thông qua dạy học tích hợp
2.4.1. Tiêu chí đánh giá năng lực hợp tác .
2.4.2. Xây dựng bộ công cụ đánh giá năng lực hợp tác
2.5. Xây dựng hệ thống nguồn tư liệu hỗ trợ thực hiện dự án tích hợp lồng ghép
trong dạy học hóa học chương “Cacbon –Silic”.
2.5.1. Ý nghĩa, vai trò của việc xây dựng nguồn tư liệu trong dạy học tích hợp
2.5.2. Xây dựng hệ thống nguồn tư liệu học tập .
2.5.3. Cách sử dụng nguồn tư liệu.
2.6. CÁC Kế HOạCH BÀI DạY MINH HọA
2.6.1. Chủ đề 1: CO – Khí than – Một số vấn đề thực tiễn (1 tiết)
2.6.2. Chủ đề 2: CO2 –Muối cacbonat - Một số vấn đề thực tiễn (2 tiết) .
2.6.3. Chủ đề 3: Si – Hợp chất của Si - Một số vấn đề thực tiễn (2 tiết) .
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm .
3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm.
3.3. Địa bàn và đối tượng thực nghiệm sư phạm.9
3.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm .
3.4.1. Đánh giá kiến thức tích hợp có liên quan đến thực tiễn mà học sinh lĩnh hộiđược .
3.4.2. Đánh giá năng lực hợp tác của học sinh.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học chương III cacbon- Silic (hóa học lớp 11) theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Nhà nước, đó là những định hướng quan trọng trong việc phát
triển giáo dục phổ thông.
Trong chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 có nêu: “Đổi mới chương
trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học
sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi
địa phương”[25].
Dự thảo đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông tổng thể trình Chính
phủ có nhấn mạnh: “Dạy học tích hợp và dạy học phân hoá được xác định là yêu
cầu bắt buộc của mục đích phát triển năng lực HS”[8].
Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp
lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới mục tiêu, nội
dụng, phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra đánh giá nói riêng. Đặc biệt làvấn
đề: “Chuyển từ chương trình định hướng nội dung dạy học sang chương trình định
hướng năng lực” [11, tr. 14].
Trên cơ sở những định hướng về đổi mới nội dung, PPDH mà GV có thể
thực hiện hoạt động dạy học theo các biện pháp khác nhau phù hợp với điều kiện,
đối tượng HS của mình để đảm bảo tính hiệu quả của việc phát triển năng lực HS.
Như vậy, đổi mới giáo dục phổ thông thực hiện theo định hướng phát triển
năng lực người học nên sự đổi mới chương trình, PPDH, kiểm tra đánh giá các môn
học được thực hiện theo chuẩn đầu ra về phẩm chất, các năng lực chung, năng lực
đặc thù môn học của HS.
Định hướng giáo dục sau năm 2018, nước ta thực hiện mức độ tích hợp theo
các chủ đề, ở đó chứa đựng các nội dung gần nhau của các môn học, gọi là tích hợp
liên môn. Tiến tới tích hợp xuyên môn là tích hợp bằng cách thiết kế các môn học
tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học, ví dụ: Lý, Hóa, Sinh thành môn Khoa học tự
nhiên và các kiến thức về khoa học xã hội như Sử, Địa, Đạo đức, Giáo dục công dân
thành thành môn Tìm hiểu xã hội hoặc Khoa học xã hội[9].
Những quan điểm định hướng này đã tạo cơ sở và môi trường pháp lí thuận
17
lợi cho việc đổi mới đồng bộ mục tiêu PPDH, nội dung, kiểm tra đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực người học.
1.1.2. Khái niệm tích hợp và DHTH
1.1.2.1. Khái niệm tích hợp
Tích hợp (theo tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp: Integration) có nguồn gốc
từ tiếng Latinh: Integration với nghĩa: xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất
trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Theo từ điển tiếng Anh – Integration có nghĩa là
kết hợp những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần,
những bộ phận có thể khác nhau nhưng tích hợp với nhau. Nội hàm khoa học khái
niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất các bộ phận khác nhau
để đưa tới một đối tượng mới thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành
phần đối tượng, chứ không phải là phép cộng giản đơn những thuộc tính của các
thành phần ấy.
