Nối tiếp với chương trình quang học lớp 7, kiến thức vềsựkhúc xạ được trình bày ởlớp 9. Có lẽ
vì lí do toán học mà các tác giảchỉtrình bày vấn đềkhúc xạmột cách định tính (không phát biểu dưới
dạng định luật). Điều này cũng hợp lí. Vấn đềlà ởchỗviệc hình thành kiến thức ở đây cũng tiếp tục
hướng theo con đường thực nghiệm “thực tế, nhận xét và vận dụng vào thực tế”. Kiến thức vềlí thuyết ở đây không nhiều song có yêu cầu cao hơn vềnhận thức cũng nhưvận dụng. Có thểnói được nhưvậy là vì tia sáng bị“gãy” nhưng vẫn truyền liên tục qua các môi trường và truyền thẳng trong mỗi môi trường. Đối với HS lớp 9 thì đâylà vấn đềkhá trừu tượng và không dễ đểhiểu chúng. Bù lại, các thí nghiệm vềkhúc xạcũng nhưcác hiện tượng thực tế được đưa ra trong chương trình là rất dễquan sát, dễnhận xét. Ở đây, các em được rèn luyện thêm một kĩnăng đặc biệt trong quang hình học, đó là vẽtia sáng khúc xạ, mà cụthểlà vẽtia sáng qua thấu kính. Kĩnăng này khó nhưng cần thiết cho HS học quang học theo phương pháp thực nghiệm. Các vật được đưa vào ứng dụng là các máy móc quang học gần gũi. Có thểmột sốchưa bao giờtiếp xúc với máy ảnh, kính lúp song các vật dụng này không khó tìm đểtrực quan hóa cho bài học. Chắc chắn rằng các bài học sẽgây hứng thú trong quá trình học tập của các em và sẽhứng thú hơn, nếu dẫn dắt các em đi theo con đường thực nghiệm.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3137 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng một sốbài giảng trong chương Quang học-Vật lý lớp 9 theo các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động học tập rất thiết thực cho các em (các hoạt động thí nghiệm).
Nếu chỉ cần đọc qua các cuốn SGK cấp THCS, cũng có thể thấy nhu cầu thực hiện TN trong
chương trình là khá nhiều. Không kể các bài TN thực hành, ở lớp 6 có 24 TN, lớp 7 có 24 TN, lớp 8 có
21 TN và lớp 9 có 38 TN lớn nhỏ. Ý đồ của các tác giả đã rất rõ về việc sử dụng TN ở cấp học “nhập
môn VL” này. Hầu hết các TN đều có thể thực hiện được tại lớp hoặc HS tự làm ở nhà. Vấn đề là ở
chỗ, làm thế nào tận dụng các TN (dù chỉ trong SGK) để phát huy hết tác dụng của ThNVL. Đã từ lâu,
nhiều nhà khoa học về LLDH VL (Ví dụ: ở Trường ĐHSP Hà Nội, Trường ĐH Cần Thơ…) đã nghiên
cứu và đưa vào giáo trình hướng dẫn cho SVSP VL tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có để làm các
ThNVL đơn giản, rèn luyện tư duy thực nghiệm và tăng cường các hoạt động HS trong và ngoài giờ
học. Gần đây, trong công trình luận văn tiến sĩ của mình, tác giả Nguyễn Văn Giang đã nghiên cứu
tổng hợp hai phương pháp “dạy học nêu và giải quyết vấn đề” và “phương pháp thực nghiệm” thành
một phương pháp đặc trưng riêng cho mình. Đây cũng là một sự tìm kiếm nhằm nâng cao hiệu quả của
các phương pháp sử dụng TN ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, cách làm này mang nhiều tính lí
thuyết và đòi hỏi GV phải soạn giảng khá công phu. Trong luận văn này, chúng tôi muốn sử dụng
PPTN (ở trên đã sử dụng chữ viết tắt là PPThN cho các phương pháp thí nghiệm để phân biệt với chữ
PPTN – phương pháp thực nghiệm) nhưng không có ý đồ sử dụng trọn vẹn phương pháp này cho một
bài TN hoặc trong một tiết học vì nó khá phức tạp và đòi hỏi cao đối với HS cấp THCS. Ở phần tiếp
theo, chúng tôi sẽ trình bày vấn đề này.
