MỞ ĐẦU .1
1. Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.7
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.9
7. Cấu trúc của luận văn.9
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TINVỀ TRẺ VỊ
THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP.11
1.1. Báo điện tử .11
1.1.1. Một số khái niệm .11
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử .12
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử.14
1.1.4 Xử lý thông tin trên báo điện tử .17
1.2 Thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp .21
1.2.1 Trẻ vị thành niên .21
1.2.2 Trẻ vị thành niên phạm pháp .22
1.2.3 Thực trạngphạm pháp của trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay.24
1.3 Cơ sở pháp lý và đạo đức khi thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp .27
1.3.1 Những quy định về luật .27
1.3.2 Yếu tố lợi nhuận kinh tế và đạo đức nhà báo.30
Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH
NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ(Khảo sát 3 tờ báo: Dantri.com.vn,
Vnexpress.net, tuoitre.vn) .34
2.1. Vài nét về các tờ báo điện tử thuộc diện khảo sát.34
2.1.1. Báo Dantri.com.vn .34
2.1.2. Báo VnExpress.net .35
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
42 trang | 
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 963 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hỏi ý kiến đối với 
công chúng để thấy được hiệu quả của thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên 
báo điện tử hiện nay. Tổng số phiếu phát ra là 300 phiếu, thu về 297 phiếu hợp lệ. 
Để xử lý kết quả thu được, tác giả sử dụng phần mềm SPSS (Statistical Package for 
the Social Sciences). SPSS được sử dụng rộng rãi trong công tác thống kê xã hội. 
Đây là phần mềm chuyên dụng và phổ biến để phân tích các kết quả điều tra trong 
mọi lĩnh vực, từ xã hội, giáo dục, kinh tế, 
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 
6.1. Về mặt lý luận: 
Luận văn sẽ góp phần hệ thống hoá lý luận về báo điện tử, cụ thể là nội dung 
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử - một trong những vấn đề 
nóng trên báo điện tử hiện nay; đồng thời nêu ra những yêu cầu cần thiết đối với 
những người làm báo điện tử để tối ưu hoá việc cung cấp thông tin có chất lượng, 
đạt hiệu quả giáo dục cho công chúng báo điện tử trong thời gian tới. 
6.2. Về mặt thực tiễn: 
Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi những mặt tồn tại, hạn chế cũng như 
tác hại của việc báo điện tử thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện 
tử hiện nay nhằm nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông 
tin của độc giả cũng như nâng cao hiệu quả giáo dục của các tin, bài viết về trẻ vị 
thành niên phạm pháp. 
Kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp ích cho việc phát triển nghề của 
những người làm báo điện tử chuyên nghiệp, có đạo đức, nhân văn và là nguồn tài 
liệu quan trọng cho các sinh viên chuyên ngành báo điện tử cũng như những người 
quan tâm tới lĩnh vực này. 
7. Cấu trúc của luận văn 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ 
lục, Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương: 
Chương 1: Cơ sở lý luận báo điện tử xử lý thông tin về trẻ vị thành niên 
phạm pháp 
10 
Chương 2: Thực trạng việc xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp 
trên báo điện tử 
Chương 3: Giải phápnâng cao chất lượngthông tin về trẻ vị thành niên phạm 
pháp trên báo điện tử ở Việt Nam. 
11 
Chƣơng 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TIN 
VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP 
1.1. Báo điện tử 
1.1.1. Một số khái niệm 
Thế kỷ 19 là thế kỷ thống trị của báo in. Sang thế kỷ 20, phát thanh, truyền 
hình lại chiếm lĩnh ngôi vị thống trị cùng với đài radio và tivi. Từ cuối thế kỷ 20, 
đầu thế kỷ 21, mạng Internet ra đời và phát triển đã có tác động mạnh mẽ tới mọi 
mặt của đời sống con người và báo chí cũng không nằm ngoại lệ. Hệ quả tất yếu là 
một sản phẩm kết hợp giữa báo chí – Internet: báo điện tử ra đời, đã và đang làm 
thay đổi không nhỏ bộ mặt của báo chí thế giới, trong đó có Việt Nam. 