Như vậy tích hợp có hai tính chất cơ bản liên hệ mật thiết với nhau, quy định
lẫn nhau, đó là tính liên kết và tính toàn vẹn. Nhờ có tính liên kết mà tạo nên được
thực thể toàn vẹn và tính toàn vẹn được xác lập bởi sự thống nhất các thành phần
liên kết.
1.1.2.2. Khái niệm dạy học tích hợp
Theo “Từ điển giáo dục học”:
Trong quá trình nghiên cứu kinh nghiệm giáo dục thế giới, một số quan niệm
về dạy học tích hợp (tích hợp môn học) đã được đưa ra ở Việt Nam. Sau đây là một
số cơ sở khoa học và những quan niệm về DHTH đã được tổng kết trong “Từ điển
Giáo dục học”, Từ điển Bách khoa [26].
- Dạy học tích hợp: là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy,
học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch
dạy học.
- Tích hợp các bộ môn: quá trình xích gần và liên kết các ngành khoa học lại
với nhau trên cơ sở của những nhân tố, những quy luật giống nhau, chung cho các
bộ môn, ngược lại với quá trình phân hóa chúng.
- Tích hợp dọc: Kiểu tích hợp trên cơ sở liên kết hai hay nhiều môn học thuộc
cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau.
- Tích hợp chương trình: Tiến hành liên kết hợp nhất nội dung các môn học có
nguồn gốc tri thức khoa học và có những qui luật chung gần gũi nhau.
18
- Tích hợp kiến thức: Hành động liên kết, nối liền các tri thức khoa học khác
nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất.
- Tích hợp kỹ năng: hành động liên kết, rèn luyện hai hoặc nhiều kĩ năng thuộc
cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực gần nhau để nắm vững một thể.
1.1.2.3. Một số quan điểm về dạy học tích hợp
Khi nói đến dạy học tích hợp cần hiểu rõ các dạng tích hợp trong chương
trình học. Có thể tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tích hợp, nhiều cách trình
bày khác nhau, sau đây là một số quan điểm về tích hợp.
a. Quan điểm của Xavier Rogier[33]
- Tích hợp là một quan điểm lí luận dạy học, tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất,
sự kết hợp, sự hòa nhập
- Tích hợp môn học có những mức độ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao nhưng tựu chung lại có 4 loại chính như sau:
+ Tích hợp trong nội bộ môn học: ưu tiên các nội dung của các môn học, tức
nhằm duy trì các môn học riêng rẽ.
+ Tích hợp đa môn: Một đề tài có thể nghiên cứu theo nhiều môn học khác
nhau.
+ Tích hợp liên môn: trong đó chúng ta phối hợp sự đóng góp của nhiều môn
học để nghiên cứu và giải quyết một tình huống.
+ Tích hợp xuyên môn: trong đó chúng ta tìm cách phát triển ở học sinh
những kĩ năng xuyên môn, nghĩa là những kĩ năng có thể áp dụng ở mọi nơi.
b. Quan điểm của Susan M Drake [35]
Xây dựng chương trình tích hợp dựa trên chuẩn các môn học này được xây
dựng theo mức độ tích hợp tăng dần.
- Tích hợp trong một môn học: Tích hợp trong nội bộ môn học
- Kết hợp lồng ghép: lồng ghép nội dung nào đó vào chương trình sẵn có.
- Tích hợp đa môn: Có các chủ đề các vấn đề chung giữa các môn học tuy rằng
các môn vẫn nghiên cứu độc lập theo góc độ riêng biệt.
- Tích hợp liên môn: Các môn học được liên hợp với nhau và giữa chúng có
những chủ đề, vấn đề, chuẩn liên môn, những khái niệm lớn và những ý tưởng lớn
là chung.
- Tích hợp xuyên môn: Cách tiếp cận từ cuộc sống thực và sự phù hợp đối với
học sinh mà không xuất phát từ môn học bằng những khái niệm chung. Đặc điểm
19
khác với liên môn là: Ngữ cảnh cuộc sống thực, dựa vào vấn đề, học sinh là người
đưa ra vấn đề học sinh là nhà nghiên cứu.
