Luận văn Xây dựng một số giải pháp cải thiện việc quản lý nhà nước về các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Trang phụ bìa

Lời cam đoan . 1

Mục lục 2

Danh mục các ký hiệu. các chữ viết tắt . 6

Danh mục bảng 7

Danh mục các hình vẽ, đồ thị 8

Phần mở đầu 9

1. Tính cấp thiết của đề tài . 9

2. Mục tiêu của luận văn . 10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn . 11

4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn 11

5. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận văn . 11

6. Kết cấu của luận văn 11

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước về các dự án dự

án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh.

13

1.1. Khái niệm về dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô

thị .

13

1.1.1 Khái niệm về dự án đầu tư 13

1.1.2 Quan niệm về cơ sở hạ tầng đô thị 15

1.1.2.1 Khái niệm về cơ sở hạ tầng đô thị 15

1.1.2.2 Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị 16

1.1.2.3 Đặc điểm về cơ sở hạ tầng khu đô thị 17

1.1.3 Vai trò của cơ sở hạ tầng kỹ thuật với sự phát triển kinh tế của đô

thị .

18

1.1.4 Quản lý Nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô

thị

19

1.1.4.1 Sự cần thiết phải tăng cường quản lý Nhà nước trong xây 19

pdf109 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng một số giải pháp cải thiện việc quản lý nhà nước về các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động việc làm, phát triển đô thị hóa, tạo lập được những khu dân cư có cảnh quan kiến trúc đẹp, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội văn minh, hiện đại, góp phần quan trọng vào tăng thu ngân sách, tạo công ăn việc làm và sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Số lượng các dự án phân theo địa bàn các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh thể hiện qua bảng sau: BẢNG 04: SỐ LƯỢNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KHU ĐÔ THỊ PHÂN THEO PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TT Tên địa phương Số lượn g dự án Số lượng dự án chia theo phương thức thực hiện Đổi đất lấy công trình Thanh toán quỹ đất tương đương với tổng mức đầu tư Giao đất có thu tiền sử dụng đất Đấu giá đất 1 2 3 4 5 6 7 1 TP. Hạ Long 49 05 16 26 2 2 TP. Móng Cái 5 1 4 3 TP. Cẩm Phả 18 4 14 4 TP. Uông Bí 7 2 5 5 Huyện Đông Triều 3 3 6 Huyện Hoành Bồ 8 1 7 7 Thị xã Quảng Yên 5 1 4 8 Huyện Hải Hà 1 1 9 Huyện Đầm Hà 0 50 TT Tên địa phương Số lượn g dự án Số lượng dự án chia theo phương thức thực hiện Đổi đất lấy công trình Thanh toán quỹ đất tương đương với tổng mức đầu tư Giao đất có thu tiền sử dụng đất Đấu giá đất 1 2 3 4 5 6 7 10 Huyện Tiên Yên 1 1 11 Huyện Ba Chẽ 0 12 Huyện Vân Đồn 7 1 6 13 Huyện Bình Liêu 1 1 14 Huyện Cô Tô 0 Tổng cộng 105 5 26 72 2 “Nguồn: Báo cáo Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Xây dựng Quảng Ninh” Qua bảng trên cho thấy, các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị mới tập trung chủ yếu vào các khu đô thị lớn, có tiềm năng phát triển như: TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, TP Uông Bí, huyện Hoành Bồ. Đối với các khu vực nông thôn, miền núi có điều kiện kinh tế xã hội thấp có rất ít các dự án đầu tư, thậm chí có huyện chưa có dự án đầu tư khu đô