Dù ra đời sau nhưng báo điện tử ngày càng chứng minh sức lan toả toàn thế 
giới của mình nhờ tích hợp được những ưu thế của các loại hình báo chí,có thể đảm 
đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình, báo in một cách đầy đủ và dễ dàng. 
Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông tin 
được truyền tải và tiếp nhận qua mạng Internet vẫn chưa thống nhất, đang tồn tại 
nhiều tên gọi khác nhau như: báo mạng điện tử (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), 
báo điện tử (Đại học KHXH&NV TP. Hà Nội), báo trực tuyến (Đại học 
KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh); báo mạng hay báo Internet(xã hội quen dùng). 
Theo cách hiểu của tác giả luận văn, báo điện tử với tư cách là một loại hình 
báo chí tồn tại dưới dạng một trang web và phát hành dựa trên nền tảng Internet, có 
ưu thế trong chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện và 
mang tính tương tác cao. Báo điện tử được xuất bản bởi toà soạn điện tử, còn người 
đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng có kết nối Internet. 
Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng vì 
nó không phụ thuộc vào không gian, thời gian. Sự phát triển của báo điện tử đã làm 
thay đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển của báo giấy 
truyền thống. 
Trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “Báo Điện tử” được quy 
định trong Khoản 6, Điều 3, Chương 1 của Luật Báo chí (năm 2016): “Báo điện tử 
12 
là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi 
trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử” [34, tr.9]. 
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử 
1.1.2.1 Khả năng đa phương tiện 
Khả năng đa phương tiện trên báo điện tử là sự kết hợp nhiều loại phương 
tiện (ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) đề thực hiện và tạo nên một sản phẩm báo chí. 
Một sản phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện khi nó tích hợp nhiều 
trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: văn bản (text), hình ảnh tĩnh (still 
image), hình ảnh động (animation), đồ hoạ (graphic), âm thanh (audio), video, và 
các chương trình tương tác (interactive programs). 
Trên một sản phẩm báo điện tử, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu của từng 
toà soạn mà việc sử dụng các yếu tố đa phương tiện cũng khác nhau. Trong nhiều 
trường hợp, một thông tin có thể được truyền tải bằng nhiều phương tiện để người 
đọc có thể tiếp cận và lựa chọn, nhưng nhiều trường hợp khác nhà báo sẽ quyết định 
hình thức truyền tải nào là phù hợp với nội dung thông điệp. Nhờ vậy, các sản phẩm 
của báo điện tử ngày càng hấp dẫn, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của công chúng 
[17, tr.122-123]. 
1.1.2.2 Tính tức thời và phi định kỳ 
Là loại hình báo chí đại diện cho thời đại của thông tin, báo điện tử có khả 
năng cập nhật cao, có thể thấy là cao nhất trong tất cả các loại hình báo chí truyền 
thống khác. Ví dụ: để đọc những thông tin tiếp theo của báo in, bạn đọc phải chờ tới 
số sau, có thể là ngày hôm sau (nhật báo), cũng có thể là tuần sau (tuần báo), vì báo 
in còn phụ thuộc vào tính định kỳ, thời gian in ấn và phát hành. Còn để tiếp nhận tin 
tức trên phát thanh, truyền hình thì khán, thính giả không phải chờ lâu như thế 
nhưng lại phụ thuộc vào khung giờ, thời lượng phát sóng, thời gian tuyến tính và kỹ 
thuật. Trong khi đó, trên báo điện tử, bạn đọc gần như không phải chờ đợi. Bất kể 
thông tin diễn ra ở đâu, thời gian nào, chỉ cần một máy tính xách tay hoặc điện thoại 
smartphone có kết nối Internet, các phần mềm phụ trợ (phần mềm tải âm thanh, 
hình ảnh) thì sự kiện xảy ra phóng viên có thể cập nhật tin bài ngay tức khắc. Khi 
vừa đăng bài xong, có thông tin mới lại có thể dễ dàng cập nhật thêm mà không gặp 
bất cứ khó khăn gì. 