1.7. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VL
1.7.1. Từ Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu VL đến các PPThN:
Aristot, nhà triết học thuộc nhóm các nhà bác học đầu tiên của loài người, rất uyên bác và đã có
những tác phẩm nghiên cứu về triết học tự nhiên đầu tiên làm nền tảng cho nhiều ngành khoa học sau
này của nhân loại. Tuy nhiên ông cũng để lại một số quan niệm sai lầm do một số quan điểm chính
thống về khoa học luận duy tâm của ông. Ví dụ ông cho rằng trí tuệ con người là chân lí (thực chất là
trí tuệ của ông). Nếu con người suy luận đúng thì tự nhiên sẽ là như vậy. Ông không nói đến một vấn
đề vô cùng quan trọng tiếp theo, đó là làm thí nghiệm kiểm tra những suy luận của mình. Trong các
công trình của mình hầu như mọi suy luận của ông đều rất đúng. Tuy nhiên sự ngộ nhận của ông khi
quan sát tự nhiên đôi khi đã để lại những kết luận rất đơn giản nhưng sai lầm. Ví dụ: Ông quan niệm
rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, lực làm cho vật chuyển động v..v..
Galile là người nghi ngờ học thuyết của Aristot. Ông cho rằng thế giới tồn tại tuân theo theo
những qui luật riêng của chúng chứ không tuân theo sự suy nghĩ đơn giản hay phức tạp của con người.
Theo ông, muốn hiểu tự nhiên không những phải quan sát trực tiếp, phán đoán, suy luận mà còn cần
phải làm TN kiểm tra các suy luận rồi mới có kết luận đúng đắn. Bắt đầu từ đó, ngành Vật lý thực
nghiệm ra đời. Hay nói khác đi, PPTN trong nghiên cứu Vật lý đã xây dựng nên toàn bộ bức tranh Vật
lý học cổ điển đẹp đẽ và vững chắc.
Spaski đã đưa ra các giai đoạn của PPTN trong nghiên cứu VL như sau[23]:
Giai đọan 1: Xây dựng giả thuyết (hay mô hình).
Xuất phát từ quan sát các hiện tượng mang tính qui luật trong thực tế, nhà khoa học nảy sinh ý
tưởng về bản chất chung nhưng chưa được chứng minh. Hay nói cách khác, một mô hình lí thuyết
được xây dựng một cách giả định (giả thuyết). Đây là một sự tinh túy về phẩm chất tư duy của các nhà
khoa học mà không phải ai cũng có được. Thông thường, các giả thuyết đưa ra là đúng vì nó dựa vào
sự suy nghĩ sâu sắc về bản chất các quá trình, tuy không có một con đường qui chuẩn nào để có được
nó. Vì vậy, các giả thuyết cần phải được chứng minh để trở thành chân lí. Có thể có nhiều giả thuyết
đưa ra để nhà khoa học chọn giả thuyết hợp lí nhất bằng cách từ đó có thể có các hệ quả có lí hay
không. Cho nên, để có được một giả thuyết, đa phần các nhà khoa học dựa vào trực giác của mình.
Giai đoạn 2: Từ giả thuyết suy ra hệ quả. Bằng phép suy luận logic hoặc bằng toán học, các nhà
khoa học có thể rút ra một hoặc một số kết luận để có thể kiểm tra bằng thực nghiệm. Việc suy luận để
đưa ra được các hệ quả tuy có vẻ mang tính “máy móc”(logic) nhưng không phải ở mức độ tri thức nào
cũng làm được. Đây là một bước đi rất khó, nó đòi hỏi không những kinh nghiệm nghiên cứu mà còn
một khả năng hiểu biết sâu, rộng các vấn đề VL và các thao tác các hoạt động tư duy, cấu trúc ngôn
ngữ mạnh mẽ của nhà khoa học.
Giai đọan 3: Làm thí nghiệm kiểm tra.
Giai đọan này sẽ khẳng định các kết quả suy luận, đồng nghĩa với việc khẳng định giả thuyết
(mô hình) đã đưa ra là đúng đắn. Vấn đề là ở chỗ làm sao thiết kế được TN này. Một thói quen tư duy
xen lẫn kinh nghiệm thực nghiệm mà người ta vẫn gọi là trực giác sẽ cho phép nhà khoa học tìm ra
phương án TN kiểm tra.
Giai đọan 4: Kết luận khẳng định giả thuyết.
Nếu kết quả TN cho thấy hệ quả là đúng thì những giả thuyết đề ra trước đó là đúng đắn và nó
sẽ là những qui luật của tự nhiên.
Như vậy, PPTN là phương pháp nhận thức sáng tạo trong nghiên cứu VL thực nghiệm. Qua các
giai đoạn trên cũng cho thấy rằng PPTN không phải chỉ là một “bài thí nghiệm đơn thuần”, một phép
qui nạp giản đơn mà là cả một quá trình phân tích sâu sắc các sự kiện quan sát được, khái quát các
nguyên nhân giả định, diễn dịch ra hệ quả và thiết kế TN kiểm tra.
Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu Vật lí đã được các nhà LLDH VL vận dụng vào
dạy học từ rất lâu. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã kết hợp nó với phương pháp sư phạm nhằm làm dễ
dàng hơn cho GV khi dạy và cho HS khi nhận thức. Chủ yếu vẫn là “lấy thí nghiệm” làm phương tiện
để dạy nội dung VL. Đó là các PPThN như đã trình bày ở trên. Ngày nay, các nhà nghiên cứu sư phạm
không thỏa mãn với các mức độ tác dụng tích cực của các PPThN như ta bình bàn mà muốn có tác
dụng cao hơn đối với HS. Họ muốn đưa “hình mẫu” của phương pháp thực nghiệm VL vào nhà
trường, PPDH bằng thực nghiệm gọi tắt là phương pháp thực nghiệm (PPTN).
Theo Nguyễn Đức Thâm và nhiều tác giả, PPTN được diễn ra theo các bước như sau:
Thực tiễn,thí
nghiệm… làm
nẩy sinh vấn đề
cần nghiên cứu
(câu hỏi cần trả
lời)
Suy luận logic
từ giả thuyết ra
hệ quả kiểm
tra được bằng
thí nghiệm.
Vận dụng kiến thức
Đề xuất giả
thuyết
Kiểm tra hệ
quả bằng thí
nghiệm
Hình 1.8: Sơ đồ PPTN trong dạy học vật lý
Giải thích sơ đồ:
Giai đoạn 1: Làm xuất hiện vấn đề. GV mô tả một hoàn cảnh thực tiễn hoặc biểu diễn một vài
thí nghiệm và yêu cầu HS dự đoán diễn biến của hiện tượng, tìm nguyên nhân hoặc xác lập một mối
quan hệ nào đó. Tóm lại là GV dùng cách này hay cách khác để nêu lên một câu hỏi mà HS chưa biết
câu trả lời và câu trả lời cho câu hỏi đó cũng chính là nội dung của bài học.
Giai đoạn 2: Xây dựng giả thuyết. Dựa vào những kinh nghiệm của bản thân HS, những kiến
thức đã có và những quan sát hàng ngày của các em, GV hướng dẫn, gợi ý HS tìm câu trả lời cho câu
hỏi đã nêu ở trên. Câu trả lời mang tính chất dự đoán nhưng có vẻ hợp lí.
Giai đoạn 3: Từ câu trả lời mang tính chất dự đoán ở trên, GV sẽ hướng dẫn, định hướng cho
HS dùng suy luận logic hay suy luận toán học để suy ra hệ quả. Tức là dự đoán một hiện tượng trong
thực tế hay một quan hệ giữa các đại lượng.
Giai đoạn 4: Từ hệ quả, GV sẽ hướng dẫn, định hướng cho HS xây dựng phương án thí nghiệm
kiểm tra và tiến hành thí nghiệm đó. Nếu kết quả thí nghiệm phù hợp với suy luận ở bước 3 thì giả
thuyết ở trên trở thành chân lý, nếu không phù hợp thì phải xây dựng lại giả thuyết mới.
Giai đoạn 5: Ứng dụng kiến thức. HS sẽ vận dụng những kiến thức vừa xây dựng được để giải
thích các hiện tượng trong thực tiễn hoặc dự đoán một số hiện tượng. Thông qua đó, sẽ xuất hiện một
số trường hợp mà kiến thức vừa xây dựng không thể giải thích một cách trọn vẹn, dẫn tới giới hạn áp
dụng của kiến thức và xuất hiện mâu thuẫn nhận thức mới cần giải quyết.