thị như: huyện Đầm Hà, Cô Tô, Ba Chẽ. 2.2.3 Tình hình đóng góp của các dự án khu đô thị mới vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh Phát triển các Khu đô thị mới đã tạo ra nguồn thu cho ngân sách và việc làm cho người lao động. Những đóng góp của các dự án vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2006-2011 được thể hiện qua bảng sau: BẢNG 05: KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC DỰ ÁN KHU ĐÔ THỊ MỚI VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NINH Năm Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Cộng 1. Số lượng dự án dự án 18 24 26 14 18 05 105 51 2. Thu ngân sách (tiền sử dụng đất) tỷ.đ 125 250 450 560 680 130 2.195 3. Tạo việc làm Việc làm 2.700 4.600 4.900 2.100 2.600 900 17.800 4. Đóng góp vào GDP tỷ.đ 1.928 2.571 2.785 1.500 1.800 500 11.084 “Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Tài chính tỉnh Quảng Ninh” Giai đoạn 2009-2011 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đầu tư của cả nước nói chung cũng như của Quảng Ninh nói riêng. Số dự án thực hiện có chiều hướng giảm đi so với giai đoạn trước, đặc biệt là năm 2011 chỉ có 5 dự án được thực hiện, số tiền thu được cũng chủ yếu là thu nợ động của những năm trước. Bảng 05 và 06 cho thấy kết quả so sánh các chỉ tiêu để thấy được tốc độ tăng của các chỉ tiêu giữa năm trước với năm sau và so với năm 2006. BẢNG 06: TỐC ĐỘ TĂNG CÁC CHỈ TIÊU QUA CÁC NĂM ĐVT: % Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 1. Số lượng dự án 100 133 108 54 128 12 2. Đóng góp thu ngân sách (tiền sử dụng đất) 100 200 180 124,4 121,4 19,1 3. Tạo việc làm 100 222 65 54 123,8 34,6 4. Đóng góp vào GDP 100 133 108 54 120 27,8 (Nguồn: Theo tính toán của tác giả) BẢNG 07: TỐC ĐỘ TĂNG CÁC CHỈ TIÊU SO VỚI NĂM 2006 ĐVT: % Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 1. Số lượng dự án 100 133 144 78 111 11 2. Đóng góp thu ngân sách (tiền 100 200 360 448 648 104 52 sử dụng đất) 3. Tạo công ăn việc làm 100 222 144 78 111 33,3 4. Đóng góp vào GDP 100 133 144 78 119 25,9 (Nguồn: Theo tính toán của tác giả) Các chỉ tiêu tính toán được cho thấy 2 năm 2009 và 2011các chỉ tiêu đạt được rất thấp so với các năm trước và so với năm 2006. Riêng khoản tiền sử dụng đất của 2 năm này có cao hơn các năm trước là do thu được tiền nợ đọng từ các năm trước. Việc thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn này bị chậm tiến độ là do khó khăn chung của cả nền kinh tế và của tỉnh. 2.3 Thực trạng công tác quản lý Nhà nước các dự án đầu tư xây dựng cơ sơ hạ tầng các khu đô thị của tỉnh Quảng Ninh 2.3.1. Thực trạng ban hành các thủ tục hành chính liên quan đến lập, phê duyệt và thực hiện dự án Trước năm 2006, do cơ chế quản lý cũ mặt khác trong giai đoạn đầu phát triển dự án khu đô thị, chưa có kinh nghiệm nên tỉnh chưa ban hành các quy định chung về thủ tục hành chính để thực hiện các dự án đầu tư nên thủ tục hành chính cho công tác chuẩn bị đầu tư rất phức tạp và mất nhiều thời gian của nhà đầu tư, nhiều nhà đầu tư lúng túng trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư. Từ năm 2006 đến nay tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và công khai thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa ở hầu hết các khâu, các công