13 
Báo điện tử vượt qua các rào cản mà các loại hình báo chí khác gặp phải, nội 
dung thông tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang báo, thời lượng phát sóng 
hay thời gian tuyến tính, quy trình sản xuất thông tin lại đơn giản, dễ dàng nên có 
thể cập nhật, bổ sung bất cứ lúc nào với số lượng là bao nhiêu. Thông tin trên báo 
điện tử có thể sống động, nóng hổi đến từng giờ, từng phút, thậm chí là từng giây 
[17, tr.145-147]. 
1.1.2.3 Tính tương tác 
Trước khi báo điện tử ra đời, tính tương tác trong hoạt động báo chí đơn giản 
là sự tác động qua lại giữa cơ quan báo chí, nhà báo với người tiếp nhận thông tin. 
Tuy nhiên, sự xuất hiện của báo điện tử đã làm cho tương tác trong hoạt động báo 
chí được mở rộng, có nhiều hình thức hơn và giảm đi những hạn chế của các hình 
thức tương tác cũ. 
Đối với báo điện tử, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cao, bạn đọc có thể gửi thư 
điện tử (e-mail) phản hồi ngay tới từng bài báo, từng tác giả và toà soạn bằng những 
thao tác hết sức đơn giản, thuận tiện. Cũng nhờ vào khả năng tương tác, báo điện tử 
có thể thiết lập được các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu (vote) giúp cho 
công tác điều tra xã hội học trở nên vô cùng đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng. 
Báo điện tử còn cho phép những đoạn video cũng có tính tương tác hai chiều, 
kèm dữ liệu, có thể tra cứu. Bên cạnh đó, với mong muốn là chiếc cầu nối thân thiện, 
các toà soạn báo điện tử còn thiết lập các cuộc giao lưu trực tuyến, bàn tròn trực 
tuyến, phỏng vấn trực tuyến tạo cơ hội cho bạn đọc giao lưu, trao đổi về các vấn 
đề trong cuộc sống Ngoài ra, các tờ báo điện tử hiện nay còn trang bị những ứng 
dụng tự động quảng bá nội dung, chia sẻ những thông tin mà tờ báo mình đăng tải 
đến cho công chúng [17, tr.152-158]. 
1.1.2.4 Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin 
Báo điện tử không bị giới hạn bởi số trang, khuôn khổ hay thời lượng 
chương trình như các loại hình báo chí khác. Thông tin lại được lưu trữ cao nên bạn 
luôn có thể xem đi xem lại nhiều lần bài viết hay một hình ảnh nào đó của một bài 
báo được đăng tải trên báo điện tử vài năm trước. Chỉ cần sử dụng những công cụ 
tìm kiếm thông tin như Google, gõ từ khoá là bạn có thể tìm thấy bất cứ thông tin 
nào mà bạn cần mà không bị hạn chế về thời gian. 
14 
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử 
1.1.3.1 Thông tin 
Khái niệm “Thông tin” được bắt nguồn từ chữ Latin: infometio, gốc của 
tiếng Anh: information. 
Còn theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền 
thông và sự ra đời một ý thức hệ mới”, khái niệm “thông tin” có hai hướng nghĩa: 
Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome); thứ hai là, 
nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa 
này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức 
và truyền đạt.Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vưc kỹ thuật và kiến thức. 
Theo Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, năm 2000 
thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh 
từ là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin 
cao). 
Theo các tác giả cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do Học viện Chính trị Quốc 
gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Văn hoá – Thông tin 
xuất bản năm 1999, từ “Thông tin” được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau 
trong các tình huống cụ thể: 
Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo. 
Hoạt động thông tin không chỉ có trong xã hội loài người. Ngay trong thiên nhiên 
cũng có những hoạt động thông tin phức tạp, đa dạng của các loại động vật khác 
nhau; Thông tin được dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói 
chung.Trong trường hợp này, người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng 
“lượng thông tin” được chuyển đến đối tượng tiếp nhận. 
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung 
thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin. 
Ngoài ra, thông tin được dùng ở đây không loại trừ các thông tin được truyền 
bằng ngôn ngữ tự nhiên. Thông tin ở đây có thể được ghi và truyền ngôn ngữ cơ thể, 
các cử chỉ, điệu bộ Hơn nữa, con người còn được cung cấp thông tin dưới dạng 
mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin thấm vào thế giới vật chất và tinh 
15 
thần của con người, cùng với sự đa dạng phong phú của nó đã khiến khó có thể đưa 
ra một định nghĩa thống nhất về thông tin. 