Quan điểm này thống nhất với quan điểm của Xavier Rogier.
c. Các mức độ tích hợp trong dạy học các môn khoa học tự nhiên[23]
Có thể đưa ra ba mức độ tích hợp trong dạy học các môn khoa học tự nhiên
như sau:
- Lồng ghép: Đó là đưa các yếu tố nội dung gắn với thực tiễn, gắn với xã hội,
gắn với các môn học khác vào dòng chảy chủ đạo của nội dung bài học của một
môn học.Ở mức độ lồng ghép, các môn học vẫn dạy riêng rẽ. Tuy nhiên, giáo viên
có thể tìm thấy mối quan hệ giữa kiến thức của môn học mình đảm nhận với nội
dung của các môn học khác và thực hiện việc lồng ghép các kiến thức đó ở những
thời điểm thích hợp.
- Vận dụng kiến thức liên môn: Ở mức độ này, hoạt động học diễn ra xung
quanh các chủ đề, ở đó người học cần đến các kiến thức của nhiều môn học để giải
quyết vấn đề đặt ra. Các chủ đề khi đó được gọi là các chủ đề hội tụ.
- Hòa trộn: Đây là mức độ cao nhất của DHTH. Ở mức độ này, tiến trình dạy
học là tiến trình “không môn học”, có nghĩa, nội dung kiến thức trong bài học không
thuộc riêng về một môn học nhưng lại thuộc về nhiều môn học khác nhau, do đó,
các nội dung thuộc chủ đề tích hợp sẽ không cần dạy ở các môn học riêng rẽ. Mức
độ tích hợp này dẫn đến sự hợp nhất kiến thức của hai hay nhiều môn học.
Trong quá trình thiết kế, sẽ có những chủ đề, trong đó,các năng lực cần hình
thành được thể hiện xuyên suốt qua toàn bộ các nội dung của chủ đề mà không phải
chỉ là một nội dung nào đó của chủ đề.Các năng lực này chính là các năng lực được
hình thành xuyên môn học. Ví dụ, với các môn khoa học tự nhiên, đó là năng lực
thực hiện các phép đo và sử dụng công cụ đo.
Trong luận văn này, chúng tôi thiết kế các chủ đề dạy học theo hướng tích
hợp lồng ghép kiến thức chủ đạo là môn hóa học với các vấn đề thực tiễn trong cuộc
sống.
1.1.3. Mục tiêu của DHTH
Quan điểm dạy học tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích
cực về quá trình học tập và quá trình dạy học. Theo Xavier Roegiers, DHTH có các
mục tiêu sau [33,tr 73-75]:
20
1.1.3.1. Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa
Bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các tình
huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này, hoà nhập thế giới học đường với thế giới cuộc
sống.
Ví dụ: Khi thấy có người bị ong, kiến đốt thì chỗ bị đốt sẽ bị ngứa, các em sẽ
biết lấy xà phòng hoặc nước vôi pha loãng để rửa chỗ bị đốt nhằm trung hòa lượng
axit do ong, kiến vừa châm vào.
Khi thực hiện DHTH, các quá trình học tập không bị cô lập với cuộc sống
hàng ngày, các kiến thức gắn liền với kinh nghiệm sống của HS và được liên hệ với
các tình huống cụ thể, có ý nghĩa. Mặt khác, các kiến thức đó sẽ không lạc hậu do
thường xuyên cập nhật với cuộc sống.
1.1.3.2. Xác định rõ mục tiêu dạy học, phân biệt nội dung cốt lõi với cái ít quan
trọng hơn
Cái cốt yếu là những NL cơ bản cần cho HS vận dụng vào xử lí những tình
huống có ý nghĩa trong cuộc sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học
tập tiếp theo.
Trong thực tế nhà trường có nhiều điều chúng ta dạy cho HS nhưng không
thật sự có ích, ngược lại có những năng lực cơ bản không được dành đủ thời gian.
Chẳng hạn ở tiểu học, HS được biết nhiều quy tắc ngữ pháp nhưng không biết đọc
diễn cảm một bài văn, HS biết có bao nhiên centimét trong một kilômét nhưng lại
không chỉ ra được một mét áng chừng dài bằng mấy gang tay.
