MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CẢM ƠN .3
MỤC LỤC.4
MỞ ĐẦU .6
1. Lí do chọn đề tài .6
2. Lịch sử vấn đề .7
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.9
4. Mục đích nghiên cứu.9
5. Phương pháp nghiên cứu.9
6. Đóng góp của luận văn.10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .12
1.1. Về mối quan hệ giữa hoạt động văn học và hoạt động báo chí của từng thành viên
và của toàn nhóm Tự lực văn đoàn .12
1.1.1. Vài nét về nhóm Tự lực văn đoàn.12
1.1.2. Mối quan hệ hai chiều giữa hoạt động văn học – báo chí của từng thành viên và
của toàn nhóm Tự lực văn đoàn .15
1.2. Về hoạt động văn học – báo chí của Tự lực văn đoàn.17
1.2.1. Tự lực văn đoàn và các thành viên.17
1.2.2. Các mặt hoạt động và ảnh hưởng .20
1.3. Sự nghiệp văn chương của Thế Lữ trong cái nôi Phong Hóa, Ngày Nay.29
1.3.1. Vị trí nhiệm vụ của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay .29
1.3.2. Quá trình hoạt động, trưởng thành của Thế Lữ – một nhà văn, nhà báo chủ chốt
trong Tự lực văn đoàn .31
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THẾ LỮ TRÊN PHONG HÓA, NGÀY NAY –
NHÌN TỪ NỘI DUNG THỂ TÀI VÀ KIỂU VĂN BẢN .39
146 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn xuôi thế lữ trong tự lực văn đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sảo, khi lại tâm tình, thấu hiểu, sẻ chia. Các truyện Vì tình, Mau trí khôn, Một
chuyện ngoại tình, Người tài xế điên, Lệ Mai nữ sĩ, Đồng tâm là những truyện không đặc
sắc lắm. Vì tình kể về một anh chàng có khuôn mặt và vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Trên một
chuyến tàu, anh ta làm quen được với một cô gái rất xinh đẹp, dễ mến. Anh thấy vui và sung
sướng khi vừa được ngồi bên người đẹp lại vừa được người con gái xinh đẹp ấy đối đãi lịch
thiệp và có vẻ rất quý trọng anh. Đến ga, xuống tàu, cô gái nhờ anh xách dùm chiếc vali của
cô. Cảnh sát bắt anh, khám xét thì thấy trong chiếc vali mà cô gái nhờ anh cầm giúp ấy toàn
là thuốc phiện. Anh bị giam và sau nhiều nỗ lực giải thích, bảo lãnh của bạn bè anh mới
được tha. Thật là nhớ đời. Không giống như những truyện cổ tích có kết thúc hậu đối với
người có vẻ ngoài xấu xí nhưng câu chuyện cũng mang lại giây phút tươi đẹp cho cuộc đời
60
của người đàn ông “thiệt thòi” ấy. Mau trí khôn lại kể việc nhanh trí của anh chàng Tập
trong tình huống giáp mặt với tay người Pháp. Lái xe ô tô không được rành lắm cộng với
chiếc xe cổ lỗ làm cho anh lái xe trên đường như rùa bò. Thế nhưng vẫn muốn thể hiện với
tay người Pháp nên anh đã cố hết sức phóng và va quẹt với hắn. Trong khi đánh nhau, biết
không thể thắng được tay người Pháp với sức vóc to lớn ấy anh đã nhanh trí chuyển sang
hướng khác. Lòng tự tôn dân tộc, lòng kiêu hãnh giúp anh chàng Tập không biết sợ, dám
thách đấu tay đôi với người to lớn hơn mình rất nhiều. Một chuyện ngoại tình cũng là câu
chuyện ít có những tình tiết sâu sắc. Anh chồng trong câu chuyện vì phát hiện ra vợ ngoại
tình nhưng không giết vợ, không bỏ vợ mà vẫn sống cùng cô ta trừng phạt cô ta bằng cách
để cô ta sống trong cảm giác sợ hãi, không được yêu thương.
