Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 -1951) -"Cha tinh thần" của triết học phân tích

Những nghiên cứu triết học được xuất bản vào năm 1953, bao gồm hai phần. Phần

I do chính Wittgenstein hoàn thiện, được dự định phát hành năm 1946 nhưng sau

đó, ông lại đề nghị huỷ việc in. Phần II do những n gười biên tập –những người

được uỷ thác trông coi và khai thác di sản của Wittgenstein –thêm vào.

pdf19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 -1951) -"Cha tinh thần" của triết học phân tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhất trong Những nghiên cứu triết học mà do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời. Trên thực tế, Tractatus dường như là tác phẩm duy nhất được xuất bản khi Wittgenstein còn sống. Nhưng không phải qua những tác phẩm mà tiếng tăm của Wittgenstein được định hình: trở lại Cambridge, từ 1930 đến 1936, ông hướng dẫn các buổi seminar của sinh viên; 1939, ông được cử giữ chức giáo sư đại học. Ông hoạt động ở cương vị đó đến 1947, với một vài gián đoạn do Chiến tranh thế giới thứ II (1941 – 1945). Sau 1947, ông từ chức giáo sư và sống ở nhiều nơi – Ai len, Mỹ. Năm 1951, ông quay lại Cambridge và qua đời ở đó (ngày 29-4-1951). Trong suốt thời gian này, Wittgenstein đã nổi tiếng với tư cách nhà triết học hàng đầu của trào lưu phân tích. Các bài giảng và những cuộc tiếp xúc với các triết gia trong giới đại học đã đưa ảnh hưởng của Wittgenstein lan rộng mà không có các tác phẩm trực tiếp của ông. Chỉ đến năm 1953, Những nghiên cứu triết học mới được xuất bản; sau đó hàng loạt các tác phẩm khác trong di sản tư tưởng đồ sộ của Wittgenstein đã được công bố rộng rãi, góp phần khẳng định tầm quan trọng của ông trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại. Các tác phẩm chính của Wittgenstein: ngoài Tractatus (1921) và Những nghiên cứu triết học (1953), cho đến nay, đã có những tác phẩm quan trọng sau đây được xuất bản: Những nhận xét về nền tảng của toán học (1956); Sách xanh, Sách nâu (1958); Nhật ký 1914 – 1916 (1961); Những nhận xét triết học (1964); Bài giảng và đàm luận về mỹ học, tâm lý học và niềm tin tôn giáo (1966); Những nhận xét về nền tảng của toán học (1967); Về tính xác tín (1969); Ngữ pháp triết học (1969); Prototractatus (tiền Tractatus) (1971); Những nhận xét về màu sắc (1977); Những nhận xét về triết học của tâm lý học (1980). Những tư tưởng cơ bản của Wittgenstein Quá trình phát triển tư tưởng của Wittgenstein thường được chia thành 2 thời kỳ, thời sơ kỳ với Chuyên luận lôgíc – triết học (Tractatus) và thời hậu kỳ mà tiêu biểu là Những nghiên cứu triết học. 1. Wittgenstein sơ kỳ và Tractatus Tractatus là một tác phẩm triết học rất ngắn và có hình thức khác thường. Nó bao gồm các lời phát biểu (các mệnh đề) được đánh số thứ tự theo một trật tự nghiêm ngặt. Hình thức này đã làm cho tác phẩm, nhìn một cách tổng thể, có một cấu trúc rất chặt chẽ. Nếu có thể ví như cái cây, thì Tractatus bao gồm 7 nhánh lớn – những mệnh đề chính, được đánh số từ 1 đến 7; trên mỗi nhánh là những nhánh con – những mệnh đề bổ sung cho các mệnh đề chính, được đánh số theo thứ tự 1.2, 1.3, 2.21, 2.211, v.v.. Chỉ riêng mệnh đề thứ 7 không có mệnh đề bổ sung. 7 mệnh đề cơ bản của Tractatus như sau(4): 1. Thế giới là toàn bộ những gì là hoàn cảnh. 2. Cái là hoàn cảnh - sự kiện – là sự tồn tại của những trạng huống sự việc. 3. Một bức tranh lôgíc về những sự kiện là một tư tưởng. 4. Một tư tưởng là một mệnh đề với ý nghĩa. 5. Một mệnh đề là một hàm bảo thực của các mệnh đề sơ đẳng (Một mệnh đề sơ đẳng là hàm bảo thực của chính nó). 