đoạn của dự án nên thủ tục đơn giản và nhanh gọn hơn rất nhiều. Đến nay tỉnh cũng đã xây dựng cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, UBND các huyện thị xã, thành phố và các sở ban, ngành để công bố công khai các thủ tục hành chính; nghe phản ánh và trả lời các vướng mắc của các tổ chức, cá nhân, định kỳ tổ chức giao lưu trực tuyến với người dân và doanh nghiệp. Từ năm 2006 đến nay thủ tục hành chính về đầu tư đã được cải thiện rõ rệt, các văn bản liên quan đến trình tự, thủ tục cơ bản đầy đủ và công khai minh bạch đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng tìm kiếm cơ hội đầu tư, tiếp cận nhanh chóng với các thủ tục hành chính, tiết kiệm được thời gian và chi phí. Trong những năm gần đây nhà đầu tư cơ bản hài lòng với việc giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh. 53 Tuy nhiên tổng kết lại quá trình hoàn thiện thủ tục đầu tư thì nhà đầu tư vẫn phải thực hiện một khối lượng công việc khá lớn, trung bình một dự án đầu tư chỉ tính riêng việc hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư (từ khi xin chủ trương đầu tư đến khi khởi công dự án) nhanh cũng phải mất từ 1 đến 1,5 năm, nhiều dự án kéo dài trên 2 năm. Trung bình nhà đầu tư phải làm việc với khoảng 20 cơ quan, đơn vị với trên 100 con dấu các loại. Vài chục cuộc họp với các cơ quan, các ngành và chính quyền địa phương. Lý do thủ tục hành chính còn chậm ở một số vấn đề tồn tại sau: - Trình tự thủ tục về GPMB quá phức tạp, mất rất nhiều thời gian: Từ năm 2009 trở về trước tỉnh chưa có quy định chặt chẽ về thời gian giải quyết thủ tục hành chính ở từng khâu trong công tác GPMB, bên cạnh đó nhiều dự án từ năm 2008 trở về trước quyết định thu hồi đất của tỉnh không giao trực tiếp cho các huyện GPMB để giao đất cho nhà đầu tư mà mà giao trực tiếp cho nhà đầu tư phối hợp với huyện để GPMB. Mặt khác công tác GPMB chưa được kiểm tra, đôn đốc kịp thời vì vậy các địa phương ỷ lại vào nhà đầu tư, nhà đầu tư nào đến ký hợp đồng với Ban bồi thường GPMB của huyện thì huyện mới làm, Nhà đầu tư nào muốn GPMB nhanh thì phải thường xuyên bám sát lấy cán bộ làm công tác bồi thường, vì vậy công tác GPMB rất chậm và gặp nhiều khó khăn, không quy rõ trách nhiệm của Ban bồi thường và UBND cấp huyện. Đến nay còn nhiều dự án kéo dài 5-6 năm chưa giải quyết dứt điểm công tác GPMB gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư, Nhà nước, xã hội và người dân trong dự án, làm nhiều nhà đầu tư chán nản. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quy hoạch treo, dự án treo. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cuối năm 2009 Tỉnh uỷ đã có quyết định thành lập Ban Chỉ đạo công tác GPMB của tỉnh nhằm đẩy nhanh tiến độ GPMB các dự án, tỉnh không trực tiếp giao đất chưa GPMB cho nhà đầu tư mà giao cho UBND cấp huyện hoặc Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc huyện hoặc Trung tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để GPMB xong mới giao cho chủ đầu tư thực hiện dự án. Thực hiện tạo quỹ đất sạch ngay từ khâu quy hoạch thực hiện dự án để mời các Nhà đầu tư vào lập dự án đầu tư. Tuy nhiên đến nay, các Trung tâm Phát triển quỹ đất mới chỉ GPMB theo dự án đầu tư, chưa tạo được quỹ đất sạch nào ngay từ khâu quy hoạch để thu hút đầu