Tác giả Nguyễn Văn Giang thì đưa ra các bước kết hợp giữa PPTN và PPDH nêu và giải quyết
vấn đề như sau:
1.7.2. PPTN và tư duy sáng tạo
1/ Chu trình sáng tạo Razumoxki và PPTN trong dạy học VL
Thực chất, PPTN mà các nhà Vật lý đã đi sau Galile là con đường mà nhận thức luận Mac –
Lênin đã khái quát hóa (xem mục 1.3.1.3). Thí nghiệm kiểm tra chính là một lần kiểm nghiệm thực tế
trên con đường nhận thức đúng đắn. Nhà khoa học luận Razumopxki đã khái quát con đường đi của
1. Xây dựng tình huống có vấn đề. Nêu câu hỏi
2. Xây dựng câu trả lời dự đoán cho câu hỏi mới nêu ra
3. Suy luận logic rút ra hệ quả có thể kiểm tra được trong thực tiễn
4. Đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm tra hệ quả
5. Chuyển đổi phương án thí nghiệm đề xuất thành phương án thí
nghiệm khả thi thực hiện được ngay trong tiết học
6. Thực hiện phương án thí nghiệm khả thi
7. Báo cáo kết quả thực hiện phương án thí nghiệm
Phủ nhận dự đoán Khẳng định dự đoán
8. Ứng dụng kiến thức
Khẳng định tính phổ
biến của kết luận trong
thực tiễn
Hình 1.9: Sơ đồ kết hợp giữa PP NVGQVĐ và PPTN
Sự kiện
Giả thuyết Hệ quả
Thí nghiệm
kiểm tra
Giả thuyết Hệ quả
Thí nghiệm
kiểm tra
Sự kiện
Trực giác Trực giác
Logic
Hình 1.10: Chu trình sáng tạo Razumopxki
Quan sát
Giả thuyết
Hệ quả
TN K.tra
Vận dụng
Các bước
của PPTN
Phân đoạn
PPTN trong
dạy học VL
G.đoạn 1:
. Làm TN
. Quan sát
. Phán đoán
. Phát biểu
G.đoạn 2:
. Chính xác
hóa g. thuyết
. Suy luận HQ
G.đoạn 3:
. Đề xuất TN
. Phát biểu
phương án TN
G.đoạn 4:
.Thiết kế (dụngcụ)
. Thực hiệnTN
.Khẳng định GT
G.đoạn 5:
Đề xuất ứng
dụng
Hình 1.11: Các bước và phân
đoạn PPTN trong DHVL
các nhà khoa học nói chung, các nhà khoa học VL nói riêng, thường được gọi là “chu trình sáng tạo”
(Hình 1.10) bởi vì tiếp theo TN kiểm tra, có thể phát hiện ra hiện tượng mới để lại có một chu trình
khám phá qui luật mới.
Theo chu trình Razumôpxki thì hai giai đoạn quan trọng nhất thể hiện sự sáng tạo của nhà khoa
học đó là tư duy trực giác từ “Sự kiện” đến “Giả thuyết” và từ “Hệ quả” đến “Thí nghiệm kiểm tra”
(như đã phân tích ở “Các giai đoạn của PPTN nghiên cứu VL”).
Dựa vào các qui trình của PPTN VL đã được giới thiệu ở trên, kết hợp với chu trình
Razumopxki, chúng tôi đưa ra qui trình PPTN của chúng tôi như sau:
1. Quan sát hiện tượng (tự nhiên,
kĩ thuật, thí nghiệm) phát hiện vấn đề
2. Phán đoán nguyên nhân hiện tượng (giả thuyết)
3. Suy luận ra một hoặc một số hệ quả
4. Làm TN kiểm tra
- Lập phương án TN kiểm tra
- Tiến hành thí nghiệm kiểm tra
- Rút ra kết luận cho hệ quả, khẳng định giả thuyết
5. Vận dụng vào thực tế
Với qui trình 5 bước này, dựa vào các hoạt động dạy và học, chúng tôi phân thành các giai đoạn như
sau:
* Giai đoạn 1: Quan sát- phán đoán (bằng các giác quan và tư duy trực giác.
* Giai đoạn 2: Từ giả thuyết đã có đến suy luận ra các hệ quả (sử dụng các suy luận logic).
* Giai đoạn 3: Sử dụng các kết quả suy luận (một kết luận về sự vật hiện tượng, một qui luật
VL…), tìm kiếm một TN và tự tìm ra phương án của TN đó.
* Giai đoạn 4: Thiết kế và thực hiện TN đã có phương án.
* Giai đoạn 5: Đưa ra các ứng dụng từ các kết quả suy luận (khi đã được “chứng minh” bằng TN.
(Hình 1.11)
Việc phân đoạn PPTN như trên là để lựa chọn cách thực hiện các thí nghiệm sao cho phù hợp với
thời gian bài học và đặc biệt là làm “đơn giản hóa” trong việc áp dụng PPTN cho HS cấp THCS. Tất
nhiên kèm theo đó là những hướng dẫn rất cụ thể để HS quen dần với các hoạt động tư duy thực
nghiệm. Trong đợt thực nghiệm sư phạm, chúng tôi sẽ thử nghiệm các bước mang tính tư duy trực
giác. Nói cho đúng hơn, chúng tôi muốn cho HS phát huy khả năng tư duy tự do để dần dần xuất hiện
trong các em có những đề xuất trực giác khi giải quyết một vấn đề trong khoa học.