Những truyện trên tuy có khám phá những khía cạnh của cuộc sống, có giá trị khôi hài
đôi chút nhưng chưa thực sự mang lại những ý nghiã về giá trị thẩm mĩ mà chủ yếu mang
tính chất giải trí chốc lát với người bình dân. Câu chuyện vượt lên một bậc so với những
truyện trên, theo tôi là truyện Câu chuyện trên tàu thủy. Truyện là câu chuyện của nhân vật
“tôi” nghe được từ một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng vẻ như ông ký về hưu cùng
đi trong toa hạng ba chuyến tàu chạy Hòn Gai với mình. Trước đó, “ông ký” đã giới thiệu
Hai Nhiêu là bậc “quân tử trong phường kẻ cắp”[PH số 129, 13], nghĩa là không lấy của
người nghèo và coi việc ăn cắp là một nghệ thuật, nghĩa là càng khó lấy càng thích, càng
được dịp trổ tài. Phần chính của truyện là “câu chuyện trên tàu thủy” như sau: Hai Nhiêu
đang đi kiếm ăn ở Hải Phòng thì được tin vợ ốm phải xuôi Nam về quê thăm. Bước lên tàu,
bác ta quan sát xem có món “sộp” nào không nhưng liếc con mắt nhà nghề nhìn qua, bác ta
thấy thất vọng không kiếm chác được gì. Đang khi đó thì trên tàu xảy ra cảnh lộn xộn: Một
người nhà quê “chỉ có một cái lồng gà rỗng, với trong đó một gói mo chừng đựng cơm nắm,
và hai cái nồi đất mới, miệng bưng bằng giấy nhật trình” [PH số 129, 13] đang bị người
nhà tàu la lối, đòi đuổi xuống vì thiếu một hào tiền vé. Thấy cảnh khốn khổ và trái tai trái
mắt đó, Hai Nhiêu nổi máu anh hùng liền bỏ tiền ra mua vé cho người nhà quê kia. Khi tàu
cập bờ, người nhà quê chèo kéo Hai Nhiêu vào quán, gọi cơm đãi, khiến bậc quân tử kẻ cắp
phải lấy làm nghi hoặc. Nhưng không, bí mật được tiết lộ: Người nhà quê mang theo ngót
năm trăm bạc, giắt theo trong người thì sợ nguy hiểm mất cắp, nên mới bày ra cái kế “cái
lồng gà với mấy cái nồi, mà lại của một ông nhà quê không có lấy một hào để trả tiền tàu...
ông tính, còn kẻ cắp nào để ý đến nữa”[PH số 129, 14]. Hai Nhiêu nghe thấy sự thật đó thì
choáng người đi vì tiếc của.
61
Truyện chỉ ngắn có hai trang báo nhưng nó cho thấy nghệ thuật vượt bậc trong viết
truyện ngắn của Thế Lữ. Đó là truyện trong truyện. Lồng trong câu chuyện chính, là lời kể
chuyện của ông kí kể cho “tôi”. Mà biết đâu ông kí đó lại chính là Hai Nhiêu? Câu chuyện
vượt ra ngoài ý nghĩa là chuyện ăn cắp và kinh nghiệm ăn cắp là ở chỗ đó. Tác giả đã khéo
cho thấy cả tâm lý của hai hạng người: Cái ranh mãnh của người nhà quê và sự cảm động
thức dậy trong người làm một nghề xấu xa. Người nhà quê hồn nhiên không biết trước mặt
mình là một tay bợm già, mà chỉ thấy đó là “một người quý hóa” đã ra tay giúp mình, dù là
trong một màn kịch do mình dựng ra. Hai Nhiêu thì thấy cái việc mình mua vé cho người
nhà quê kia tự dưng khiến cho “trái tim kẻ cắp của bác hơi cảm động”. Vì sao? “Không phải
vì bác đã làm được một điều thiện - thiện với chẳng thiện thì Nhiêu có cần gì? - nhưng vì
thấy cái cảm giác đầu tiên được những người hiền lành kia tin bác một cách chân thực”[PH
số 129, 13]. Câu nói này cũng làm ta thấy được nụ cười giễu nhân vật, giễu người đời của
nhà văn. Phạm Xuân Nguyên khi nhận xét về tác phẩm này đã có những kết luận “Truyện
viết ngắn gọn, giản dị, có cao trào, có sự biến, tôi đọc bao lần rồi vẫn thấy bất ngờ, thích
thú. Khi một câu chuyện mình đã biết hết tình tiết, sự kiện, nhưng mỗi lần đọc vẫn có khoái
cảm thì hẳn là nội dung của truyện đã được thể hiện bằng một nghệ thuật bậc thầy có sức
ám ảnh và ràng buộc.” [64, 2]. Ở truyện ngắn này Thế Lữ đã cho thấy tài năng của mình
trong việc viết truyện ngắn.