1.1.3.3. Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể
Thay vì tham nhồi nhét cho HS nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, DHTH chú
trọng tậpdượt cho HS vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống
thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, làm cha
mẹ, có năng lực sống tự lập.
1.1.3.4. Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học
Trong quá trình học tập, HS có thể lần lượt học những môn học khác nhau,
những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng HS phải biểu đạt các khái niệm đã
học trong những mối quan hệ logic trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các
môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng
cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng
được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ,
21
chưa từng gặp.
Như vậy, DHTH là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao NL
của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và NL để giải quyết
các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Dạy học theo hướng TH phát huy được tính tích
cực của học sinh, góp phần đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.
1.1.4. Sự khác biệt giữa dạy học tích hợp và dạy học một môn
Theo [23], giữa DHTH và dạy học một môn có một số điểm khác biệt sau:
Bảng 1.1. Sự khác biệt giữa dạy học tích hợp và dạy học một môn
Dạy học tích hợp Dạy học đơn môn
Mục tiêu Phục vụ cho mục tiêu chung của một số
nội dung thuộc các môn khác nhau.
Phục vụ cho mục tiêu
riêng rẽ của từng môn học
Mục tiêu rộng, ưu tiên các mục tiêu
chung, hướng đến sự phát triển năng lực.
Mục tiêu hạn chế hơn,
chuyên biệt hơn (thường
là các kiến thức, kĩ năng
của môn học)
Xuất phát từ tình huống kết nối với lợi
ích và sự quan tâm của học sinh, của
cộng đồng, liên quan tới nội dung của
nhiều môn học.
Xuất phát từ một tình
huống có liên quan tới nội
dung của một môn học.
Tổ chức
dạy học
Hoạt động học thường xuất phát từ vấn
đề cần giải quyết hoặc một dự án cần
thực hiện, Việc giải quyết vấn đề cần căn
cứ vào các kiến thức, kĩ năng của các
môn học khác nhau.
Hoạt động học thường
được cấu trúc chặt chẽ
theo tiến trình đã dự
kiến(trước khi thực hiện
hoạt động).
Trung tâm
của việc
dạy
Nhấn mạnh đặc biệt đến sự phát triển và
làm chủ mục tiêu lâu dài như là các
phương pháp, kĩ năng, thái độ của người
học.
Đặc biệt nhằm tới việc
làm chủ mục tiêu ngắn
hạn như kiến thức, kĩ năng
của một môn học.
Hiệu quả
của việc
học tập
Dẫn đến việc phát triển phương pháp
thái độ và kĩ năng phức hợp, trí tuệ cũng
như tình cảm. Hoạt động học dẫn đến
việc tích hợp các kiến thức đã tiếp nhận.
Dẫn đến việc tiếp nhận
kiến thức và kĩ năng mang
đặc thù của môn học.
22
Các tình huống trong DHTH thường gắn với thực tiễn cuộc sống, gần gũi và
hấp dẫn với người học; người học cần phải giải thích, phân tích, lập luận hoặc tiến
hành các thí nghiệm, xây dựng các mô hình,để giải quyết vấn đề. Chính qua đó,
tạo điều kiện phát triển các phương pháp và kỹ năng cơ bản ở người học như: lập kế
hoạch, phân tích, tổng hợp thông tin, đề xuất các giải pháp một cách sáng tạo,;
tạo cơ hội kích thích động cơ, lợi ích và sự tham gia vào các hoạt động học, thậm
chí với cả các học sinh trung bình và yếu về năng lực học.
DHTH không chỉ đánh giá kiến thức đã lĩnh hội được, mà chủ yếu đánh giá
xem học sinh có năng lực sử dụng kiến thức hay không. Nói cách khác, người học
phải có khả năng huy động có hiệu quả kiến thức và năng lực của mình để giải
quyết một cách hữu ích một vấn đề xuất hiện, hoặc có thể đối mặt với một cái khó
khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp.
1.2. Năng lực và sự phát triển năng lực cho học sinh phổ thông
1.2.1. Khái niệm năng lực
Khái niệm năng lực (compentency) có nguồn gốc Latinh: “competentia” có
nghĩa là “gặp gỡ”. Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu dưới nhiều cách tiếp cận
khác nhau [23].