1.1.3.2 Thông tin báo chí 
Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí. Báo 
chí ra đời và phát triển trước hết là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về thông 
tin của con người và xã hội. Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho 
công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám 
phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. 
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, báo chí có cách riêng của 
mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội có mối 
quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở 
thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một 
hình thái ý thức xã hội nào có được. 
Như vậy, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa: 
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực 
cuộc sống.Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được 
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người. 
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công 
chúng. Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện 
mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn 
cứ việc phân loại theo phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành 
các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in); thông tin bằng tiếng nói (phát 
thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng Internet (đa 
phương tiện). 
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có 
khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một 
chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên 
các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ 
báo đều chứa đựng thông tin. 
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn, 
chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác 
phẩm, hay hệ thống những tin tức là thông tin. 
16 
Một thông tin có giá trị phải là thông tin đầy đủ, có hệ thống qua việc lựa 
chọn đúng, có khoa học, có phương pháp nhằm phục vụ mục tiêu nhất định. Tức là 
giá trị tri thức của thông tin được chọn phản ánh trên báo chí, các phương tiện thông 
tin đại chúng phải gắn với giá trị xã hội đương thời. Điều này cho chúng ta thấy, 
nếu bản chất vai trò của thông tin báo chí biểu hiện chính ở chức năng điều chỉnh xã 
hội của nó thì sự phản ánh hiện thực xã hội của báo chí đều nhằm mục đích nhất 
định và báo chí phản ánh hiện thực xã hội không phải là đưa ra các sự kiện “một 
cách vô tư” như một thứ hàng hoá mà phải là những sự kiện được đánh giá, kết luận, 
được thừa nhận trên cơ sở hệ tư tưởng xã hội nhất định. 
Như vậy, thông tin báo chí là một dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính 
thời sự, phổ cập và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Là sự phản ánh 
hiện thực, thông tin có nội dung khách quan đồng thời lại mang tính chủ quan. Do 
vậy, việc sử dụng thông tin vào hoạt động truyền thông đại chúng cũng như việc 
tiếp nhận thông tin ở mỗi người đều không thể diễn ra một cách thụ động mà phải 
có sự kiểm định, xử lý lại thông tin. 
1.1.3.3 Thông tin trên báo điện tử 
Từ khi ra đời, báo điện tử nhanh chóng trở thành phương tiện truyền thông 
hiện đại bởi những ưu thế so với báo chí truyền thống. Loại hình báo điện tử ngày 
càng phát triển vượt bậc, có vị thế quan trọng, có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp xã 
hội, bởi vì, báo điện tử là loại hình báo chí có khả năng cập nhật liên tục và đòi hỏi 
lượng thông tin hằng ngày cung cấp tới bạn đọc vô cùng lớn nên dù có một đội ngũ 
phóng viên hùng hậu, một tờ báo điện tử cũng không thể bao trọn vẹn các vấn đề, 
sự kiện diễn ra hằng ngày trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Với bạn bè quốc 
tế, Việt kiều đang sống ở nước ngoài, báo điện tử là một kênh thông tin quan trọng 
hàng đầu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và 
pháp luật của Nhà nước, giúp các đối tượng trên hiểu rõ về công cuộc đổi mới và 
tình hình Việt Nam. Chính vì vậy, các tờ báo điện tử phải sử dụng, tham khảo thông 
tin của nhau trên cơ sở tôn trọng và lưu giữ bản quyền, nguồn gốc của thông tin đó. 