Bên cạnh tác phẩm này có một tác phẩm đạt đến tầm cao của nghệ thuật viết truyện ngắn
là Thoa (Một đời người). Câu chuyện dung lượng không dài, chỉ hơn hai mươi trang sách,
không có những xung đột cao trào, không có những đau đớn dằng xé dữ dội thể hiện qua
câu chữ nhưng khi đọc xong tác phẩm người đọc nào cũng cảm thấy chạnh lòng, đau nhói
trong tim, thương cảm về thân phận của một kiếp người lặng lẽ. Thoa, nhân vật chính của
câu chuyện là một cô gái câm. Sự thiệt thòi, buồn tủi, lặng lẽ của cô trải dài suốt đời, từ khi
cô còn trẻ đến khi chết. Cả cuộc đời cô là sự lặng lẽ mòn mỏi chờ đợi một tình yêu nhưng
lại liên tiếp mất hạnh phúc đến được với mình trong chốc lát. Cuối cùng, khi niềm hi vọng
cũng mất thì cô không còn đủ sức sống trên cõi đời nữa. Cô chết, người nhà mới phát hiện
những kỉ vật thời thơ ấu, những kỉ vật của mối tình hụt hẫng còn nguyên vẹn trong đáy tủ.
Bằng nghệ thuật trần thuật tài tình Thế Lữ đã làm cho cuộc đời của Thoa như một cuốn
băng quay chậm trước mắt người đọc.
Nhận xét về tác phẩm này có nhiều ý kiến khen ngợi. Năm 1964, Viện văn học cho rằng
“Đôi khi Thế Lữ mô tả một cách giản dị và sâu sắc cuộc sống âm thầm của những người
62
bình thường, như trong truyện ngắn Thoa (Một đời người), 1943, thì Thế Lữ lại viết được
những trang cảm động, có thể so sánh với những trang hay nhất của Thạch Lam. Tiếc là
ông không chú ý nhiều đến lối viết ấy.” Đến năm 1983, Xuân Diệu nhận xét “Thế Lữ là tác
giả của thiên truyện ngắn Thoa (Một đời người) mà đọc lại, tôi nghĩ ngợi bâng khuâng.
Những truyện ngắn của Thế Lữ thường biết lập ra một lối riêng, sáng tạo trong cái kỳ lạ, bí
ẩn ít ai ngờ đến. Thoa là chuyện một đời người của một cô gái, một phụ nữ trong cuộc đời
này như một cái bóng luôn luôn chịu thiệt, an thường thủ phận đến cái mức là làm cho
người đọc muốn vùng lên, phá cái ngục này của số phận và của xã hội. Một sáng tác rất
quý, đầy chủ nghĩa nhân đạo, một chủ đề ít ai khai thác và khó viết.” Nguyễn Hoành Khung
trong bài tiểu luận nói về văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945 công bố vào năm 1989
cũng viết “truyện ngắn Thoa có một dư vị xót xa đặc biệt. câu chuyện về số phận buồn
thảm của một cô gái câm nhu mì, trung hậu, rất mực khiêm nhường, an phận mà kỳ thực âm
ỷ một khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, được kể lại bằng một giọng văn chân thực và thấm
thía, đã gieo vào lòng người đọc những ám ảnh không nguôi.”
Ép duyên cũng là một câu chuyện hay. Nằm trong dòng văn học lãng mạn nhưng câu
chuyện tình không ủy mị như một số truyện của TLVĐ mà lãng mạn đầy tính nhân văn,
hiện đại. Tâm do đọc nhiều tiểu thuyết lãng mạn quá, coi mình cũng như những người con
gái khác, có cảm tình với một người nhưng lại bị gia đình bắt lấy một người khác. Cô thú
thật cảm xúc ấy với người chồng mới cưới của mình ngay đêm tân hôn, những tưởng anh ta
sẽ chửi mắng, đánh đập. Nhưng Tiến – người chồng ấy – chẳng những không biểu hiện thái
độ bực tức mà còn rất tôn trọng mối tình của cô và tạo tình huống giúp cô gỡ rối. Thời gian
sống cùng mái nhà, Tâm đã hiểu được tình yêu, tấm chân tình và vẻ đẹp tâm hồn của người
đàn ông mà mình bị ép lấy ấy. Tình yêu đằm thắm đến với hai người như một bài thơ đẹp,
lãng mạn nhưng cũng rất mới, rất hiện đại.