Theo cách tiếp cận truyền thống (tiếp cận hành vi – behavioural approach)
thì năng lực là khả năng đơn lẻ của cá nhân, được hình thành dựa trên sự lắp ghép
các mảng kiến thức và kỹ năng cụ thể. Trong thập kỷ gần đây, NL đang được nhìn
nhận bằng tiếp cận tích hợp.
Theo [2] năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của
nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và
trách nhiệm.
Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối
với một công việc. Khái niệm năng lực được dùng ở đây là đối tượng của tâm lý,
giáo dục học.
Theo [8]“Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một
bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực của cá nhân được đánh
giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề
của cuộc sống” [8, tr. 15].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu:NL bao gồm các kiến thức, kĩ năng cũng như quan
23
điểm và thái độ mà mỗi cá nhân có thể hành động thành công trong các tình huống mới.
NL là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm.
1.2.2. Đặc điểm của năng lực
NL mang tính cá nhân, có sự tác động của một cá nhân cụ thể tới một đối
tượng cụ thể (kiến thức, quan hệ xã hội, ) để có một sản phẩm nhất định; do đó có
thể phân biệt người này với người khác.
NL thể hiện thông qua hành động, nó là một yếu tố được cấu thành trong một
hoạt động cụ thể. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của một
hoạt động cụ thể. Năng lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động.
NL được đánh giá bằng một kết quả/hiệu quả cụ thể, nó đề cập tới xu thế đạt
được một kết quả nào đó của một công việc cụ thể, do một con người cụ thể thực
hiện (NL học tập, NL tư duy, NL tự quản lý bản thân, Không tồn tại năng lực
chung chung).
1.2.3. Cấu trúc của năng lực
Theo [11, tr. 14,15], để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các
thành phần và cấu trúc của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau, việc mô tả cấu
trúc và các thành phần năng lực cũng khác nhau. Nhưng cơ bản cấu trúc năng lực
hành động (thực hiện) được mô tả là sự kết hợp của 4 NL thành phần sau:
NL chuyên môn: Khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như
đánh giá kết quả một cách độc lập, có PP và chính xác về mặt chuyên môn (Bao
gồm cả khả năng tư duy logic, phân tích, tổng hợp và trừu tượng, khả năng nhận
biết các mối quan hệ hệ thống và quá trình).
NL phƣơng pháp: Là khả năng hành động có kế hoạch, định hướng mục
đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề.
Trung tâm của năng lực PP là những phương thức nhận thức, xử lý, đánh giá,
truyền thụ và giới thiệutrình bày tri thức. Nó được tiếp nhận qua việc học phương
pháp luận – giải quyết vấn đề.
NL xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội
cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ với những
thành viên khác. Trọng tâm là:
- Ý thức được trách nhiệm củabản thâncũng như của những người khác, tự
chịu trách nhiệm, tự tổ chức.
24
- Cókhả năng thực hiện các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết
xung đột.
NL cá thể: Khả năng xác định, suy nghĩ và đánh giá được những cơ hội phát
triển cũng như những giới hạn của mình, phát triển được năng khiếu cá nhân cũng
như xây dựng kế hoạch cho cuộc sống riêng và hiện thực hoá kế hoạch đó; những
quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các hành vi ứng xử.
Ta có thể mô tả cấu trúc của năng lực hành động hoặc cấu trúc chung của
năng lực bằng sơ đồ sau:
Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc chung của năng lực
Mô hình bốn thành phần NL trên phù hợp với bốn mục tiêu giáo dục (bốn trụ
cột giáo dục) theo UNESCO đã nêu ra. Ta có thể mô tả bằng sơ đồ sau:
Hình 1.2. Sơ đồ phát triển NL là mục tiêu giáo dục
Như vậy, giáo dục định hướng phát triển NL không chỉ nhằm mục tiêu phát
triển NL chuyên môn bao gồm tri thức kĩ năng chuyên môn mà còn phát triển năng
CÁC MỤC TIÊU GIÁO
DỤC THEOUNESCO
CÁC THÀNH PHẦN
NĂNG LỰC
Năng lực chuyên môn Học để biết
Năng lực phương pháp Học để làm
Học để cùng chung sống Năng lực xã hội
Năng lực cá thể Học để tự khẳng định
25
lực PP, NL xã hội và NL cá thể. Những NL này không thể tách rời nhau mà có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau và tổng hòa vào nhau tạo nên những năng lực cụ thể của
con người.
Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển NL không chỉ giới hạn trong tri
thức và kĩ năng chuyên môn mà phải có những nhóm nội dung để phát triển các NL
thành phần khác. Cụ thể là:
Bảng 1.2. Nhóm nội dung phát triển các năng lực thành phần
Học nội dung
chuyênmôn
Học PP
chiến lƣợc
Học giao tiếp - xã
hội
Học tự trải
nghiệm - đánh giá
- Các tri thức
chuyên môn (các
khái niệm, phạm
trù, quy luật, mối
liên hệ...)
- Các kĩ năng
chuyên môn
- Ứng dụng, đánh
giá chuyên môn
- Lập kế hoạch học
tập, kế hoạch làm
việc.
- Các phương pháp
nhận thức chung:
Thu thập, xử lí,
đánh giá, trình bày
thông tin.
- Các phương pháp
chuyên môn.
- Làm việc trong
nhóm.
- Tạo điều kiện cho
sự hiểu biết về
phương diện xã hội.
- Học cách ứng xử,
tinh thần trách
nhiệm, khả năng
giải quyết xung đột
- Tự đánh giá điểm
mạnh, điểm yếu.
- Xây dựng kế
hoạch phát triển cá
nhân.
- Đánh giá, hình
thành các chuẩn
mực giá trị, đạo
đức và văn hóa,
lòng tự trọng...
NL chuyên môn
NL phƣơng pháp
NL xã hội
NL cá thể
Do đó trong DH cần tạo điều kiện, môi trường để HS được học các nội dung
chuyên môn, học PP chiến lược, học giao tiếp xã hội và tự trải nghiệm để đánh giá
được mặt mạnh - yếu của bản thân mà có kế hoạch điều chỉnh để phát triển chính mình.
1.2.4. Năng lực chung và năng lực đặc thù môn học cần phát triển cho học sinh
trung học phổ thông
Theo [2], đối với HS phổ thông Việt Nam cần phát triển một số năng lực
chung như sau:
a.Năng lực chunglà năng lực cơ bản, thiết yếu giúp cá nhân có thể sống, làm
việc và tham gia hiệu quả trong nhiều hoạt động vào các bối cảnh khác nhau của đời
sống xã hội như: Năng lực nhận thức, năng lực trí tuệ, năng lực về ngôn ngữ và tính
toán; năng lực giao tiếp, Các năng lực này được hình thành và phát triển dựa trên
26
bản năng di truyền của con người, quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc
sống; đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt động khác nhau.
Các năng lực chung của HS THPT đó là: Năng lực tự học; Năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo; Năng lực thẩm mỹ; Năng lực thể chất; Năng lực giao
tiếp; Năng lực hợp tác; Năng lực tính toán; Năng lực công nghệ thông tin và truyền
thông (ICT).
b. Năng lực đặc thù môn học là những năng lực được hình thành và phát
triển trên cơ sở các năng lực chung theo hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại
hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những
hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của các lĩnh vực học tập như
ngôn ngữ, toán học, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, công nghệ,
nghệ thuật, đạo đức - giáo dục công dân, giáo dục thể chất.
Do đặc thù môn học “Hóa học là một môn khoa học vừa lý thuyết vừa thực
nghiệm” nên nó cũng có những năng lực đặc thù sau:
Năng lực sử dụng ngôn ngữ hóa học; Năng lực thực hành thí nghiệm hóa
học; Năng lực tính toán hóa học; Năng lực tư duy hóa học; Năng lực giải quyết vấn
đề thông qua môn hóa học; Năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống.
1.3. Năng lực hợp tác
Trong các năng lực chung và năng lực đặc thù đã nêu ở trên, chúng tôi đi sâu
nghiên cứu về năng lực hợp tác.
1.3.1. Khái niệm năng lực hợp tác
Khái niệm hợp tác: Theo từ điển tiếng Việt, hợp tác có nghĩa là: “Chung sức,
giúp đỡ qua lại với nhau” [26].