tư như chủ trương của tỉnh. - Thủ tục đầu tư xây dựng dự án đầu tư xây dựng liên quan đến rất nhiều ngành, nhiều cấp. Mỗi cơ quan lại ban hành một quy định riêng về hồ sơ và thời gian giải quyết 54 công việc, để đảm bảo “an toàn” cho cơ quan mình thì hồ sơ của từng cơ quan khá nhiều, nhiều hồ sơ thủ tục không cần thiết. Nếu UBND tỉnh giao cho một cơ quan đầu mối để tiếp nhận, luân chuyển và trả kết quả từ khâu xin chủ trương đầu tư đến khâu hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư để thi công công trình và ban hành một trình tự, thủ tục giải quyết công việc chung của các cơ quan khi hồ sơ luận chuyển đến thì sẽ khoa học hơn và rút ngắn được thời gian rất nhiều. - Thủ tục hành chính ở một số khâu, một số công đoạn còn quá rườm rà, nhiều thủ tục không cần thiết nhưng chưa được xem xét cắt bỏ. Ngoài ra ở một số khâu vẫn còn cơ chế “xin cho” nên cũng làm thủ tục hành chính bị chậm lại. - Hiện nay rất ít cơ quan áp dụng phần mềm quản lý công việc, quản lý văn thư lưu trữ, mặt khác hệ thống phần mềm không thống nhất, mỗi cơ quan áp dụng một phần mềm, chưa có sự liên thông trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước giữa UBND tỉnh với các cơ quan chuyên môn là các sở, ban, ngành của tỉnh và giữa các cơ quan của tỉnh với địa phương. Vì vậy việc quản lý văn bản chưa khoa học, tốn kém mất thời gian, sự phối hợp, kết nối với các cơ quan với nhau trong giải quyết công việc còn chậm chễ, còn mang nặng thủ tục hành chính công văn giấy tờ. 2.3.2. Thực trạng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch Quy hoạch xây dựng đô thị là khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội- môi trường. Cơ sở của quy hoạch đô thị là hệ thống các tiêu chuẩn và các nguyên tắc tổ chức xây dựng đô thị. Dựa vào hệ thống các nguyên tắc này, theo điều kiện thực tế và chính sách, mục tiêu phát triển ngắn hạn và dài hạn; nhóm bốn đối tượng tác động chính đến kết quả đồ án quy hoạch là: các nhà quy hoạch, các nhà quản lý, các nhà đầu 55 tư và những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của quy hoạch đề xuất ra các giải pháp, mục đích, thời gian và nguồn lực cụ thể để thực hiện. Đến nay, tất cả 14 địa phương cấp huyện đều đã có quy hoạch chung xây dựng đô thị. Một số đô thị, quy hoạch chung xây dựng được duyệt đã quá 5 năm, nay được trình lập quy hoạch xây dựng điều chỉnh cho phù hợp với tiến trình lịch sử, phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ hội nhập. Vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và giúp cho các nhà đầu tư thuận lợi hơn trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư các dự án khu đô thị. Riêng trong năm 2010 tỉnh đã tập trung lập Quy hoạch chung xây dựng cho các địa phương (chưa được lập, hoặc đã quá 5 năm); Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, có biện pháp quản lý hợp lý, nắm vững hiện trạng để thẩm định đồ án quy hoạch được chính xác; Giúp các địa phương cấp huyện đào tạo cán bộ quản lý quy hoạch. Diện mạo đô thị đã đổi thay từng ngày, chất lượng đô thị được nâng lên thường xuyên, liên tục cùng với sự tăng trưởng GDP của tỉnh hàng năm khá cao đạt mức 10- 13%/năm. Tuy nhiên trong công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn một số tồn tại sau: - Nhiều