Lương Văn Sáng, nhân vật chính trong truyện Một người hiếm có được Thế Lữ chăm
chút, tạo một hình ảnh hoàn bích. Sáng là một chàng trai thông minh, tài giỏi, sống lãng tử,
thay đổi nghề liên tục hầu như trong suốt cả cuộc đời. Lần nào anh cũng thành công và mãn
nguyện về điều đó. Mọi người rất nể phục anh. Tuy vậy khi đã thành công ở một việc gì đó
rồi, anh không dừng lại mà tiếp tục thay đổi tìm công việc mới hay nói cách khác là tìm cái
đẹp hoàn mỹ hơn. Rất mạnh mẽ, có nghị lực, nhưng khi không chiếm được trái tim người
đẹp Kiều Trang thì anh vô cùng đau khổ quyết định cắt đứt mọi đau khổ bằng cái chết. Theo
lí lẽ Lương Văn Sáng đưa ra là khi đã yêu cái đẹp bằng một tình yêu mãnh liệt, quyết chí đi
63
tìm và chiếm lĩnh cái đẹp mà không được thì chỉ có một lối thoát duy nhất là tự xóa đi sự
tồn tại của mình trong xã hội, bởi vì nếu không thì sống ở đời chỉ là vô nghĩa. Câu chuyện
diễn biến theo chiều phát triển tâm lí nhân vật không được hợp logic lắm. Kết thúc bằng cái
chết của nhân vật chính có phần khiên cưỡng dường như nó là chủ định của tác giả chứ
không phải là của nhân vật chính nếu căn cứ vào câu chuyện. Phải chăng ông xây dựng
nhân vật Sáng để gửi gắm quan niệm của ông về cái đẹp và người săn đuổi cái đẹp?
Truyện đời thường của Thế Lữ khá nhiều, có khoảng 26 truyện, chiếm hơn 40% tổng số
các truyện đăng trên báo của ông. Thế nhưng hầu hết các tuyển tập đưa vào không đầy đủ
một phần truyện vì của ông cũng khá nhiều, phần khác có nhiều truyện không được xuất sắc
lắm, chủ yếu mang tính giải trí nhất thời. Nhưng chỉ với một vài truyện như Thoa (một đời
người), Câu chuyện trên tàu thủy, Ép duyên cũng đã thấy được đóng góp của ông trong
nghệ thuật viết truyện ngắn nước nhà.
Truyện đời thường và truyện lãng mạn đường rừng chiếm số lượng lớn trong các tác
phẩm của Thế Lữ. Lấy đề tài từ cuộc sống, khai thác những khía cạnh khác nhau của đời
sống hàng ngày, dùng lối văn nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu, Thế Lữ đã làm cho tác phẩm của
mình gần hơn với người đọc, giúp người đọc thấy, yêu mến và trân trọng hơn những giá trị
bình thường mà nhiều ý nghĩa.
2.3. Nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay
2.3.1. Nhìn chung về nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ
Ngoài là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, Thế Lữ còn là một nhà báo mẫn cán, năng nổ và
quan trọng của hai tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay. Thế Lữ bước vào nghiệp báo khá
sớm. Ông từng là người sửa bản in cho tờ báo Ý muốn của Đông Dương (Volonté
Indochinoise). Theo lời tâm sự của Thế Lữ mà Xuân Diệu ghi lại “Tôi muốn viết, tôi muốn
viết văn, viết báo để ta cùng “mở mày mở mặt”. Pháp họ có nhà văn thì mình cũng có nhà
văn, họ làm báo, viết văn, thì mình cũng làm được.”[19, 13].
Với tâm nguyện cao đẹp đó, Thế Lữ lại may mắn khi ông khởi nghiệp và trưởng thành từ
hai tuần báo thuộc một tổ chức văn học duy nhất, đầu tiên, có vai trò và đóng góp nhất trong
công cuộc đổi mới văn chương, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa nền báo chí và nền văn
học nước nhà, đó là Phong Hóa và Ngày Nay. Văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ gồm các nội
dung chủ yếu:
Bình điểm văn chương. Đây là hoạt động khá tiêu biểu của nhà báo Lê ta – Thế Lữ. Ông
64
luôn hướng hoạt động của mình vào văn chương nước nhà. Chặng đường thơ văn những
năm 1930 được phản ánh trong những tin bài bình luận của ông giúp ta thấy được bối cảnh
“ngổn ngang, xô bồ, chưa ổn định” (Chữ dùng của PGS.TS Nguyễn Thành Thi) của các
sáng tạo văn học trong thời điểm đó. Rất nhiều những tác phẩm văn chương được ông điểm
bình, đưa ra ý kiến nhận xét. Có những tác phẩm ông đánh giá tốt đã được minh chứng bằng
sự trường tồn lâu dài như những bài thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư,
nhưng cũng có những tác phẩm chỉ là “hạt sạn” của văn chương thì ông cũng không ngần
ngại phê phán, chê trách.
