Luận văn Việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

Đức Thọ là một huyện nằm ở khu vực miền trung, về cơ bản huyện được hình

thành ba vùng sinh thái rõ rệt đó là:

+ Vùng kinh tế núi đồi - bán sơn địa hay còn gọi là vùng Thượng Đức bao

gồm 9 xã: Đức Lạc, Đức Đồng, Đức Lạng, Đức Hòa, Đức Long, Đức Lập, Đức An,

Đức Dũng, Tân Hương, vùng có lợi thế và tiềm năng về đất đai thích hợp với phát

triển kinh tế trang trại, chăn nuôi đại gia súc theo hướng tập trung khai thác quỹ đất

để phát triển nông nghiệp, tập trung phát triển đàn bò lai sin, lợn siêu nạc, phát triển

trang trại theo quy mô lớn.

Hiện nay, số lượng lao động của vùng kinh tế núi đồi - bán sơn địa vào khoảng

17.550 người chiếm 51,01% dân số của vùng, với diện tích đất tự nhiên là 9.346,2 ha.

Vùng này hiện đang giành 50% diện tích gieo trồng để sản xuất lúa màu, chuyển đổi

vườn tạp sang trồng các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế như: cam, chanh. tập trung

thâm canh các giống lúa có năng suất cao, phát triển chăn nuôi theo mô hình trang

trại, khuyến khích chăn nuôi hộ gia đình, giá trị sản xuất thu được chiếm khoảng 30%

giá trị sản xuất của toàn huyện.

+ Vùng lúa gồm 11 xã: Đức Lâm, Đức Thanh, Đức Thủy, Trung Lễ, Đức

Thịnh, Thái Yên, Yên Hồ, Đức Nhân, Bùi Xá, Đức Yên, Tùng Ảnh số lượng lao

động làm việc trong nông nghiệp lớn chiếm 91,8% lao động của vùng lúa, trong khi

đó trồng trọt chủ yếu là cây lúa, vùng này mang tính thuần nông nặng và chuyển

dịch kinh tế rất chậm, vì vậy vùng thích hợp với việc phát triển kinh tế nông nghiệp,

chăn nuôi đàn gia súc, tích tụ ruộng đất để mở rộng các trang trại, gia trại cho các

hộ gia đình như: cá, lúa, cỏ, bò.

+ Vùng đất phù sa gồm 7 xã: Trường Sơn, Liên Minh, Đức Tùng, Đức Châu,

Đức La, Đức Quang, Đức Vĩnh. Đặc điểm của vùng này là thường chịu ảnh hưởng

của lũ lụt. Vùng đất phù sa với nền văn hóa lâu đời, nhiều di tích lịch sử như đền

Kim Quy, chùa Phượng Tường. thích hợp với phát triển du lịch, thêm vào đó vùng

một số làng nghề truyền thống như mộc, đan lát, đóng thuyền ở xã Trường Sơn.

So với năm 2007, cơ cấu lao động theo vùng đã dần hợp lý hơn, số lao động

ở vùng lúa năm 2007 là 38.560 người, tới năm 2010 đã giảm xuống còn 23.410

người, điều này cho thấy, một bộ phận lao động nông nghiệp của vùng lúa đã

chuyển sang lao động ở vùng đất phù sa, vùng núi đồi - bán sơn địa, một số lao

động khác đi xuất khẩu lao động. Sự dịch chuyển này có tác động tích cực tới

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phân công lao động trên địa bàn huyện phù

hợp với lợi thế của từng vùng.

Tuy nhiên, sự phân bố lao động trên địa bàn huyện Đức Thọ không đồng đều,

số lượng lao động ở vùng lúa vẫn còn chiếm số lượng lớn với 23.410 lao động,

vùng đất phù sa 10.676 lao động, số lượng lao động ở vùng này chủ yếu vẫn là nông

nghiệp, lao động trồng lúa vẫn chiếm số lượng lớn song hiệu quả thấp, chính vì vậy

hiện tại vùng này nên chuyển sang trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày và các

loại rau sạch phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Về cơ bản, cơ cấu của lao động ở nông thôn trên địa bàn huyện thể hiện tính