2) Áp dụng cụ thể PPTN trong dạy học vật lý
Như trên đã trình bày, chúng tôi chỉ thực nghiệm các bước “trực giác” trong PPTN đã đưa ra:
- Từ quan sát hiện tượng, đề xuất giả thuyết (Giai đoạn 1)
- Từ hệ quả, đề xuất thí nghiệm kiểm tra (Giai đoạn 3). Giai đoạn này chấm dứt ở phần đề xuất
phương án thí nghiệm (không thiết kế và thực hiện TN).
Cách làm này, chúng tôi gọi là “PPTN có giới hạn hay phân đoạn thực hiện PPTN”.
Trong chương trình VL phổ thông nói chung, VL cấp THCS nói riêng, rất nhiều ThNVL được
đưa ra cho HS. Đặc biệt ở THCS, hầu hết các bài TN từ đơn giản đến phức tạp đều được đưa vào dưới
hai hình thức: đưa ra tình huống, làm TN kiểm tra đúng hay sai và hình thức TN kiểm chứng sau khi
học lí thuyết (TN kiểm tra). Ở hình thức thứ nhất, nếu có chuẩn bị, có thể cho HS phán đoán một số giả
định nguyên nhân của hiện tượng. (Đối với HS cấp THCS, có thể gọi như vậy, thay vì gọi là “giả
thuyết”). Hình thức thứ hai, các thí nghiệm kiểm tra, là điều kiện thuận lợi cho GV thực hiện giai đoạn
3 của PPTN, nếu như GV ý thức được rằng đây là dịp dạy cho các em tư duy thực nghiệm rất tốt thì
nên để cho các em đề xuất TN trước khi thực hiện TN kiểm tra trong sách. Song hai cơ hội rèn luyện
cho HS tư duy thực nghiệm VL và sự sáng tạo trong quá trình dạy học hầu như bị bỏ qua.
Cũng cần phải nói thêm rằng, để thực hiện ý đồ như trên đối với các bài TN được cho trong SGK,
sự hỗ trợ của GV là nhất thiết phải có. Thói quen học thụ động đã ăn rất sâu vào mỗi HS cộng với việc
làm mới mẻ sẽ là những cản trở lớn khi tiến hành thực hiện PPTN ở HS chúng ta. Những khó khăn này
sẽ giảm dần nếu chúng ta biết dẫn dắt HS đi từ ít đến nhiều (hoạt động tự lực), từ đơn giản đến phức
tạp (nội dung các bài TN)…Cố gắng có những thành công ban đầu (HS làm được) để khích lệ tính tích
cực tư duy và tính tự lực của các em. Một số biện pháp hỗ trợ có thể là:
- Đối với giai đoạn 1:
. Sử dụng nhiều hiện tượng thực tế gần gũi, có bản chất giống nhau
. Sử dụng nhiều TN đơn giản để gây hiện tượng rõ ràng
. Gợi ý phù hợp.
- Đối với giai đoạn 3:
. Cần chuẩn bị trước kĩ năng trình bày phương án TN
. Sử dụng thêm bài tập TN ở nhà.
Chúng tôi trích ra đây hai bài TN mà chúng tôi đã soạn cho cuộc thực nghiệm sư phạm.
1/ Hai bài thí nghiệm phát hiện ra hiện tượng khúc xạ (Mục I. “Hiện tượng khúc xạ ánh sáng”; bài
40; trang 108 – SGK Vật lí 9). Mục này có hai thí nghiệm (hình 40.1 và hình 40.2).
*) Thí nghiệm đầu tiên (40.1) (Thầy hướng dẫn để HS thực hiện ở giai đoạn 1) vừa là mở đầu bài
học vừa có thể hướng dẫn để HS đưa ra phỏng đoán “ánh sáng truyền qua hai môi trường trong suốt
khác nhau sẽ bị gãy khúc”. Một TN (40.1) sẽ không đủ cơ sở cả về nội dung lẫn trực quan để HS có
thể phỏng đoán được như vậy. Chúng tôi thiết kế như sau:
- Cho HS quan sát TN 40.1 để “nêu vấn đề” khi các em thấy chiếc đũa đặt trong chén nước bị gãy
khúc. Có thể đặt câu hỏi để HS phát biểu được từ “gãy”.
- Cho HS quan sát trực diện vào bình TN 40.2 (khi không có nước và khi có nước). Dùng mặt sau
của tấm bảng (không có điểm I và vạch NN’) để các em thấy đường đi của tia sáng trong hai trường
hợp. Đặt câu hỏi giống như trên để HS có nhận xét cũng như trên.