Bình điểm các vấn đề văn hóa – xã hội. Trong các bài viết, bài báo, những hiện tượng của
đời sống như nạn chạy đua vào chiếc ghế nghị viện, vấn đề trộm cắp ở thôn quê, tình trạng
lễ hội truyền thống bị mai mộtđược ông khai thác. Cuộc sống muôn mặt, muôn vẻ được
nhà báo Lê ta khai thác giúp cho cái nhìn về cuộc sống chân thật và nhiều chiều hơn.
2.3.2. Bình điểm văn chương
Về mảng này, Thế Lữ đảm trách các tin mục như: Cuộc điểm sách, Xem văn, Cuộc điểm
sách tốc hành, Tin thơ, Chơi văn, Điểm thơ với các bút danh chủ yếu Lê ta, Thế Lữ.
Bút danh Thế Lữ, ông dùng cho chuyên mục Tin thơ. Số 80 (10/10/1937) báo Ngày Nay
là số mở đầu của chuyên mục này. Là một nhà thơ, một người yêu thơ, biết chuộng tài
thơThế Lữ đã có những bài viết bình về thơ, phát hiện những tài thơ mới. Dù là nhà thơ
nổi tiếng, không còn sáng tác thơ đều đặn nhưng ông vẫn không vì cá nhân mình mà phủ
nhận những tài năng khác mà trái lại, với những nhà thơ có tài, với những vần thơ hay ông
rất trân trọng, ca ngợi trước độc giả để phát huy tài năng của họ. Trong một bài nói về thơ
Xuân Diệu, Thế Lữ, bằng cảm quan đặc biệt, bằng cách phân tích thơ vừa khoa học vừa cảm
tính đã đưa ra những nhận định chính xác, được kiểm chứng là sự thành công của Xuân
Diệu ở thể loại văn học này. Ông viết “Người ta đoán thấy dáng điệu đê mê bát ngát của
người thi sĩ đa tình trong lúc say sưa đau đớn, người ta hưởng những vị chua chát kỳ dị
đằm thắm của nỗi xót thương. Có phải không, ông đã gợi ra được hết những điều mong
manh, u ẩn trong lòng người và cùng với chúng ta cùng chung những lời than thở tuyệt
vọng. Bởi vì nhà thi sĩ biết yêu theo nghĩa rộng rãi nhất của tình yêu. Ông có tấm lòng đắm
đuối nhất của tất cả mọi người; yêu nhan sắc, yêu non sông, yêu thơ ca, yêu cả những nỗi
buồn thương, nhớ tiếc. Mà yêu là yêu chứ không nghĩ đến tại sao yêu.”[NN số 46, 28] Ông
bình thơ rồi thấy tin tưởng “Sự cảm động rồi rào và quý báu của ông còn cho ta thấy nhiều
hứng vị của cái chân tài đặc biệt ấy.”[NN số 46, 28].
65
Lối bình thơ đặc biệt và rất chính xác ấy đã làm cho nhóm Tự Lực văn đoàn giao cho ông
nhiệm vụ đảm trách mục Tin thơ với những tiêu chí như ông tự giới thiệu ở loạt bài đầu tiên
“Tin thơ là chuyên mục hàng tuần về thơ ca () Tin thơ sẽ phê bình những thi phẩm trong
nước (hoặc ở nước ngoài) sẽ chú ý đến những thi tài mới, và nhất là trả lời những câu của
các bạn làm thơ đã đem thơ mình hỏi ý kiến chúng tôi.” Những tác phẩm thơ gửi về phần
nhiều chỉ là “chứng cớ của sự nhiệt thành với văn chương mà thôi: thường thường là những
bài lời thơ còn gượng, còn non, nhưng cũng có những điểm hay, đáng khuyến khích “Tin
thơ” sẽ bình phẩm những bài thơ ấy trong mấy lời vắn tắt và thành thực, và nếu có dịp, sẽ
nhân đó nói đến cái nghệ thuật làm thơ.”[NN số 80, 7]. Trong luận án tiến sĩ của Phạm
Đình Ân có nói “Ở mục Tin thơ (chuyên về khen) do ông đảm trách”[5, 154]. Thực ra
trong quá trình tìm hiểu mục này ở báo Ngày Nay chúng tôi thấy đúng là mục Tin thơ của
Thế Lữ xuất hiện 29 lần đều do ông đảm trách và có rất nhiều tác giả, tác phẩm thơ gửi đến
nhưng phần nhiều là những lời phàn nàn, góp ý của ông. Theo thống kê của chúng tôi, số
lượt tác giả mà Thế Lữ nhắc tới trong tin mục này của mình là 100 lượt trong đó có 78 lượt