thuần nông, trong tổng số 28.217 hộ dân ở địa bàn huyện năm 2010 thì có tới

pdf96 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 người) và 93,4% dân số tập trung ở khu vực nông thôn (97.659 người/104.564 người); dân số tập trung ở khu vực thành thị là 6.905 người chiếm 6,6%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của huyện 20% (toàn tỉnh là 32%). Việc làm cho người lao động đang rất là khó khăn, trên 60% số chổ làm mới được tạo ra phụ thuộc vào công tác xuất khẩu lao động và đưa lao động đi làm việc ngoại tỉnh [24]. Học sinh, sinh viên sau khi hoàn thành các chương trình đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp chưa tìm được việc làm đang tồn dư với số lượng lớn, đã tạo ra sự lãng phí lớn về nguồn lực trên địa bàn. Nhìn chung lực lượng lao động có trình độ văn hóa khá, nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp, lực lượng lao động trên địa bàn đa phần là lao động phổ thông, việc làm còn theo mùa vụ, còn nhiều thời gian nhàn rỗi, có một số lao động đi làm ngoài tỉnh, trình độ lao động còn hạn chế. Trong những năm gần đây, công tác giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động có nhiều tiến bộ thông qua việc đầu tư vốn từ các dự án, các chương trình vay vốn qua ngân hàng chính sách xã hội huyện, qua các tổ chức đoàn thể đã tạo không ít việc làm cho người lao động trên địa bàn. Đồng thời, huyện đã phối hợp với Trường Kỹ nghệ của tỉnh đóng trên địa bàn huyện tổ chức mở lớp đào tạo nghề và tổ chức tháng Hội chợ việc làm nhằm giới thiệu và thu hút các đối tượng lao động trên địa bàn vào các công ty, xí nghiệp ở các cụm tiểu thủ công nghiệp và làng nghề của huyện và các công ty, đồng thời tổ chức giới thiệu tạo điều kiện đi lao động ở thị trường nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 40 Tiềm năng du lịch của huyện Đức Thọ phong phú và đa dạng, có nhiều phong cảnh đẹp, lại có các di tích văn hóa lâu đời, giữ vai trò chính trong việc thu hút khách đến du lịch và tham quan. Hiện trên địa bàn huyện có 94 di tích, trong đó có 14 di tích được xếp hạng, tiêu biểu như di tích văn hóa Nguyễn Biểu, mộ Phan Đình Phùng, mộ Trần Phú Tiềm năng du lịch tự nhiên kết hợp với du lịch nhân văn sẽ tạo ra một nguồn lực đáng kể cho phát triển KT-XH của huyện trong những năm tới, trong mối quan hệ liên doanh liên kết với các trung tâm du lịch lớn của vùng và của tỉnh. 2.1.2.2. Đặc điểm về kinh tế Đức Thọ là huyện nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 2006 - 2010 là 14%, nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu kinh tế, trong nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt chiếm tỷ lệ cao trên 70%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa mạnh, làng nghề chủ yếu tập trung ở 3 xã như: mộc Thái Yên, đóng thuyền Trường Sơn, nghề làm bún bánh ở thị trấn Đức Thọ, ngoài ra còn có một số các nghề khác như xây dựng, khai thác cát sỏi, mây tre đan, gạch ngói nhưng chưa phát triển, giá trị thu được từ ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp hàng năm đạt hơn 100 tỷ đồng, ngành thương mại - dịch vụ có tiềm năng nhưng chưa được khai thác. Đức Thọ có hệ thống đường lộ, đường sông, đường sắt chạy qua thuận lợi cho việc giao lưu thương mại. - Về nông - lâm – ngư nghiệp Trên địa bàn huyện Đức Thọ, trồng trọt là nền tảng của sản xuất nông nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm cho dân cư, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, là cơ sở để phát triển chăn nuôi và còn là nguồn xuất khẩu có giá trị theo giá trị sử dụng, lúa là cây trồng chính, diện tích gieo trồng cây năm 2010 là 17.069ha. Diện tích các cây công nghiệp có xu hướng tăng lên từ 1.356ha năm 2006 lên 1.403ha năm 2010. Có thể thấy trong giai đoạn vừa qua cơ cấu trồng trọt đã