6. Hình thức chung của một hàm bảo thực là [p, ợ, N(ợ)]. Đó là hình thức chung của một mệnh đề. 7. Cái mà ta không nói lên được thì nên đưa nó vào im lặng. Luận thuyết trung tâm trong tác phẩm là “luận thuyết mô phỏng về ý nghĩa”, thông qua đó Wittgenstein trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa thế giới (thực tại), tư tưởng và ngôn ngữ. Diễn giải cụ thể về nội dung của luận thuyết này trong tác phẩm, chúng tôi xin trích ra đây những phân tích của Anat Biletzki và Anat Matar viết trong mục từ “Wittgenstein” của Bách khoa triết học Stanford online: “Bắt đầu với một siêu hình học bề ngoài, Wittgenstein coi thế giới như là bao gồm những sự kiện (mệnh đề 1), khác với quan niệm nguyên tử luận và mang tính truyền thống, coi thế giới như là được tạo thành bởi những đối tượng. Sự kiện là những trạng huống sự việc hiện thời (2) và trạng huống sự việc, đến lượt mình, lại là sự kết hợp của những đối tượng (đơn thể). Những đơn thể có thể phù hợp với nhau theo nhiều cách xác định. Chúng có thể có rất nhiều thuộc tính và nhiều mối quan hệ khác nhau với nhau. Nghĩa là, những thuộc tính nội tại của một đơn thể quyết định tính khả thể của sự phối hợp của đơn thể đó với những đơn thể khác; đó là hình thức lôgíc của nó. Vì vậy, các trạng huống sự việc, bao gồm các đơn thể trong sự phối hợp, có tính phức tạp cố hữu. Những trạng huống của sự việc đang tồn tại có thể đã tồn tại theo một cách khác. Điều đó có nghĩa rằng, những trạng huống sự việc hoặc là đang hiện thế (đang tồn tại) hoặc là có tính khả thể. Toàn bộ những trạng huống sự việc - hiện thế và khả thể - cấu thành toàn bộ thực tại. Như vậy, thế giới chính là những trạng huống sự việc đang tồn tại. Sự chuyển dịch vào tư tưởng, và sau đó vào ngôn ngữ, được thể hiện qua ý tưởng nổi tiếng của Wittgenstein rằng, các tư tưởng và các mệnh đề là những bức tranh – “bức tranh là một mẫu hình của thực tại” (Tractatus, 2.12). Những bức tranh được tạo thành bởi các yếu tố (element) cấu thành nên bức tranh. Mỗi yếu tố đại diện cho một đơn thể và sự kết hợp của những đơn thể trong bức tranh đại diện cho sự phối hợp của các đơn thể trong một trạng huống sự việc. Cấu trúc lôgíc của bức tranh, dù trong tư tưởng hay trong ngôn ngữ, là đẳng cấu với cấu trúc lôgíc của trạng huống sự việc là cái mà nó mô phỏng. Điểm tinh tế là sự sáng suốt của Wittgenstein khi cho rằng, tính khả thể của cấu trúc này được chia sẻ bởi bức tranh (tư tưởng, mệnh đề) và trạng huống sự việc là hình thức mang tính hình ảnh. “Bởi vậy mà bức tranh dính liền với thực tại; nó vươn thẳng tới thực tại” (Tractatus 2.1511). Điều này dẫn tới một cách hiểu về cái mà bức tranh có thể mô phỏng; nhưng cũng dẫn tới cách hiểu về cái mà bức tranh không thể mô phỏng – hình thức mang tính hình ảnh của chính nó. Khi “bức tranh lôgíc về sự kiện chính là tư tưởng” (3), trong sự dịch chuyển vào ngôn ngữ, Wittgenstein tiếp tục nghiên cứu những tính khả thể của ý nghĩa đối với những mệnh đề (4). Sự phân tích lôgíc, trong tinh thần [các tác phẩm] của Frege và Russell, đã dẫn dắt tác phẩm, với việc Wittgenstein sử dụng những phép toán lôgíc để thực hiện việc xây dựng hệ thống của mình. Khi giải thích rằng “chỉ có mệnh đề là có nghĩa; chỉ có trong ngữ cảnh của một mệnh đề thì tên gọi mới có ý nghĩa” (Tractatus 3.3), ông đã cung cấp cho người đọc hai điều kiện để ngôn ngữ có thể có nghĩa. Thứ nhất, cấu trúc của mệnh đề phải y theo những hạn chế của hình thức lôgíc; và thứ hai, những yếu tố của mệnh đề phải có chỉ xưng (bedeutung). Những điều kiện này có hàm ý sâu xa. Sự phân tích buộc phải đẩy đến cùng với một tên gọi vốn là một biểu tượng nguyên thuỷ và nó được diễn tả bởi tính cách vô cùng trừu