Trung bình mỗi ngày, một tờ báo điện tử xuất bản trên dưới 50 tin, bài về đủ 
mọi lĩnh vực mà công chúng quan tâm. Với một lượng thông tin đồ sộ như vậy, công 
17 
tác xử lý thông tin luôn phải tiến hành trôi chảy nhanh, gọn và hạn chế tối đa các sai 
sót. Mặc dù việc sửa chữa các sai sót trên báo điện tử là dễ thực hiện nhờ tiện ích kỹ 
thuật, nhưng một khi thông tin đó đã được đăng tải lên mạng Intrernet, dù chỉ là một 
số lượng rất nhỏ công chúng nhìn thấy sai sót đó cũng là điều không nên. Có một 
thực tế là từ trước đến nay chưa thấy một tờ báo điện tử nào đăng tin đính chính, 
trong khi điều này thường gặp khá nhiều ở báo in, truyền hình và phát thanh. 
Một vấn đề liên quan trực tiếp đến quá trình xử lý thông tin của báo điện tử, 
đó là: tốc độ thông tin là lợi thế, song cũng vô tình trở thành điểm yếu của báo điện 
tử. Nhiều bài viết trên báo điện tử bị bạn đọc đặt những câu hỏi lớn về độ tin cậy và 
độ chính xác của thông tin. Chính vì vậy, những người làm báo điện tử phải đối 
diện với áp lực của thông tin. Dù cố gắng rất nhiều nhưng không bao giờ những 
người làm báo điện tử tránh khỏi được sơ xuất.Họ chỉ có thể hạn chế được tối đa sơ 
xuất.Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ thông tin, điều này dễ được chấp nhận hơn. 
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tốc độ đưa tin và độ tin cậy, độ chính xác của thông 
tin, không có cách nào khác là phải qua một thời gian khá lâu để cho phóng viên 
dần làm quen được với công việc, rèn luyện bản thân cả về chuyên môn nghiệp vụ 
lẫn nhận thức chính trị. 
1.1.4 Xử lý thông tin trên báo điện tử 
Theo Từ điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê, “xử lý” là áp dụng những thao 
tác nhất định để nghiên cứu, sử dụng. “Thông tin” là điều hoặc tin được truyền đi 
cho biết; hoặc sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới các hình thức khác nhau, cho 
biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó. 
Còn theo khái niệm trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học ấn hành 
năm 2000, “Xử lý thông tin” là áp dụng vào thông tin đó là những thao tác nhất 
định để sử dụng. 
Từ khái niệm “xử lý và sắp xếp và giải quyết công việc hoặc nhiệm vụ trong 
điều kiện cụ thể trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” có thể hiểu thuật ngữ xử lý 
thông tin là một hoạt động nghiệp vụ nhằm chỉnh sửa cả về mặt nội dung lẫn hình 
thức thông tin để đảm bảo độ chính xác và hấp dẫn của thông tin. Công việc xử lý 
thông tin là công việc đòi hỏi cần có nhiều kinh nghiệm, sự hiểu biết về xã hội cũng 
18 
như về ngôn ngữ. Việc xử lý thông tin còn có khả năng tạo ra những thông tin mới 
hoặc bổ sung những thông tin mà trước đó chưa biết đến. Chất lượng thông tin mà 
người xử lý cung cấp tới đối tượng tiếp nhận có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố 
như trình độ, sự nhạy bén trong phân tích, thái độ khách quan 
Theo Giáo trình tác phẩm báo chí đại cương của TS Nguyễn Thị Thoa và 
Nguyễn Thị Hằng Thu, một trong những khâu quan trọng của xử lý thông tin cho 
tác phẩm báo chí là xử lý tư liệu. Xử lý tư liệu là chọn ra thông tin cốt lõi cần cho 
tác phẩm báo chí; chọn các chi tiết có mức độ quan trọng khác nhau (hoặc theo tính 
chất quan trọng của chi tiết; hoặc theo trật tự ngày tháng; hoặc theo tên các nhân vật 
với chức vụ, địa vị xã hội khác nhau; hoặc theo các bước ngoặt của mâu thuẫn); 
kiểm tra mức độ chính xác và độ tin cậy của tư liệu; mạnh dạn loại bỏ những tư liệu 
rườm rà; ghi chú những phần tư liệu thiếu cần bổ sung; sắp xếp các tư liệu đã chọn 
theo góc độ nhìn nhận vấn đề của chính [46, tr. 95]. 