- Hướng dẫn HS một số khái niệm như: chất trong suốt, mặt phân cách.
- Câu hỏi: Các em có nhận xét gì qua hai TN vừa rồi? Nguyên nhân của hiện tượng này là gì?
Công việc của GV sau đó chỉ là sửa các câu phát biểu cho chính xác về mặt từ ngữ (như kết luận
của SGK) và đưa ra tên gọi “Hiện tượng khúc xạ ánh sáng”.
*) Thí nghiệm hình 40.2 sẽ được thiết kế cho dạng TN kiểm tra (các hoạt động ở giai đoạn 3). Kết
luận ở trên cần được kiểm tra để khẳng định chắc chắn. Vì đây là bài đầu tiên để tập cho các em biết
suy nghĩ tìm một TN kiểm tra hiện tượng và phát biểu (mô tả) dưới hình thức một phương án làm việc
nên cần sự hướng dẫn khá cụ thể của GV. Có thể GV sẽ phát biểu “mẫu” sau khi HS đề xuất TN đúng.
Chúng tôi cố ý đưa TN này lên trên vừa giúp HS được quan sát trực tiếp sự khúc xạ, vừa là gợi ý để
HS có ý tưởng cho một TN kiểm tra.
Giả sử HS đề xuất được TN tương tự TN hình 40.2, GV sẽ hướng HS đến việc kẻ các đường
thẳng trên mặt tấm gỗ (có thêm đường thẳng theo phương “tới” của tia sáng - hình 1.12). Việc lập
phương án sẽ được thiết kế theo mẫu:
. Chúng ta sẽ làm TN…bằng (dụng cụ, mô tả từng dụng cụ - đặc biệt chú ý đương SK) đề kiểm
tra….
. Chúng ta sẽ cho tia sáng…và sẽ quan sát…
. Nếu tia sáng …..ta sẽ khẳng định được….
Những lần đầu, hãy để HS tập trình bày phương án TN dưới hình thức điền nội dung phù hợp vào
chỗ trống những mệnh đề ở thể tương lai và giả định. Dần dần các em sẽ quen với cách trình bày
phương án TN như vậy.
2/ Thí nghiệm kiểm tra (cho giai đoạn 3), bài TN ở mục II “Sự khúc xạ của tia sáng khi truyền từ
nước sang không khí” (cùng bài trên)
Bắt đầu mục này SGK đưa ra “dự đoán”, nhưng ai sẽ dự đoán? Chúng tôi thiết kế cho giai đoạn 3
của PPTN như sau:
- Đặt vấn đề: nếu tia sáng đi ngược lại từ nước ra không khí thì hiện tượng sẽ xảy ra như thế nào?
- Gợi ý: Chúng ta đã có nguyên lí ngược chiều của tia sáng (lớp 7). Đã là nguyên lí thì nó cũng
đúng cho trường hợp này. (Giả sử HS phán đoán được)
- Chúng ta có thể làm TN như thế nào đây để có thể kiểm tra phán đoán mà các em đưa ra?
- Do TN này khá trừu tượng, có thể gợi ý bằng việc cho các em đọc SGK đoạn “Thí nghiệm kiểm
tra”. Sau khi đọc, để các em thảo luận nhóm để hiểu TN và trình bày phương án (dựa vào mẫu trên).
Chú ý: Trong thời gian thực hiện các thí nghiệm trên (trừ TN hình 40.3, HS không mở SGK)
Để HS có thể luyện tập thuần thục cách trình bày phương án TN (Xem định hướng 2 Marzano,
pha 3 của việc dạy kến thức qui trình), chúng tôi sẽ cho HS một số đề tài TN đơn giản để các em về
nhà thực hiện. Ví dụ:
Trong hai hình 1.13 và 1.14, người quan sát nào có khả năng nhìn thấy vật (qua ống thẳng) dưới
đáy bình? Tại sao? Hãy chứng minh sự khẳng định của em bằng:
- Vẽ đường truyền của tia sáng đi từ vật đến mắt trong trường hợp đã khẳng định đúng.
- Một TN kiểm tra (với các dụng cụ trong hình và thêm một que thẳng). Hãy trình bày phương án
thực hiện TN ấy.
S N
I
N’ K
Hình 1.12: Mặt trước
tấm gỗ làm TN
Trên đây chúng tôi trình bày ba TN theo giai đoạn 1 và giai đoạn 3 theo PPTN mà chúng tôi có ý
định thực hiện trong đợt TNSP. Việc trình bày chi tiết hơn (kể cả dụng cụ TN) cho tất cả các TN sẽ
dành cho các vấn đề chuẩn bị cho nội dung TNSP ở chương 2.