quy hoạch ban đầu tôn trọng và tiếp thu ý kiến của các chuyên gia quy hoạch, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vì mục tiêu kinh tế trước mắt của nhà đầu tư và ý chí chủ quan của chính quyền địa phương nên đã nhiều lần điều chỉnh làm phá vỡ sự hài hoà của quy hoạch và mất cân đối về phân khu chức năng của đô thị. Ví dụ: Dự án khu đô thị Hà Khánh A, B,... điều chỉnh khu chung cư thành đất xây dựng biệt thự giao cho chủ đầu tư bán; điều chỉnh đất xây dựng Trung tâm Thương mại thành đất nhà ở liên kề và biệt thự để bán đấu giá thu ngân sách tỉnh; điều chỉnh đất xây dựng nhà trẻ và đất công cộng, đất vườn hoa cây xanh cách ly với hệ thống mương thoát nước và tạo cảnh quan thành đất nhà ở liền kề để thanh toán cho nhà đầu tư tiền làm đường bao biển... Qua kiểm tra phát hiện 28 dự án thuộc diện điều chỉnh quy hoạch cục bộ, điều chuyển từ quỹ đất công cộng: nhà trẻ, cây xanh, đất dịch vụ, hành lang kỹ thuật... sang đất kinh doanh (đất ở). 56 - Quy hoạch chưa được tổ chức thực hiện đúng nguyên tắc do năng lực chuyên môn hạn chế và sự can thiệp tùy tiện của nhiều tổ chức cơ quan cũng như các yếu tố khác. Khung luật pháp cho quy hoạch hiện nay còn thiếu hụt trong khi quản lý lập và thực thi quy hoạch lại khá lỏng lẻo. - Việc nghiên cứu trước khi lập quy hoạch không được xem xét đánh giá kỹ lưỡng dẫn đến tình trạng một số địa phương đô thị được phát triển ồ ạt, lượng cung về đất trong các dự án vượt quá xa so với nhu cầu nên nhiều dự án đầu tư xong để cỏ mọc, rất ít người dân xây dựng nhà ở, vì vậy dẫn đến tình trạng hạ tầng kỹ thuật bị xuống cấp, bị đánh cắp gây lãng phí cho chủ đầu tư và xã hội (TP Cẩm Phả, TP Móng Cái, huyện Vân Đồn). Ví dụ: Thành phố Cẩm Phả đến nay có số dân 164.418 người, chỉ tính riêng các khu đô thị mới có đến 18 dự án với tổng diện tích đất quy hoạch 250,6 ha, trong đó diện tích đất ở trong các dự án là 10,02 ha với khoảng 10.000 ô đất nền. Đây mới chỉ tính quỹ đất của các khu đô thị mới, chưa tính các dự án chỉnh trang mở rộng khu dân cư và các khu đất chia lô bán đấu giá của thị xã. Trong khi đó theo tính toán thì nhu cầu nhà ở thực tế tại thời điểm hiện tại chỉ vào khoảng 4.000-5.000 ô, như vậy lượng dất dư thừa 5.000-6.000 ô đất nền (dư thừa 50-60% lượng đất các khu đô thị). Việc đầu tư dư thừa đã dẫn đến lãng phí nguồn lực xã hội, tình trạng quy hoạch treo, dự án treo và tình trạng đầu cơ đất đai. - Việc khảo sát, tính toán chưa chính xác dẫn đến một số quy hoạch dự án bị chồng lấn, việc đấu nối hạ tầng các dự án bị lệch tuyến không đấu nối được phải chỉnh lại quy hoạch rất tốn kém và mất nhiều thời gian như: Dự án khu dân cư Tây bãi tắm Bến Do của Công ty cổ phần Bia rượu và nước giải khát và dự án khu đô thị mới phường Cẩm Thuỷ bị lệch tuyến hạ tầng kỹ thuật không đấu nối được; dự án khu đô thị mới trung tâm thị trấn Cái Rồng của Công ty Đầu tư phát triển Vương Long và dự án Nam cảng Cái Rồng của Công ty Thương mại Nam Sơn bị chồng lấn quy hoạch... Qua kiểm tra phát hiện 12 dự án bị chồng lấn quy hoạch, đầu nối hạ tầng kỹ thuật không đồng bộ (lệch tuyến, chênh cốt, không có điểm đấu nối hạ tầng kỹ thuật điện, nước...). - Nhiều Quy hoạch treo không tháo gỡ, hoặc không tháo gỡ kịp thời gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân như: quy hoạch dự án khu đô thị Hợp Long Đông 57 Dương - thành phố Hạ Long của Công ty TNHH Đông Dương phê duyệt từ năm 2003, dự án được phê duyệt thực hiện từ năm 2004 đến 2006 song đến nay nhà đầu tư chưa triển khai; Quy hoạch khu đô thị mới thị trấn Bình Liêu của Công ty cổ phần Kinh doanh và phát triển nhà phê duyệt từ năm 2003, dự án được phê duyệt thực hiện từ năm 2004 đến 2005 song đến nay nhà đầu tư cũng chưa triển khai; Quy hoạch khu đô thị Đồi 368 thành phố Hạ Long từ năm 2003, dự án được phê duyệt thực hiện từ năm 2003 đến 2005 song đến nay nhà đầu tư chưa triển khai được do không giải phóng được mặt bằng .... Qua kiểm tra phát hiện 15 dự án treo, quy hoạch treo. Đã xử lý thu hồi 6 dự án, 9 dự án còn lại gia hạn và yêu cầu nhà đầu tư phải cam kết thực hiện đúng tiến độ, nếu không sẽ thu hồi. - Việc công khai quy hoạch còn chậm: Việc công khai quy hoạch các dự án khu đô thị từ năm 2005 trở về trước còn chưa được quan tâm, hầu như các dự án đã được phê được phê duyệt quy hoạch, phê duyệt xong dự án nhưng chưa công bố công khai quy hoạch theo quy định. Từ năm 2006 trở lại đây công tác công khai quy hoạch đã có chuyển biến và cơ bản đã thực hiện đảm bảo quy định, tuy nhiên đến nay tỉnh chưa thực hiện công khai quy hoạch chung, kế hoạch sử dụng đất trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý chuyên ngành là Sở Xây dựng để các nhà đầu tư và nhân dân được biết mà mới chỉ dừng lại ở việc công khai quy hoạch dự án khu đô thị đã được phê duyệt tại nơi dự án. - Việc kiểm tra xử lý ngăn chặn vi phạm quy hoạch xây dựng chưa được tiến hành mạnh mẽ, triệt để nên còn nhiều hiện tượng lấn chiếm ra khỏi ranh giới đất được giao, tự ý điều chỉnh quy hoạch, thực hiện không đúng quy hoạch được duyệt.... - Sự liên hoàn giữa các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội với quy hoạch xây dựng và các quy hoạch chuyên ngành khác của một số dự án chưa đồng bộ. Trong thực tế vẫn còn sai lệch giữa quy hoạch được duyệt và thực tế hiện trường. Quy hoạch xây dựng chưa thực sự đồng bộ giữa hệ thống kết cấu hạ tầng, thiếu thiết kế đô thị, tính hiệu quả kinh tế xã hội đô thị và phát triển đô thị bền vững còn thấp. Những hạn chế nói trên do nhiều nguyên nhân: một số địa phương trong thời gian trước đây chưa có quy hoạch chung; tính chất quy hoạch đô thị phức tạp, mới mẻ; 58 các cơ quan được giao chủ trì, thẩm định còn thiếu kiến thức; các cơ quan tư vấn còn chưa đủ năng lực chuyên môn; công tác điều hành còn nặng nề, sự vụ, việc phân cấp quản lý quy hoạch và thanh tra xây dựng chưa được hoàn chỉnh. 2.3.3. Thực trạng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư và quản lý giám sát quá trình thực hiện các dự án Theo phân cấp quản lý của tỉnh Quảng Ninh, việc thẩm định dự án đầu tư xây dựng khu đô thị do Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ninh là cơ quan đầu mối chủ trì cùng các ngành, các địa phương tổ chức thẩm định trình UBND tỉnh phê duyệt. Sở Xây dựng là cơ quan chủ trì thẩm định trình UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch và thiết kế dự toán công trình. UBND tỉnh phê duyệt dự án, phê duyệt quy hoạch, phê duyệt dự toán công trình, không phân cấp cho các ngành và UBND các huyện phê duyệt. Công