Như vậy,có thể hiểu “xử lý thông tin” là một quá trình khai thác, phân tích, 
cải tạo những thông tin thô ban đầu trở thành thông tin mang một giá trị nào đó. 
Xử lý thông tin là một hoạt động nghiệp vụ nhằm chỉnh sửa về cả mặt nội 
dung lẫn hình thức thông tin để đảm bảo dộ chính xác và hấp dẫn của thông tin. 
Trong hoạt động báo chí, nói đến xử lý thông tin là nói đến quá trình mà những 
người làm báo bỏ công sức, trí tuệ ra để biến đổi, tinh lọc các thông tin sao cho các 
thông tin đó trở nên có giá trị, ý nghĩa để đưa đến công chúng tiếp nhận. 
Còn riêng với báo điện tử, việc xử lý thông tin là “chế biến”, cải tạo những 
thông tin về các sự vật, hiện tượng, con người xảy ra hằng ngày, hằng giờ trong tự 
nhiên và đời sống xã hội thành những sản phẩm thông tin báo chí để cung cấp đến 
công chúng của báo bằng những phương tiện đặc trưng của báo điện tử. Phương thức 
đặc trưng này thể hiện rõ sự khác biệt của báo điện tử với các loại hình báo chí khác. 
Theo tác giả Trần Hồng Vân, “một toà soạn báo điện tử tiếp nhận hàng trăm 
thông tin mỗi ngày. Lựa chọn và xử lý các thông tin ấy ra sao đòi hỏi phải có sự tổ 
chức chặt chẽ và phân công công việc cụ thể, quy trách nhiệm rõ ràng ở từng khâu, 
từng bộ phận” [40, tr.22]. 
19 
Xử lý thông tin trên các tờ báo là rất quan trọng. Và đặc biệt đối với báo điện 
tử còn quan trọng hơn nhiều. Tuy báo điện tử là loại hình báo chí ra đời muộn nhất 
trong các loại hình báo chí, nhưng báo điện tử lại tích hợp được tất cả các ưu điểm 
của các loại hình báo chí đi trước. 
Ưu điểm nổi bật nhất là tính thời sự và khả năng giao lưu trực tuyến với độc 
giả. Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, nhiều phóng viên báo điện tử giờ 
đây đã có thể tác nghiệp, gửi và đưa bài lên trang ngay tại hiện trường với những tin 
tức “nóng” (tuy nhiên, xét về độ chính xác, đôi khi quá tốc độ lại là nhược điểm của 
các tờ báo online so với các tờ báo truyền thống). Khả năng giao lưu trực tuyến với 
độc giả cũng được các báo điện tử tận dụng khá tốt với các diễn đàn trực tuyến, hộp 
thư bạn đọc, những buổi giao lưu trực tuyến Vì vậy, báo điện tử không chỉ là tờ 
báo cung cấp đầy đủ thông tin cho bạn đọc mà người đọc còn đòi hỏi ở nó tính thời 
sự và cập nhật của công nghệ thông tin. 
Ngoài ra, các báo còn cạnh trạnh cả về chiều sâu của thông tin. Chất lượng 
thông tin làm sao sinh động và hấp dẫn, nhưng cái sinh động và hấp dẫn ấy phải dựa 
trên cơ sở là nội dung thông tin đề cập tới vấn đề sát sườn của mỗi con người, mỗi 
thành viên trong xã hội và toàn xã hội. Cách thể hiện làm sao đơn giản, gần gũi, đi 
vào lòng người và làm sao để người ta cảm nhận được hết nội dung. Nói thì đơn 
giản nhưng làm thì không dễ và chỉ có mỗi chìa khóa duy nhất để giải quyết được 
vấn đề này là phải có tính sáng tạo, nghiêm túc cộng với tinh thần sáng tạo. Đặc biệt 
là vấn đề “quản lý đầu vào” và quy trình xuất bản phải chặt chẽ và con người là 
phải chuẩn, con người phải chuyên nghiệp và phải đáng tin cậy. 
Quy trình sáng tạo ra một tác phẩm báo chí có 2 bước căn bản, đó là: Chuẩn 
bị chất liệu cho tác phẩm báo chí và Thể hiện tác phẩm. 