là ý kiến chê chiếm 78%, ý kiến khen nhiều hơn chê có 14 lượt chiếm 14%, ý kiến khen có
8 lượt chiếm 8%. Rất nhiều những bài thơ, câu thơ được Thế Lữ đưa ra lời bình phẩm
nhưng chủ yếu là thơ chưa tốt với dụng ý cho tác giả nhận ra và sửa chữa. Ông dùng rất
nhiều từ, cụm từ có thể kể ra như làm thơ nhạt nhẽo, quê mùa mộc mạc quá, không hiểu âm
luật thơ, lời thơ rườm rà, cái vui không quý giá, quá dấn thân vào cảnh trụy lạc, kì dị và
ghê gớm, những tiếnglập dị để làm cho thơ ra vẻ dị thường, ý tứ rời rạc và những hình
ảnh ngộ nghĩnh, vụng về hồ đồ và rất nhiều khi vô ý, câu đểnh đoảng những ý sẵn trong
những lời sáo, những câu yếu ớt vì không đủ rõ, những sự yêu thương hay nhớ tiếc vẩn vơ
phô diễn trong những lời không có đặc sắc, giọng cổ kính giả vờ, những cốt cách trang
nghiêm đi mượn của người một cách vụng dại,Thế Lữ đặc biệt phê phán lối làm thơ đễ
dãi, cẩu thả, thiếu cảm xúc. Những “câu thơ bằng phẳng, mộc mạc, không có dấu hiệu của
sự cảm xúc đằm thắm, mạnh mẽ.” “những tiếng sẵn, những lời dễ dãi”[NN số 80, 7] được
Thế Lữ nhận xét khi nói về thơ của ông Trần-tử-Há, Nguyễn-quang-Trứ. Ông nói bài thơ
“Hồ khuya” của Thiếu Hoa “có khiếu về vần điệu, nhưng cũng tỏ ra không có cảm xúc sâu
xa”[NN số 82, 9]. Thơ ông Bảo trúc Sơn thì “Cái khiếu dẫn lời và điệu thơ, ở ông Trúc Sơn
thực rõ ràng và vững chãi. Nhưng người ta muốn ông dục hồn cảm động hơn nữa, tha thiết
hơn nữa, để cho lời thơ rung động thực bởi cảm xúc dồi dào”[NN số 88, 9]. Thơ là sự rung
động của tâm hồn, bình thơ, nhận xét thơ cũng là một điều rất khó. Ngoài những nguyên tắc
66
chung khi phân tích thì người bình thơ phải có một nhãn quan nghệ thuật đặc biệt. Nhà phê
bình phải cảm được trong những giọng điệu thơ đó, đâu là cảm xúc chân thành, xuất phát từ
con tim, đâu chỉ là những lời có cánh, sáo rỗng. Công việc bình thơ khó khăn vì nếu bài hay
mà mình không phát hiện ra thì sẽ đánh mất cơ hội cảm thụ cái đẹp của người đọc, nếu bài
dở mà mình không chê thì người khác không thấy cái dở để tránh. Nhiều khi ranh giới giữa
cái hay thực sự và cái dở chỉ là sự “dung dị và dễ tính trong sự làm thơ” và ông nêu suy
nghĩ “Dung dị là viết thành thơ những ý rất hay, những vẻ đẹp rất hữu duyên bằng những
lời nhẹ nhàng và bay bướm.” “thơ tự nhiên đẹp như miệng cười tự nhiên hé nở, ngây thơ và
dí dỏm vì đơn giản mà đặm đà. Tình cảm của thứ thơ này phơi phới và nhảy nhót như thứ
ánh sáng vui đùa trên hoa lá.”[NN số 93, 9]. Có những bài thơ như của Xuân Diệu, Tản Đà,
Nguyễn Nhược Pháp, Văn Quân, Nguyễn Bính, được Thế Lữ rất trân trọng. Nhận xét về
thơ xuân của Tản Đà ông nói “Ý thơ mới nhẹ nhàng bay bướm làm sao! Lời thơ cũng vẫn
giữ được vẻ giản dị lẳng lơ mà chúng ta đã từng yêu trong các thi phẩm đầu tiên của nhà
thi sĩ. Tản Đà vẫn còn trẻ mãi, nghĩa là vẫn còn xuân mãi, vẫn phong phú lãng mạn và vẫn
đơn sơ trong tâm tình.” [NN số 97, 11]. Ông khen những bài thơ hay và lợi ích của nó mang
lại “đem cho ta những thú vị, lại nhắc cho ta tin, ta nhớ rằng văn chương của thiên nhiên,
của tâm hồn mỗi ngày có thêm người tài hoa hết lòng ca tụng.” [NN số 80,7]. Nhưng những
bài thơ, nhà thơ được Thế Lữ “khen” thật ít. Nhiều bài thơ gửi tới làm ông buồn nhiều hơn.