có sự chuyển dịch theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng dần dần phá thế độc canh của cây lúa, theo hướng giảm diện tích, nâng cao cây trồng, tạo điều kiện để tiến hành lựa chọn cây trồng, vật nuôi theo tiềm năng và lợi thế của huyện nhằm tạo ra năng suất cao trên đơn vị diện tích canh tác. ĐA ̣I H ỌC KIN H T Ế H UÊ ́ 41 Có thể thấy diện tích và sản lượng một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu của huyện qua bảng sau: Bảng 2.2: Diện tích và số lượng một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu của huyện Đức Thọ Chỉ tiêu ĐVT Năm 2006 2010 Diện tích gieo trồng cây hằng năm ha 16.654 17.069 Diện tích cây lương thực ha 12.066 12.543 Diện tích cây chất bột có củ ha 601 297 Diện tích cây công nghiệp ha 1.356 1.403 Diện tích rau đậu ha 2.465 2.697 Diện tích cây thức ăn gia súc ha 166 128 Sản lượng cây lương thực có hạt tấn 59.818 63.215 - Sản lượng cây lấy hạt( ngô, kê) tấn 3.732 7.617 - Sản lượng lúa cả năm tấn 56.086 55.598 Năng suất lúa cả năm Tạ/ha 54,12 51,45 Tổng đàn trâu con 5.496 6.270 Tổng đàn bò con 22.323 16.896 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006, 2010) Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện đạt khá đồng đều trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản. Năng suất sản lượng năm sau cao hơn năm trước, đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đưa giống mới vào sản xuất làm tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, có thể nói bộ mặt nông nghiệp, nông thôn huyện Đức Thọ đã ngày càng thay đổi theo chiều hướng tích cực. Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, từng bước gắn với công nghiệp chế biến và thị trường với giá trị gia tăng cao. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 42 Bảng 2.3: Giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện Đức Thọ năm 2006 - 2010 ĐVT: Tỷ đồng Giá trị Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng số 211,812 185,710 226,571 302,808 232,097 Trồng trọt 133,864 113,341 150,958 134,136 133,689 Chăn nuôi 66,416 60,560 64,459 64,197 93,502 Dịch vụ nông nghiệp 11,532 11,809 11,154 4,475 4,905 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006 - 2010) Ngành chăn nuôi của huyện tuy số lượng lao động không nhiều nhưng cũng đóng góp vào sự tăng trưởng của huyện, tỷ trọng ngành chăn nuôi ngày càng cao trong nông nghiệp, góp phần đáp ứng nhu cầu thực phẩm trên địa bàn và đem lại thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Đến năm 2010, giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi là 93.502 triệu đồng. Ngành chăn nuôi tại địa phương phát triển theo hướng sử dụng các giống lai, giống thuần và bước đầu tổ chức chăn nuôi theo hướng tập trung tại một số vùng như vùng tập trung nuôi bò ở xã Bùi Xá, chăn nuôi gia súc, gia cầm ở xã Đức Lập, Đức Hòa. Công tác lâm nghiệp có những chuyển biến tích cực, đến nay đã trồng được 836 ha rừng và đã giao được 315,16 ha đất rừng cho 144 hộ gia đình quản lý đạt 38% diện tích đất rừng trồng [22]. Lâm nghiệp không phải là một thế mạnh của huyện Đức Thọ, phần lớn hoạt động sản xuất lâm nghiệp là khai thác nhỏ lẻ. Bên cạnh phát triển sản xuất lâm nghiệp và nông nghiệp, hoạt động sản xuất thủy sản đã được quan tâm và phát triển. Ngành thủy sản phát triển chủ yếu là hoạt động nuôi trồng các thủy sản nước ngọt và một số sản phẩm thủy sản có giá trị như ba ba, tôm càng xanh, lươn ếch... - Về công nghiệp - xây dựng Ngành công nghiệp của huyện Đức Thọ chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp, hầu như không có công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo. Tuy vậy, trong những năm qua, tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp xây dựng không ngừng tăng. Một số ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 43 ngành nghề đạt giá trị khá như sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác cát sỏi, gia công sắt, chế biến nông lâm sản... đặc biệt là các làng nghề truyền thống như sản xuất mây tre đan tại xã Trường Sơn và làng mộc tại Thái Yên thu hút được rất nhiều lao động. Năm 2010 số lao động trong khu vực nghề, làng nghề là 2.157 người. Như vậy, sự phát triển làng nghề đã giải quyết nhiều việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người lao động khu vực nông thôn, nhất là lao động nông nhàn. Điều đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp và ổn định chính trị xã hội ở khu vực nông thôn. Bảng 2.4: Một số sản phẩm tiểu thủ công nghiệp chính Loại sản phẩm ĐVT Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Gỗ xẻ m3 53.250 53.870 54.851 11.250 16.100 Đóng thuyền mới cái 67 53 31 36 30 Giường Cái 4.287 4.328 4.532 11.580 11.424 Tủ Cái 2.535 2.453 2.568 6.600 8.640 Bàn ghế Cái 5.540 5.635 6.250 11.160 17.357 Cát sỏi m3 63.700 72.400 78.500 150.000 212.500 Cửa sắt m2 9.365 11.400 11.170 12.920 11.270 Gạch xây 1000V 29.350 29.045 26.600 40.534 51.750 Sản xuất rượu 1000 lít 788 887 1.002 13.860 14.700 Đồ mộc các loại Cái 5.681 5.938 82.342 82.342 83.860 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006 - 2010) Cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng cũng không ngừng thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng ngành xây dựng và giảm tỷ trọng ngành công nghiệp. Vì thế, trong tổng số các cơ sở công nghiệp ở huyện Đức Thọ, các loại hình sở hữu tư nhân như là tiểu chủ, tư bản tư nhân rất ít hoặc tăng chậm, số lượng cơ sở công nghiệp tập trung chủ yếu vào các ngành chế biến thực phẩm, sản xuất sản phẩm kim loại, gạch men. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 44 Riêng các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp nông thôn mang tính tự phát, với quy mô nhỏ, trang thiết bị lạc hậu. Trên thực tế nông dân rất ít khi chuyển nhượng đất nhưng do dân số tăng nhanh nên quy mô sản xuất của các hộ ngày càng thu hẹp dần, thu nhập từ nông nghiệp của một số hộ gia đình không đảm bảo mức tự cung tự cấp. Trong khi đó lao động dư thừa đang trở thành gánh nặng mà kinh tế nông thôn không thể thu hút hết. Do đó, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, trong đó công nghiệp nông thôn là cách đi thích hợp nhất để tạo việc làm cho người lao động mà vẫn giữ được họ ở lại nông thôn. Nhờ vậy, công nghiệp nông thôn đã góp phần cùng với ngành công nghiệp của huyện đóng vai trò quan trọng trên các mặt như: tạo công ăn việc làm cho lao động và góp phần giảm đói nghèo cho dân cư nông thôn; đa dạng hoá thu nhập của nông thôn và làm tăng khả năng dự phòng rủi ro, giảm sức ép di cư từ nông thôn ra thành thị. - Dịch vụ - thương mại Thương mại - dịch vụ trong những năm gần đây có bước phát triển khá. Thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện đang từng bước được mở rộng, gắn sản xuất với lưu thông hàng hóa, năm 2006, tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội trên địa bàn huyện là 110 tỷ đồng , đến năm 2010 tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội trên địa bàn huyện đạt 649 tỷ đồng (xem bảng 2.5). Tuy nhiên các lĩnh vực và quy mô hoạt động của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất trong ngành dịch vụ còn nghèo nàn, hoạt động thương mại buôn bán chủ yếu là các sản phẩm phục vụ nhu cầu trực tiếp, thiết yếu của người dân địa phương, các hoạt động dịch vụ còn quá ít, chất lượng thấp. Hiện trên địa bàn huyện hoạt động thương mại dịch vụ chủ yếu là kinh tế tư nhân và cá thể tiểu chủ. Thương mại - dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Hệ thống chợ, cửa hàng tiếp tục được đầu tư nâng cấp và mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới được hình thành và phát triển như dịch vụ sản xuất nông nghiệp, xăng dầu, vận tải, điện tử. Dịch vụ bưu chính - viễn thông phát triển khá, tái cơ cấu về mặt tổ chức để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mạng lưới thông tin liên lạc thông suốt ở hầu hết các khu vực trên địa bàn huyện Đức Thọ. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 45 Bảng 2.5: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và du lịch của huyện Đức Thọ từ năm 2006 - 2010 ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng số 110.000 140.000 320.000 535.000 649.000 Thương nghiệp 52.700 54.600 109.000 174.500 217.200 Ăn uống 2.140 3.600 7.000 11.500 16.000 Dịch vụ 1.160 1.400 1.800 2.000 1.800 Doanh nghiệp tư nhân 20.000 48.000 130.000 270.000 331.000 Cơ sở sản xuất và hộ cá thể trực tiếp bán sản phẩm 34.000 32.400 72.200 77.000 82.000 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ2006 - 2010) Ngành thương mại - dịch vụ trong nông thôn phần lớn là những hoạt động nhỏ lẻ, nên khó có số liệu thống kê chính xác về quy mô sản xuất của ngành thương mại - dịch vụ trong nông thôn. Tuy nhiên, hầu hết hoạt động dịch vụ trong nông thôn còn chưa thực sự phát triển mạnh so với nhu cầu của người dùng và chất lượng dịch vụ cũng chưa thật sự đảm bảo do nhiều nguyên nhân như về vốn và trình độ chuyên môn. Về mức sử dụng lao động trong ngành còn thấp. Chính vì thế, muốn tăng cường sử dụng lao động trong nông thôn cần phải quan tâm đến đúng mức tới công tác thống kê cũng như quan tâm tới vấn đề tạo điều kiện cho người dân vay vốn, nâng cao trình độ. 2.1.2.3. Đặc điểm về văn hóa - xã hội Đức Thọ có dân số hơn 104.564 người, tốc độ phát triển dân số hàng năm xấp xỉ dưới 1%, có 61.500 lao động, nguồn lao động dồi dào, lao động trẻ, khỏe chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động. Đây là nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Con người Đức Thọ thông minh, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, có truyền thống hiếu học, nơi đây là cái nôi sinh ra nhiều danh nhân văn hóa và các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Trần Phú ẠI HO ̣C K INH TÊ ́ HU Ế 46 Bảng 2.6: Một số chỉ tiêu tổng hợp về lao động - văn hóa - xã hội trên địa bàn huyện Đức Thọ năm 2010 Chỉ tiêu ĐVT 2010 Tổng số xã Xã 27 Tổng số thôn Thôn 230 Tổng số hộ Hộ 29.438 - Tổng số lao động Người 61.500 + Số lao động tham gia hoạt động trong nền kinh tế Người 52.500 + Số lao động có nhu cầu học nghề Người 7.965 - Nhóm nghề nông –lâm – ngư nghiệp Người 6.519 - Nhóm nghề công nghiệp- xây dựng Người 1.304 - Nhóm nghề thương mại- dịch vụ Người 142 + Số lao động xuất khẩu Người 1.800 Văn hóa Số gia đình văn hóa Gia đình 26.600 Tỷ lệ hộ được nghe đài % 95 Tỷ lệ hộ được xem truyền hình % 95 Y tế- xã hội Tỷ lệ xã có trạm y tế % 100 Số xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia xã 26 Số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung xã 6 Số xã có điện lưới quốc gia xã 28 Tỷ lệ hộ được sử dụng điện % 100 Số trường chuẩn quốc gia Trường 68 (Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê của huyện Đức Thọ năm 2010) Giáo dục Đức Thọ đã có những bước phát triển khá cả đại trà và mũi nhọn. Hàng năm ngành giáo dục Đức Thọ được xếp thứ nhất nhì trong hệ thống giáo dục của tỉnh. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho huyện kết hợp với ngành đào tạo giáo dục trong tỉnh, với các tỉnh khác để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 47 Bảng 2.7: Tình hình giáo dục - đào tạo của huyện Đức Thọ Cấp học ĐVT Năm học 2005 - 2006 2006 - 2007 2007 - 2008 2008 - 2009 2009 - 2010 II. Tiểu học - Trường Trường 32 30 30 30 30 - Lớp Lớp 362 351 342 332 336 - Học sinh Người 9.459 8.676 8.275 7.782 7.735 - Giáo viên Người 402 429 414 441 269 III. Trung học cơ sở - Trường Trường 18 17 17 16 16 - Lớp Lớp 291 277 256 234 243 - Học sinh Người 11.025 10.305 9.335 8.307 8.269 - Giáo viên Người 575 602 551 528 441 IV. Trung học phổ thông - Trường Trường 4 4 4 4 4 - Lớp Lớp 134 139 139 131 131 - Học sinh Người 6.775 7.567 6.296 6.234 6.234 - Giáo viên Người 249 291 225 303 303 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006-2010) - Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe Trong những năm qua, huyện Đức Thọ đã quan tâm đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực nhằm đảm bảo chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân ở tuyến cơ sở, công tác y tế và chăm sóc sức khỏe của nhân dân có nhiều tiến bộ rõ rệt. Năm 2011, tuyến y tế cơ sở ở Đức Thọ đã khám bệnh cho gần 110.000 lượt người, điều trị nội trú cho gần 17.000 lượt bệnh nhân đạt 150% kế hoạch. Hiện nay, huyện Đức Thọ đã có 27/28 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 48 Bảng 2.8: Tình hình phát triển y tế của huyện Đức Thọ từ năm 2006 - 2010 Lĩnh vực y tế Năm ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 Trạm y tế xã Trạm 28 28 28 28 28 Ngành y Người 137 131 139 141 140 Trong đó: Số bác sĩ Người 31 29 41 43 42 Ngành dược Người 5 2 7 7 7 Trong đó: Dược sĩ cao cấp Người 1 1 5 5 5 Số giường bệnh Giường 290 290 290 290 280 Trong đó: Tuyến huyện Giường 135 150 150 150 150 Tuyến xã Giường 155 140 140 140 130 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006-2010) 2.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đối với việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh 2.1.3.1. Thuận lợi Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và đặc điểm KT - XH nêu trên đã tạo điều kiện cho huyện có khả năng phát triển kinh tế một cách thuận lợi. Vị trí địa lý và hệ thống đường giao thông hiện có là điều kiện thuận lợi cho Đức Thọ phát triển sản xuất nông nghiệp, trao đổi hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân cũng như giúp lao động nông thôn tiếp cận nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ, để phát triển nông nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, trong những năm tiếp theo. Đồng thời cùng với sự tăng trưởng tương đối nhanh của kinh tế; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng đã tạo điều kiện cho nhân dân các vùng trong huyện giao lưu kinh tế văn hóa với các huyện, tỉnh bạn và các nước láng giềng, qua đó tạo được nhiều việc làm mới cho người lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng. ĐA ̣I H ỌC KIN H T Ế H UÊ ́ 49 2.1.3.2. Khó khăn Đức Thọ là huyện nằm ở khu vực miền trung, mùa mưa kéo dài, phân bổ không đồng đều trong năm làm cho hạn hán và lũ lụt thường xuyên xảy ra bất thường, gây khó khăn cho việc trồng trọt, chăn nuôi. Là huyện thuần nông, nguồn khoáng sản không phong phú cho nên điều kiện để phát triển công nghiệp quy mô lớn còn hạn chế. Rừng tự nhiên không có, diện tích rừng trồng chưa nhiều, nên độ che phủ thấp. Ngành nuôi trồng thủy sản chưa phát triển. Mặc dù huyện có tiềm năng phát triển về du lịch sinh thái, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, nhưng nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Tất cả những yếu tố trên đã tác động đến quá trình phát triển KT - XH cũng như vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng việc làm cho lao động nông thôn. 2.2. Tình hình chung về dân số, lao động của huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh Dân số là cơ sở để phát triển lao động, chất lượng lao động lại là điều kiện quan trọng để phát triển KT-XH. Thông qua các bảng sau chúng ta sẽ biết được tình hình dân số và lao động tại địa bàn huyện Đức Thọ hiện nay: Bảng 2.9: Cơ cấu dân số huyện