Tóm tắt chương I
Nội dung chương 1 được tóm tắt bằng sơ đồ hình 1.15 dưới đây
Hình 1.14 Hình 1.13
ống thẳng
Một số nghiên cứu
Thực trạng dạy học VL
ở các trường THCS
Những cơ sở lí luận
TÂM LÍ HỌC LÍ LUẬN DẠY HỌC PHƯƠNG PHÁP NC VL
Cần đổi mới
Một số PPDH
tích cực
Hình 1.15: tóm tắt chương I
PPThN trong DHVL
PPTN VL
Chu trình
Razumopxki
PPTN
trong
DHVL
Vận dụng PPTN
trong DHVL có
giới hạn
Chương 2:
XÂY DỰNG GIÁO ÁN CÁC BÀI THÍ NGHIỆM QUANG HÌNH HỌC LỚP 9 THEO
HAI PHÂN ĐỌAN CỦA PPTN
2.1. MỐI LIÊN HỆ VỀ CẤU TRÚC CÁC VẤN ĐỀ QUANG HÌNH HỌC TRONG CHƯƠNG
TRÌNH VẬT LÝ PHỔ THÔNG
2.1.1. Tổng quan
Các kiến thức về Quang hình học trong chương trình VL phổ thông được sắp xếp ở ba khối lớp 7,
9 và 11. Mức độ của các kiến thức này được đưa vào chương trình từ cơ bản đến phức tạp, kiến thức ở
lớp sau bổ sung cho kiến thức ở lớp trước sao cho phù hợp với trình độ, lứa tuổi của HS và sau mỗi lần
lặp lại của các kiến thức này các em sẽ hiểu các vấn đề một cách rõ ràng hơn, bản chất hơn.
Có thể tóm lược các kiến thức Quang hình học trong chương trình vật lý phổ thông bằng sơ đồ
sau:
2.1.2. Chương trình quang học lớp 7 và các bài thí nghiệm
Ở chương trình tiểu học, những kiến thức về Quang học mà HS đã được học đó là: nguồn
sáng, ánh sáng, sự nhìn thấy, bóng tối, vật cho và không cho ánh sáng truyền qua. Đây là những kiến
thức cơ bản và sơ đẳng nhất về Quang học. HS nhỏ cần học các vấn đề này bởi vì ánh sáng là đối
tượng tự nhiên, các em tiếp xúc hàng ngày nhưng cũng rất trừu tượng. Tuy nhiên, ở HS nhỏ, các em
chưa đủ khả năng tiếp thu một cách chính xác, rõ ràng các khái niệm trên cũng như một số kiến thức
cơ bản khác của quang học mà phải đợi lên cấp THCS mới có điều kiện học. Do đó mà hai bài đầu của
Gương phẳng
Kiến thức Quang hình học
trong chương trình VLPT
LỚP 7 LỚP 9 LỚP 11
Các khái niệm
cơ bản
Định luật truyền thẳng
Định luật phản xạ
Vận dụng
Gương cầu
Hiện tượng
khúc xạ
Vận dụng
Máy ảnh Kính lúp
Vẽ ảnh qua thấu kính
Định luật khúc xạ
Phản xạ toàn phần
Công thức thấu
kính
Kính HV
Vận dụng
Máy ảnh Mắt
Kính Lúp Kính TV
Hình 2.1: Tổng quan về cấu trúc các kiến thức quang hình trong chương trình VL phổ thông
chương “Quang học” – VL lớp 7 HS được học lại các khái niệm trên nhưng một cách khoa học hơn,
mang tính vật lí hơn, đó là, sự nhận biết ánh sáng, nguồn sáng, vật sáng, đường truyền của ánh sáng, tia
sáng, chùm sáng…Nghĩa là bài học bắt đầu từ những lí thuyết đơn giản (thuyết truyền thẳng của ánh
sáng), các em được làm thí nghiệm để có nhận xét, thậm chí có thể rút ra được hai định luật (“Định luật
truyền thẳng của ánh sáng” và “Định luật phản xạ ánh sáng”), được biết cách đưa những lí thuyết có
được ấy vào giải thích các hiện tượng thông thường, rất thực tế đối với các em như: ảnh của vật tạo bởi
gương phẳng, gương cầu lõm, gương cầu lồi… Điều này vô cùng quan trọng cho việc tiếp thu những
kiến thức quang học sau này ở cuối cấp cũng như ở cấp THPT cả về kiến thức lẫn phương pháp nhận
thức. Thật vậy, để chuẩn bị cho việc học Vật lí nói chung, các nội dung quang học nói riêng một cách
“chính qui”, các em phải được dẫn dắt đi theo con đường “Từ trực quan đến tư duy, đến thực tiễn”.