Từ việc nghiên cứu các quan điểm về phát triển năng lực hợp tác của các tác
giả trong và ngoài nước, các đề tài nghiên cứu gần đây, chúng tôi quan niệm rằng:
Năng lực hợp tác là khả năng mọi người biết làm việc chung với nhau, cùng hướng
tới một mục tiêu với sự phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng của từng người
nhằm giải quyết, thực hiện nhiệm vụ.
Năng lực hợp tác là NL luôn gắn với một hoạt động cụ thể, NL gắn với hoạt
động hợp tác nhóm gọi là NL hợp tác. NL hợp tác là khả năng tổ chức và quản lý
nhóm, thực hiện các hoạt động trong nhóm một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo
nhằm giải quyết nhiệm vụ chung có hiệu quả.
27
1.3.2. Cấu trúc và biểu hiện của năng lực hợp tác
Theo [14], cấu trúc năng lực có thể được mô tả dưới dạng các tiêu chí như
sau: người có NLHT phải có kiến thức, kỹ năng và thái độ HT
- Kiến thức hợp tác: Là người nêu được khái niệm, mục đích, ý nghĩa hợp tác,
phân tích được quy trình hợp tác, các hình thức hợp tác, trình bày được các cách tạo
nhóm, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ thuật hoạt động nhóm, vai trò của từng vị trí
trong nhóm.
- Kỹ năng hợp tác: Đó là khả năng tổ chức nhóm HT, khả năng lập kế hoạch
HT, khả năng tạo môi trường HT, khả năng giải quyết mâu thuẫn, khả năng diễn đạt
ý kiến, khả năng lắng nghe và phản hồi, khả năng viết báo cáo, khả năng tự đánh
giá, khả năng đánh giá lẫn nhau. Đây là thành tố biểu hiện cao nhất của NLHT.
- Thái độ hợp tác:Tích cực hoạt động nhóm: Các thành viên trong nhóm tích
cực tham gia hoạt động nhóm và động viên nhau cùng tham gia.
Chung sức hoàn thành nhiệm vụ: Các thành viên trong nhóm đồng tâm hợp
lực hòa thành nhiệm vụ chung của nhóm, có trách nhiệm với kết quả của nhóm
Chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau: Các thành viên trong nhóm tôn trọng, chia sẻ, ủng
hộ giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Người có NL HT có các biểu hiện như sau:
- Biết lắng nghe nhiệm vụ chung của nhóm và nhận nhiệm vụ của nhóm
trưởng phân công.
- Thực hiện tích cực có kết quả các nhiệm vụ do nhóm giao cho theo cá nhân,
theo cặp hoặc theo nhóm nhỏ.
- Biết trình bày, chia sẻ kết quả với các thành viên trong nhóm.
- Biết lắng nghe ý kiến của các thành viên khác.
- Biết thảo luận để đưa ra kết luận chung của nhóm.
- Biết tự đánh giá và đánh giá kết quả của các thành viên trong nhóm và giữa
các nhóm với thái độ chia sẻ, xây dựng.
- Biết hợp tác, chia sẻ các nhiệm vụ và kinh nghiệm trong nhóm, trong lớp,
tiếp thu ý kiến của người khác một thái độ học tập tích cực.
Để phát triển tốt các NLHT cho HS, GV thường sử dụng các phương pháp
dạy học theo nhóm như các phương pháp góc, bàn tay nặn bột, dạy học dự án.
Không chỉ thực hiện khi sử dụng đơn thuần phương pháp học tập mà thường xuyên
phối kết hợp khi HS nghiên cứu bài mới, khi luyện tập, khi thực hành hóa học
28
1.3.3. Các phương pháp đánh giá năng lực
Theo [5] đánh giá năng lực thì không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến
thức đã học làm trọng tâm mà chú trọng đến khả năng vận dụng sáng tạo tri thức
trong những tình huống sáng tạo khác nhau.
Đánh giá năng lực thông qua các sản phẩm học tập và quá trình học tập của
HS, đánh giá năng lực HS được thực hiện bằng một số phương pháp (công cụ) sau:
1.3.3.1. Đánh giá qua quan sát
Đánh giá qua quan sát là thông qua quan sát mà đánh giá các thao tác, động
cơ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05050002737_1842_2006272.pdf