Đức Thọ giai đoạn 2006 - 2010 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2010 Người % Người % Tổng dân số toàn huyện 116.675 100,00 104.564 100,00 1. Chia theo giới tính Nam 57.186 49,01 52.613 50,32 Nữ 59.489 50,99 51.951 49,68 2. Chia theo khu vực Thành thị 7.610 6,52 6.808 6,51 Nông thôn 109.065 93,48 97.659 93,4 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Đức Thọ 2006, 2010) ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 50 Năm 2006 Năm 2010 93,48% 6,52% Thành thị Nông thôn 93,4% 6,51% Thành thị Nông thôn Biểu đồ 2.1: Cơ cấu dân số huyện Đức Thọ giai đoạn 2006 - 2010 Qua số liệu bảng 2.9 cho thấy Đức Thọ là huyện có dân số khá đông, tính đến năm 2010 dân số tập trung đông ở khu vực nông thôn (97.659 người), trong khi đó dân số ở khu vực thành thị rất ít (6.808 người), diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên kéo theo tình trạng đó là diện tích đất nông nghiệp trên đầu người cũng giảm. Vì vậy, nếu người nông dân ở nông thôn không chủ động chuyển đổi nghề nghiệp mà cứ bám mãi vào hoạt động sản xuất nông nghiệp như hiện nay thì tình trạng đói nghèo là tất yếu sẽ xảy ra. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người dân vùng nông thôn ngày càng trở nên cấp thiết. Đức Thọ là một huyện nằm ở khu vực miền trung, về cơ bản huyện được hình thành ba vùng sinh thái rõ rệt đó là: + Vùng kinh tế núi đồi - bán sơn địa hay còn gọi là vùng Thượng Đức bao gồm 9 xã: Đức Lạc, Đức Đồng, Đức Lạng, Đức Hòa, Đức Long, Đức Lập, Đức An, Đức Dũng, Tân Hương, vùng có lợi thế và tiềm năng về đất đai thích hợp với phát triển kinh tế trang trại, chăn nuôi đại gia súc theo hướng tập trung khai thác quỹ đất để phát triển nông nghiệp, tập trung phát triển đàn bò lai sin, lợn siêu nạc, phát triển trang trại theo quy mô lớn. Hiện nay, số lượng lao động của vùng kinh tế núi đồi - bán sơn địa vào khoảng 17.550 người chiếm 51,01% dân số của vùng, với diện tích đất tự nhiên là 9.346,2 ha. Vùng này hiện đang giành 50% diện tích gieo trồng để sản xuất lúa màu, chuyển đổi vườn tạp sang trồng các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế như: cam, chanh... tập trung thâm canh các giống lúa có năng suất cao, phát triển chăn nuôi theo mô hình trang ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 51 trại, khuyến khích chăn nuôi hộ gia đình, giá trị sản xuất thu được chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất của toàn huyện. + Vùng lúa gồm 11 xã: Đức Lâm, Đức Thanh, Đức Thủy, Trung Lễ, Đức Thịnh, Thái Yên, Yên Hồ, Đức Nhân, Bùi Xá, Đức Yên, Tùng Ảnh số lượng lao động làm việc trong nông nghiệp lớn chiếm 91,8% lao động của vùng lúa, trong khi đó trồng trọt chủ yếu là cây lúa, vùng này mang tính thuần nông nặng và chuyển dịch kinh tế rất chậm, vì vậy vùng thích hợp với việc phát triển kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi đàn gia súc, tích tụ ruộng đất để mở rộng các trang trại, gia trại cho các hộ gia đình như: cá, lúa, cỏ, bò... + Vùng đất phù sa gồm 7 xã: Trường Sơn, Liên Minh, Đức Tùng, Đức Châu, Đức La, Đức Quang, Đức Vĩnh. Đặc điểm của vùng này là thường chịu ảnh hưởng của lũ lụt. Vùng đất phù sa với nền văn hóa lâu đời, nhiều di tích lịch sử như đền Kim Quy, chùa Phượng Tường... thích hợp với phát triển du lịch, thêm vào đó vùng một số làng nghề truyền thống như mộc, đan lát, đóng thuyền ở xã Trường Sơn... So với năm 2007, cơ cấu lao động theo vùng đã dần hợp lý hơn, số lao động ở vùng lúa năm 2007 là 38.560 người, tới năm 2010 đã giảm xuống còn 23.410 người, điều này cho thấy, một bộ phận lao động nông nghiệp của vùng lúa đã chuyển sang lao động ở vùng đất phù sa, vùng núi đồi - bán sơn địa, một số lao động khác đi xuất khẩu lao động. Sự dịch chuyển này có tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phân