Nếu nói theo Razumopxki thì đó là con đường “thực tế - mô hình lí thuyết – qui luật - thí nghiệm kiểm
tra – thực tế..” (Hình 1.10 – Chương 1). Rõ ràng các tác giả SGK đã có chủ ý hướng các em học Vật lí,
mà cụ thể ở đây là quang học, theo con đường thực nghiệm mà các nhà Vật lí đã từng đi qua. Tuy
nhiên, như đã phân tích ở chương 1 (mục 1.7.2) - ở cấp THCS, ngay cả HS lớp 9, không đủ điều kiện
cả về thời gian lẫn năng lực nhận thức của HS – nên các bài học, mà cụ thể là các bài TN không thể đi
hết theo chu trình Razumoxki được mà chỉ có thể thực hiện từng đoạn (PPTN có giới hạn hay phân
đoạn thực hiện PPTN – xem 1.7.2). Việc làm này lại rất phù hợp với cách trình bày của SGK. Nếu làm
được như vậy thì phần quang hình lớp 9 sẽ dễ dàng hướng dẫn HS học các bài TN cũng theo cách như
vậy. Khi đó, HS sẽ quen dần với các hoạt động tư duy trực giác bằng chính sự tích cực học tập và hứng
thú học tập của các em, đồng thời tập cho các em những động thái đầu tiên của tư duy sáng tạo.
2.1.3. Về chương trình quang học lớp 9
Nối tiếp với chương trình quang học lớp 7, kiến thức về sự khúc xạ được trình bày ở lớp 9. Có lẽ
vì lí do toán học mà các tác giả chỉ trình bày vấn đề khúc xạ một cách định tính (không phát biểu dưới
dạng định luật). Điều này cũng hợp lí. Vấn đề là ở chỗ việc hình thành kiến thức ở đây cũng tiếp tục
hướng theo con đường thực nghiệm “thực tế, nhận xét và vận dụng vào thực tế”. Kiến thức về lí thuyết
ở đây không nhiều song có yêu cầu cao hơn về nhận thức cũng như vận dụng. Có thể nói được như vậy
là vì tia sáng bị “gãy” nhưng vẫn truyền liên tục qua các môi trường và truyền thẳng trong mỗi môi
trường. Đối với HS lớp 9 thì đây là vấn đề khá trừu tượng và không dễ để hiểu chúng. Bù lại, các thí
nghiệm về khúc xạ cũng như các hiện tượng thực tế được đưa ra trong chương trình là rất dễ quan sát,
dễ nhận xét. Ở đây, các em được rèn luyện thêm một kĩ năng đặc biệt trong quang hình học, đó là vẽ
tia sáng khúc xạ, mà cụ thể là vẽ tia sáng qua thấu kính. Kĩ năng này khó nhưng cần thiết cho HS học
quang học theo phương pháp thực nghiệm. Các vật được đưa vào ứng dụng là các máy móc quang học
gần gũi. Có thể một số chưa bao giờ tiếp xúc với máy ảnh, kính lúp song các vật dụng này không khó
tìm để trực quan hóa cho bài học. Chắc chắn rằng các bài học sẽ gây hứng thú trong quá trình học tập
của các em và sẽ hứng thú hơn, nếu dẫn dắt các em đi theo con đường thực nghiệm.
Vấn đề trên được cụ thể hóa như sau: Vận dụng kiến thức về hiện tượng khúc xạ ánh sáng, bốn
bài kế tiếp sau đó sẽ hướng dẫn HS cách vẽ ảnh của một vật và tính chất của nó khi qua các loại thấu
kính hội tụ và phân kì. Các kiến thức này được xây dựng bằng cách cho HS quan sát thí nghiệm, rồi
dựa vào đó để phát biểu tính chất của các đường truyền. Các em sẽ được luyện tập nhiều để nhập tâm
cách vẽ, nếu GV ý thức được đây là một kiến thức kĩ năng (còn gọi là kiến thức qui trình) cơ bản, xây
dựng thành các bước đi cho kĩ năng này (xem Định hướng thứ hai của Marzano).
Trong các bài quang học lớp 9, các kĩ năng xử lí thông tin cũng thường xuyên được chú ý rèn
luyện, đặc biệt là k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVLPPDH059.pdf