tác thẩm định dự án đầu tư các khu đô thị trong những năm gần đây có bước đổi mới rõ rệt và có chất lượng tốt. Việc tiếp nhận hồ sơ thẩm định dự án thực hiện theo cơ chế “một cửa” và có quy trình cụ thể nên thời gian thẩm định được đẩy nhanh, nội dung thẩm định đã bám sát các quy định của trung ương và chỉ đạo của UBND tỉnh. Chất lượng công tác thẩm định dự án được nâng lên, đã cắt giảm hàng trăm tỷ đồng khái toán tổng mức đầu tư do các Nhà đầu tư thuê đơn vị tư vấn lập, tổng mức đầu tư thẩm định sát với thực tế nên trong quá trình lập tổng dự toán sát với tổng mức đầu tư. Tổng mức đầu tư được phê duyệt đảm bảo cho quá trình thực hiện dự án đầu tư, ít phải điều chỉnh. Nội dung về đầu tư cơ sở hạ tầng của dự án (yếu tố kỹ thuật) được quan tâm đảm bảo phù hợp với quy hoạch đô thị và việc đấu nối cơ sở hạ tầng với quy hoạch khu vực lân cận dự án. Công tác phê duyệt dự án đảm bảo các quy định của pháp luật. Quyết định phê duyệt dự án của UBND tỉnh nêu rõ, cụ thể các nội dung của dự án đầu tư, các chỉ tiêu Nhà đầu tư phải thực hiện. Trong khâu tổ chức thực hiện dự án giao rõ trách nhiệm của từ cấp của từng ngành và trách nhiệm của Nhà đầu tư. Đối với công tác giám sát việc thực hiện dự án tỉnh Quảng Ninh giao cho Ban quản lý đầu tư và xây dựng công trình trọng điểm chịu trách nhiệm (tên gọi trước đây là Ban Quản lý dự án I). Mặc dù với lực lượng cán bộ quản lý giám sát hạn chế trong khi đó số lượng các dự án nhiều nằm dải rác trên các địa bàn rộng (mỗi địa bàn do 1-2 cán bộ đảm nhiệm) song trong những năm vừa qua công tác tổ chức thực hiện dự án, 59 quản lý, giám sát chất lượng công trình đã có nhiều nỗ lực, cố gắng. Trong chỉ đạo thi công, đã rất kiên quyết yêu cầu các nhà thầu vi phạm về vấn đề đưa vật tư không đúng chủng loại vào công trình, thi công không đảm bảo chất lượng đều phải làm lại. Công tác kiểm tra giám sát được sát sao hơn. Việc tổ chức nghiệm thu hạng mục công trình kịp thời đảm bảo tiến độ thanh toán vốn đầu tư, làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giúp chủ đầu tư sớm huy động vốn đầu tư mua đất của Nhà đầu tư thứ cấp và người dân để đầu tư công trình. Một số tồn tại: * Trong công tác thẩm định và phê duyệt dự án mới chỉ quan tâm đến yếu tố kỹ thuật và tổ chức thực hiện. Các yếu tố kinh tế, môi trường và các vấn đề xã hội khác trong quá trình tổ chức thực hiện dự án chưa được quan tâm, cụ thể: Trong báo cáo thẩm định của Sở Kế hoạch và Đầu tư và trong nội dung phê duyệt dự án của tỉnh mới chỉ phê duyệt các nội dung sau: - Tên dự án - Tên chủ đầu tư - Địa điểm xây dựng - Mục tiêu đầu tư - Cơ cấu sử dụng đất (thống kê cơ cấu từng loại đất trong tổng thể) - Nội dung, quy mô đầu tư của dự án: thể hiện biện pháp và tiêu chuẩn thi công của các hạng mục: san nền, đường giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước, cấp điện, thông tin liên lạc - Phương án thiết kế công trình - Phương án đền bù GPMB: mới chỉ nêu khái quát, chưa có phương án bồi thường tổng thể theo quy định của Luật Xây dựng và phát luật về bồi thường GPMB. - Khái toán kinh phí và nguồn vốn - Phương thức thực hiện: Nêu hình thức kinh doanh đất nhà đầu tư được thực hiện, các công trình hạ tầng kỹ thuật khi xây dựng xong phải bàn giao cho địa phương hay Nhà đầu tư tự vận hành, duy tu bảo dưỡng. 