Ông phê phán “lời thơ quá đơn sơ, quá mỏng manh” “ý thơnghèo nàn”, “không xúc
động mạnh mẽ lắm, không thấm thía lắm” “vẻ đẹp nhẹ nhàng dễ thấy, không hay đều, lời dễ
dãi”, “hững hờ quá, quá mộc mạc” “sống sượng”. Ông nhận thấy “sự cẩu thả của nhà làm
thơ, sự trễ nải của thi sĩ đối với cảm tưởng của lòng mình và làm cho bài thơ, đáng lẽ rất
đẹp thành tối tăm và hỗn độn”[NN số 89, 9]. Sự cẩu thả, trễ nải này do nhiều nguyên nhân
những có một nguyên nhân mà các nhà làm thơ “dễ dãi” quá thường gặp phải là đi lấy ý của
người khác “Thơ có những tiếng nhắc tôi nhớ tới những bài thơ khác, hay nếu không hẳn
lấy ở những thơ khác, nhưng nghe cũng đã quen tai”[NN số 91, 9]. Thơ là tiếng lòng những
không phải là sự tự do tuôn trào cảm xúc vô tổ chức, lộn xộn, một thứ tự nhiên chủ nghĩa
thái quá. Thơ ông Nguyễn Vân được Thế Lữ nhận xét “Cái kho tình cảm của ông có nhiều
của báu, nhưng ông nên sắp đặt cho có mỹ quan hơn. Sự thành thực của ông vẫn phải đúc
lại cho gọn gàng và lúc nào cũng nên giản dị khi phô diễn những hình ảnh phức tạp”. [NN
số 94, 9].
Người làm thơ là người lấy thơ để gửi gắm tâm tình, tình cảm, cảm xúc của cá nhân
67
mình. Do đó họ muốn làm thế nào là tùy họ. Nhưng nếu người làm thơ ấy muốn bộc lộ tình
cảm ấy trước mọi người, tạo sự đồng cảm thì người viết phải cẩn trọng hơn khi dùng ngòi
bút vì phải chú ý, tôn trọng một đối tượng nữa là độc giả. Đứng ở vị trí người đọc thơ, Thế
Lữ nói lên mong muốn của họ để nhắc nhở những thi sĩ “Chúng ta là người đọc thơ, nên
chúng ta có một sự mong muốn ích kỷ đôi chút. Ta muốn thi sĩ đừng quên lãng vội, và cay
đắng nữa, chua sót mãi, để cho những giọt lệ kia đọng thành những hạt ngọc quý nó bắt ta
nâng niu một cách đau đớn- nghĩa là nó khiến ta hài lòng hơn.”[NN số 90, 9].
Trong quá trình tìm hiểu về tin mục này chúng tôi nhận thấy: Thơ, tình yêu đối với thơ
của Thế Lữ vẫn luôn luôn mãnh liệt. Tuy không trực tiếp sáng tác ra những vần thơ tạo ra
làn sóng như thời kỳ đầu nhưng ông đã góp phần không nhỏ tạo cách nhìn đúng đắn về thơ,
tạo cho thơ “thời kỳ hỗn mang” ấy những quy tắc nhất định để nó đi vào ổn định, có thực
chất hơn. Ông luôn cho rằng “một áng thơ hay, là một kết quả của thi tài, nhưng cũng là kết
quả của sự mực thước, sự suy nghĩ, sự thận trọng” “Thơ, cũng như bao tác phẩm nghệ
thuật khác, phải có một kỷ luật; không phải thứ luật lệ hà khắc theo cái quan niệm cổ điển
của văn thơ Tàu, nhưng đó là sự vâng theo nhưng điều kiện thiên nhiên và vĩnh viễn trong
mọi công trình sáng tác” , “những lời thơ, nhịp thơ và những ý tưởng, hình ảnh phải chân
thành, phải có một ý chí, một dấu hiệu riêng” [NN số 112, 11]. Và sau này, dù bao nhiêu
năm trôi qua những quan điểm này về thơ của ông vẫn còn thấy đúng đắn “Hình thức thơ có
đổi, quan niệm về thơ cũng có khác, theo tư tưởng, theo hoàn cảnh, và theo cuộc đời mỗi
ngày một mới lạ thêm. Nhưng Thơ ở đâu và bao giờ cũng vẫn là thứ tiếng của tâm hồn và
chỉ ở trong thơ những tình cảm uẩn khúc, mong manh, tinh vi, kỳ ảo của tâm hồn mới có thể
biểu lộ ra được. Bởi vì những lời thơ reo xuống trong phút anh linh rung động của ta, sẽ âm
thầm vang lên những ý dồi dào và gợi lên những cái “đẹp” thấm thía, đặm đà, Cái đẹp ấy,
sự tinh tế khúc chiết của lối văn thường không thể cho ta thấy được.”[NN số 80, 19].