công lao động trên địa bàn huyện phù hợp với lợi thế của từng vùng. Tuy nhiên, sự phân bố lao động trên địa bàn huyện Đức Thọ không đồng đều, số lượng lao động ở vùng lúa vẫn còn chiếm số lượng lớn với 23.410 lao động, vùng đất phù sa 10.676 lao động, số lượng lao động ở vùng này chủ yếu vẫn là nông nghiệp, lao động trồng lúa vẫn chiếm số lượng lớn song hiệu quả thấp, chính vì vậy hiện tại vùng này nên chuyển sang trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày và các loại rau sạch phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Về cơ bản, cơ cấu của lao động ở nông thôn trên địa bàn huyện thể hiện tính thuần nông, trong tổng số 28.217 hộ dân ở địa bàn huyện năm 2010 thì có tới ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 52 21.138 hộ làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - thuỷ sản chiếm 74,91%, chỉ có 25,09% làm việc ở khu vực phi nông nghiệp. - Theo nhóm ngành: Quy mô và cơ cấu dân số lao động huyện Đức Thọ chia theo nhóm ngành như sau: nhóm ngành nông – lâm – thủy sản có số lượng lao động Lao động trong nông - lâm - thủy sản giảm từ 76,5% năm 2006 xuống còn 65% năm 2010. Lao động trong công nghiệp – xây dựng tăng đáng kể, nếu năm 2006 chiếm 14,2% thì năm 2010 là 17,3%. Sự chuyển dịch lao động chủ yếu từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ, năm 2006 tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ là 9,3% thì năm 2010 là 15,7% (xem bảng 2.10). Bảng 2.10: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở huyện Đức Thọ giai đoạn 2006 - 2010 ĐVT: % Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng số lao động (người) 59.853 61.002 64.216 66.540 61.500 Tổng số 100 100 100 100 100 Nông - lâm - thủy sản 76,5 72,3 71,1 70,1 65,0 Công nghiệp - xây dựng 14,2 15,9 16,3 16,8 19,3 Thương mại - dịch vụ 9,3 11,8 12,6 13,1 15,7 (Nguồn: Niên giám thống kê của huyện Đức Thọ năm 2006 - 2010) Những năm 2006, 2007 lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện chiếm tỷ trọng nhỏ, từ năm 2006 đến năm 2010 đã có sự chuyển biến về tỷ trọng lao động. Song sự chuyển dịch còn chậm, tỷ lệ lao động nông - lâm - ngư nghiệp vẫn còn khá lớn, điều này cho thấy quy mô sản xuất của các ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ còn nhỏ bé, chưa khai thác được nguồn lực sẵn có. Phát triển công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ chưa đủ lực để tạo ra sức hút lao động mạnh mẽ ở địa phương, tuy nhiên cũng đã có bước phát triển dần ổn định, đây là bước đi an toàn cho việc giải quyết việc làm trên địa bàn huyện. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 53 Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp - dịch vụ, cơ cấu ngành kinh tế của huyện đã có sự thay đổi, trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp trong vòng 5 năm trở lại đây có sự thay đổi đáng kể, lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm chuyển sang các ngành nghề khác, tỷ lệ lao động giảm từ 76,5% năm 2006 xuống còn 65% năm 2010 [22]. Nhờ có các chính sách vay vốn, thực hiện giao đất giao rừng nên số lượng lao động lâm nghiệp ngày càng tăng, cùng với đó là các giải pháp đầu tư cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản đầu tư mạng lưới sản xuất và nuôi trồng thủy sản nước ngọt nên ngành ngư nghiệp cũng đã thu hút được một số lao động, tuy nhiên tốc độ phát triển vẫn rất chậm. Trong những năm gần đây lao động trong làng nghề có xu hướng giảm mạnh, nguyên nhân chủ yếu là do sự hình thành các khu, các cụm công nghiệp, đã thu hút được rất nhiều lao động từ nông nghiệp. Mặt khác, do lao động tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvie_c_la_m_cho_lao_do_ng_nong_thon_o_huye_n_du_c_tho_ti_nh_ha_ti_nh_9123_1912388.pdf
Tài liệu liên quan