Chuẩn bị chất liệu cho tác phẩm báo chí là một khâu rất quan trọng, bao gồm 
việc khám phá đề tài từ nhiều nguồn tin khác nhau. Có thể là đề tài cho Ban Biên 
tập giao cho phóng viên theo yêu cầu nội dung của số báo, căn cứ vào lĩnh vực mà 
phóng viên được phân công theo dõi. Tuy nhiên, Ban Biên tập chỉ giao đề tài cho 
phóng viên khi cần có “bài đinh” cho số báo, hoặc đề tài quá lớn cần nhiều người 
20 
cùng thực hiện. Thứ hai là phóng viên tự khám phá đề tài từ các nguồn khác nhau, 
từ các mối quan hệ xã hội khác nhau, bằng chính tài năng và sự nhạy cảm nghề 
nghiệp của mình (đi thực tế cơ sở; Dự họp báo, hội nghị, tòa án; Từ các phương 
tiện truyền thông đại chúng như báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình,; Từ 
quần chúng nhân dân khắp nơi; Từ các mối quan hệ xã hội của nhà báo). 
Vấn đề khai thác và xử lý tư liệu thì tùy vào từng đề tài mà mức độ khai thác 
tư liệu rộng – hẹp, nông – sâu khác nhau. Các loại tư liệu cần khai thác: Tư liệu tĩnh 
(Văn bản, hồ sơ, hình ảnh tĩnh – động, băng – đĩa từ các nguồn tài liệu khác nhau); 
Tư liệu bất thành văn (kiến trúc, trang phục, phong tục tập quán, dấu vết lịch sử, 
vốn sống của nhà báo); Tư liệu động tại hiện trường (nhân chứng, cá nhân có thẩm 
quyền, nhà chuyên môn khoa học, dấu vết hiện trường, 
Quá trình xử lý tư liệu là chọn ra những thông tin cốt lõi cần thiết cho bài 
báo; Chọn ra các chi tiết có mức độ quan trọng khác nhau (hoặc theo tính chất quan 
trọng của chi tiết; hoặc theo trật tự ngày tháng; hoặc theo tên của các nhân vật với 
chức vụ, địa vị xã hội khác nhau; hoặc theo các bước ngoặt của mâu thuẫn); 
Kiểm tra mức độ tin cậy của tư liệu; Loại bỏ những tư liệu rườm rà; Sắp xêp các tư 
liệu đã chọn theo các góc độ nhìn nhận vấn đề của chính mình. 
Dựa vào tính chất của đề tài và tư liệu đã có, có thể chọn được hình thức thể 
loại tác phẩm báo chí và bố cục thích hợp (chất liệu ít và mục đích chỉ cần thông 
báo nhanh thì chọn thể loại tin. Vấn đề nóng, chứa nhiều mâu thuẫn, liên quan đến 
nhiều nhân chứng thì chọn thể loại phóng sự). Trên cơ sở đã xác định được hình 
thức thể loại, sẽ dễ dàng chọn được ngôn ngữ và giọng văn phù hợp. 
Có thể khái quát quy trình xử lý thông tin trên báo điện tử như sau: thu thập 
và lựa chọn thông tin => Kiểm chứng, chế biến, cải tạo thông tin thô trở thànhthông 
tin có giá trị =>xử lý thông tin (xử lý thông tin về đề tài ở tòa soạn; xử lý thông tin 
do cộng tác viên gửi về; xử lý thông tin phản hồi của độc giả). 
Do đó, công việc xử lý thông tin trên báo điện tử, mà nhất là xử lý thông tin 
về trẻ em là công việc đòi hỏi nhà báo cần có nhiều kinh nghiệm, sự hiểu biết xã hội 
cũng như nắm bắt được tâm lý của trẻ em và cả về ngôn ngữ. Quy trình xử lý thông 
21 
tin ở mỗi toà soạn báo điện tử do phụ thuộc vào tiêu chí, mục đích hoạt động của 
từng cơ quan nên có những điểm khác biệt, mang tính đặc trưng riêng. 
1.2 Thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp 
1.2.1 Trẻ vị thành niên 
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Vị thành niên là những người chưa đến
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
02050004734_1_3001_2002820.pdf