60 - Tổ chức thực hiện: Giao trách nhiệm cho các cơ quan, ban ngành thực hiện hoàn thiện các thủ tục đầu tư của dự án và quản lý giám sát thực hiện dự án. - Thời gian thực hiện dự án. Nội dung phê duyệt của dự án đối với một khu đô thị như trên mới đảm bảo như một dự án đầu tư xây dựng cơ bản thông thường. Đối với dự án khu đô thị thì nội dung thẩm định phê duyệt như trên chưa đáp ứng được yêu cầu của dự án khu đô thị, còn thiếu nhiều nội dung có ảnh hưởng đến tính hiện thực (khả thi) và hiệu quả của dự án, cụ thể như sau: - Báo cáo đánh giá tác động môi trường: Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải lập cùng với dự án đầu tư và được thẩm định và phê duyệt cùng với dự án. Tuy nhiên công tác này trước đây tách riêng với việc phê duyệt dự án (phê duyệt dự án xong mới làm báo cáo đánh giá tác động môi trường). Trong số 105 dự án khu đô thị của tỉnh Quảng Ninh có tới trên 60% các dự án thực hiện việc san đồi, lấp biển. Thực trạng trong thời gian vừa qua nhiều dự án được phê duyệt xong, đi vào thi công xong vẫn chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường, nhiều dự án không có khu xử lý nước thải, toàn bộ hệ thống nước thải sinh hoạt không được thu gom, xử lý mà thải trực tiếp ra khu dân cư hoặc ra biển gây ô nhiễm môi trường. Hầu hết các dự án lấn biển không hút bùn đổ đi mà đổ đất đẩy bùn ra biển làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, ảnh hưởng đến dòng chảy của Vịnh như: các dự án dọc tuyến đường bao biển Vựng Đâng, Khu đô thị mới Vựng Đâng, khu đô thị Cao Xanh Hà Khánh A,B,C đã làm ảnh hưởng đến dòng chảy của Cảng nước sâu Cái Lân, tỉnh đã phải nạo vét và đang bàn biện pháp xử lý. Các dự án dọc Vịnh Bái Tử Long Cẩm Phả cũng có tình trạng tương tự. Nhiều dự án khi thi công không có biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, tiếng ồn và bụi gây ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân khu vực gần dự án. - Phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Điều 69 Luật Xây dựng năm 2003, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định: Việc lập phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được thể hiện trong dự án đầu tư xây dựng công trình và được phê duyệt đồng thời với phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua nội dung này chưa được các ngành, các địa phương quan tâm. Hầu hết chủ đầu tư đề nghị phê duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sau khi đã có quyết định phê duyệt dự án và sau khi có quyết định thu 61 hồi đất với mục đích để hoàn thiện thủ tục. Khi thẩm định trình phê duyệt dự án đầu tư không có nội dung phương án bồi thường tổng thể, điều này dẫn đến tình trạng không đảm bảo trình tự, thủ tục về bồi thường GPMB và thu hồi đất; khái toán kinh phí không sát với thực tế; Người dân trong quy hoạch chuẩn bị bị thu hồi đất bị thụ động, không biết dự kiến kế hoạch công tác giải tỏa, phương án bố trí tái định cư. - Đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án: Trong báo cáo nghiên cứu dự án khả thi do nhà đầu tư lập đưa ra rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của dự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000000271478_3145_1951655.pdf
Tài liệu liên quan