Vừa phê phán những bài thơ chưa đủ giá trị thẩm mỹ vừa cho cách thức để tạo ra những
sản phẩm văn chương hay hơn, vừa khuyến khích những tài năng thơ, Thế Lữ đã góp phần
tạo ra sự hứng thú làm thơ và góp phần làm cho thơ ca nước ta giai đoạn đó có những bước
tiến nhảy vọt nhất định cả về số lượng và chất lượng. Những bức thư hoan nghênh và số
lượng các tác phẩm thơ gửi về ngày một nhiều, một thêm sốt sắng. Mọi người không dửng
dưng với cuộc đàm đạo trên báo mà còn đến tận tòa soạn chơi và nhận thấy rằng bên cạnh
những chuyện hoa, trăng, sương, nước dìu dặt êm đềm cũng vẫn còn “những hương thơm,
những ánh sáng khác.”. Có nhiều người thư gửi về, trong một bức thư có đoạn “Tôi không
68
biết làm thơ, song những lời phê bình của ông mở cho tôi được thấy một thế giới lạ. Tôi yêu
đọc thơ hơn trước và yêu những tác phẩm của các thi sĩ một cách thông minh hơn.”[NN số
121, 9]. Nhiều tác phẩm gửi về sau tốt hơn tác phẩm trước đã làm cho Thế Lữ thấy phấn
khởi “sự tấn tới trong những tác phẩm của nhiều bạn tôi đã đọc trước kia là những chứng
cớ cho tôi biết rằng tôi đã được như ý nguyện”[NN số 112, 11].
Bằng tài năng và cái tâm trong sáng, từ mục “Tin thơ”, Thế Lữ đã góp tiếng nói của
mình giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tạo vẻ đẹp cho thơ ca.
Bút danh Lê ta, Thế Lữ dùng cho các chuyên mục còn lại. Ngày 30 Mars 1934 Thế Lữ
đảm trách mục Cuộc điểm sách, sau này có lúc có tên Điểm sách, Cuộc điểm sách tốc
hành. Mục này có nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu, phê bình những cuốn sách có tính cách văn
chương. Qua các bài của mục này, Thế Lữ đã tỏ ra là người có khả năng đọc rất nhiều sách
về văn, thơ và các hoạt động nghệ thuật khác có liên quan, ảnh hưởng tới văn học nghệ
thuật. Thế Lữ phê phán lối viết văn cẩu thả, dùng những từ ngữ cầu kì, sáo rỗng. Ông nhận
xét về cuốn truyện Trên núi voi của Lưu Trọng Lư do Ngân Sơn Tùng Thư xuất bản là một
“cuốn văn vô nghĩa lí”, câu chuyện nhạt nhẽo “đầy những giọng triết lí kiểu cách”. Nhưng
ông cũng thấy hình như đây không phải là cái dở do một lối văn dưới tầm, cẩu thả mà là do
Lưu Trọng Lư muốn viết một cuốn văn khôi hài “Ông Lưu cố ý cho người ta biết đó là thứ
văn ngô nghê mà không bao giờ ông ưa nếu ông làm văn đúng đắn”[PH số 91, 8].
Ông cũng cho thấy cần phải có sự đầu tư, phải giản dị trong cách viết. Luận quốc văn là
cuốn sách do Nguyễn-đức-Bảo, Đoàn Quán và Vũ-Văn-Quán soạn. Sau khi phân tích ông
cho rằng quyển sách mang những “câu sáo, chữ sẵn, đặt theo cú pháp cũ rích, diễn đạt
những lí sự rỗng không”, các ông (Nguyễn-đức-Bảo, Đoàn Quán và Vũ-Văn-Quán) “tả
cảnh bằng văn biền ngẫu, thuật truyện bằng văn biền ngẫu, mà cho chỉ người trong truyện
cãi nha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2014_06_17_6508109254_7574_1871565.pdf