tượng của cả tên gọi lẫn đơn thể (đơn giản). Hơn nữa, bản thân lôgíc đem đến cho chúng ta cấu trúc và những giới hạn của cái ít nhất có thể nói lên. Lôgíc dựa trên quan điểm rằng mọi mệnh đề đều hoặc đúng hoặc sai. Tính hai cực này của những mệnh đề cho phép cấu tạo những mệnh đề phức tạp hơn từ những mệnh đề nguyên tử bằng cách sử dụng toán tử về hàm bảo thực (truth-functional operators) (5). Wittgenstein dẫn ra, trong Tractatus, biểu đạt đầu tiên của lôgíc Frege trong hình thức đã được biết đến - “bảng chân lý” (truth-tables). Việc này cung cấp những cách thức để quay lại phân tích mọi mệnh đề thành những thành phần nguyên tử của chúng, bởi “mọi phát biểu về những phức hợp (complex) đều có thể phân tích thành một phát biểu về những thành phần cấu thành của chúng và thành những mệnh đề mô tả một cách toàn diện những phức hợp đó” (Tractatus 2.0201). Ông còn đào sâu vấn đề hơn nữa bằng cách sau đó, cung cấp hình thức chung của một mệnh đề (6). Hình thức đó [ , , N( )] sử dụng một phép toán bình thường (N( )) và một biến số mệnh đề ( ) để diễn tả nhận định của Wittgenstein rằng, mọi mệnh đề “là kết quả của những ứng dụng liên tiếp” của những phép toán lôgíc đối với những mệnh đề sơ đẳng. Phát triển sự phân tích đó đối với bộ ba thế giới – tư tưởng – ngôn ngữ và dựa vào một hình thức chung của mệnh đề, Wittgenstein đến đây đã có thể khẳng định rằng, mọi mệnh đề có nghĩa đều có cùng giá trị. Sau đó, ông đi đến kết luận với lời cảnh báo về cái có thể (hay không thể) và cái nên (hay không nên) nói ra (7), bước ra khỏi địa hạt của những mệnh đề có thể nói lên của đạo đức học, mỹ học và siêu hình học”(5). Một nội dung quan trọng khác của Tractatus là bản thân việc phân tích mệnh đề - để phân biệt mệnh đề có nghĩa và mệnh đề vô nghĩa. Việc phân tích này xuất phát từ những nghiên cứu về khả năng mô phỏng thế giới của mệnh đề để dẫn đến những kết luận sâu xa hơn về bản chất của triết học. “Cái chung nhất giữa mệnh đề và tình huống là hình thức lôgíc, mà hình thức lôgíc cũng là cái quyết định nghĩa (sense) của mệnh đề. Nghĩa của mệnh đề chính là tình huống mà mệnh đề đó biểu đạt. “Thay vì nói “mệnh đề này có nghĩa như thế này hay thế nọ”, chúng ta chỉ cần đơn giản nói “mệnh đề này biểu đạt một tình huống như vậy” (Tractatus 4.031). Như vậy, theo cách nói của Wittgenstein, chỉ có những mệnh đề của ngôn ngữ biểu đạt được thực sự những sự vật của thực tại có thể kết hợp với nhau như thế nào mới là những mệnh đề có nghĩa, bởi vì nghĩa chỉ gắn với mệnh đề khi mệnh đề là những hình hoạ (bức tranh) của thực tại mô tả các tình huống có thể có”(6). Nghĩa là, theo Wittgenstein, mệnh đề có nghĩa chỉ là những mệnh đề của khoa học tự nhiên; còn những mệnh đề loại khác đều bị loại ra khỏi phạm vi “có nghĩa”. Trong quan điểm của Wittgenstein, những mệnh đề không nằm trong phạm vi “có nghĩa” thì hoặc là vô nghĩa (senseless) hoặc là phi ý nghĩa (nonsense). Những mệnh đề vô nghĩa gồm có những mệnh đề lôgíc – chúng “không đại diện cho các trạng huống sự việc và những hằng số lôgíc không đại diện cho những đơn thể. “Tư tưởng căn bản của tôi là những hằng số lôgíc không đại diện (cho cái gì hết). Rằng, lôgíc của các sự kiện không thể được đại diện” (Tractatus 4.0312)”(7). Ngoài ra, còn có những mệnh đề mà không đại diện cho các trạng huống sự việc, như toán học, hoặc “bản thân hình thức mang tính hình ảnh của bức tranh mà hình thức đó đại diện”, đều là những cái không thể được đại diện, chúng là những mệnh đề vô nghĩa, tức là không có ý nghĩa. Ngoài các mệnh đề vô nghĩa, Wittgenstein còn phân biệt những mệnh đề phi ý nghĩa (nonsense) – không phải là vô nghĩa, mà “vượt quá ranh giới của ý nghĩa”, tìm cách nói lên những gì không thể nói lên được. Những mệnh đề triết học (của khoa siêu hình học truyền thống, của quan điểm “cái tôi” trong thuyết duy ngã, của đạo đức học, của mỹ học, v.v.) là những mệnh đề thuộc loại này. Nhưng, phi ý nghĩa không phải là đáng loại bỏ. Ở đây, Wittgenstein đã đưa ra quan điểm về “nói lên” và “thể hiện ra”. Những mệnh đề phi ý nghĩa chỉ có thể thể hiện ra chứ không thể được nói lên. “Cái có thể được thể hiện ra thì không thể nói lên được” (Tractatus 4.1212). Những lập luận trên đã dẫn đến những kết luận về triết học, như: “Hầu hết các mệnh đề và các câu hỏi trong các tác phẩm triết học không sai mà là phi ý nghĩa. Do vậy, ta không thể có câu trả lời cho những câu hỏi thuộc loại ấy, mà chỉ có thể chỉ ra rằng chúng phi ý nghĩa. Hầu hết các mệnh đề và các câu hỏi của các nhà triết học xuất phát từ sự sai lầm của chúng ta trong việc hiểu về lôgíc của ngôn ngữ của chúng ta. (…) Và không đáng ngạc nhiên khi những vấn đề sâu xa nhất thực chất lại không phải là vấn đề gì hết” (Tractatus 4.003); “Triết học không phải là một môn khoa học tự nhiên. Từ ngữ “triết học” phải biểu đạt một cái gì đứng trên hoặc dưới, chứ không phải đứng cạnh các khoa học tự nhiên” (Tractatus 4.111). “Hầu hết các mệnh đề và câu hỏi trong triết học là phi ý nghĩa”. Vậy, triết học để làm gì (triết học có còn cần thiết nữa hay không)? Câu trả lời của Wittgenstein là một sự nhìn nhận lại bản chất của triết học: “Triết học không phải là một lý thuyết, mà là một hành động” (Tractatus 4.112), một hành động lọc gạn (bằng công cụ lôgíc) làm sáng tỏ tư tưởng. “Triết học không có kết quả là “các mệnh đề triết học” mà đúng hơn là sự làm sáng tỏ các mệnh đề. Không có triết học, tư tưởng, như nó đã từng là thế, mù mờ và tối nghĩa: nhiệm vụ của triết học là làm cho chúng trở nên sáng tỏ và đưa lại cho chúng những ranh giới rõ ràng” (Tractatus 4.112). Một mặt, quan điểm như vậy về triết học có một ý nghĩa sâu xa – nó phủ nhận tính chất giáo điều của triết học truyền thống, điều này được đánh giá là một bước tiến trong quá trình xem xét lại bản chất của triết học. Mặt khác, nó lại làm cho bản thân Tractatus phải đối mặt với nguy cơ rơi vào tình trạng “phi ý nghĩa”. Bởi “những khái niệm mà Tractatus sử dụng – những khái niệm triết học - lôgíc – không thuộc về thế giới và vì thế không thể được sử dụng để diễn đạt bất cứ cái gì có nghĩa”(8). Wittgenstein đã “giải quyết” tình trạng này bằng ẩn dụ về cái thang ở những câu cuối cùng của tác phẩm: “Những mệnh đề của tôi được đưa ra với tư cách những giải thích theo nghĩa sau: ai hiểu tôi rốt cuộc sẽ thấy rằng chúng là phi ý nghĩa, khi anh ta đã sử dụng chúng – như những bậc thang – để leo lên trên chúng. (Anh ta phải, có thể nói như vậy, vứt cái thang đi sau khi đã dùng nó để leo lên cao). Anh ta phải vượt qua những mệnh đề đó và từ đó, có thể nhìn rõ thế giới” (Tractatus 6.54). Có thể nói, Tractatus đã bao quát toàn bộ tư tưởng của Wittgenstein thời sơ kỳ. Chính ông – sau khi xuất bản tác phẩm – đã coi nó như sự giải quyết triệt để mọi “vấn nạn triết học” và không còn việc gì để làm trong triết học nữa. Tuy nhiên, rốt cuộc, Wittgenstein đã không dừng lại ở Tractatus. Càng về sau, ông càng nhận thấy Tractatus có những thiếu sót, rồi những sai lầm xuất phát từ chính những giả định đầu tiên của nó. Ông đã đi đến phủ nhận tác phẩm này của mình và trên cơ sở phá huỷ những nền tảng của Tractatus mà xây dựng những quan điểm hoàn toàn mới. Điều này tạo nên giai đoạn thứ hai trong tiến trình tư tưởng của Wittgenstein, được đại diện bởi Những nghiên cứu triết học. 2. Wittgenstein hậu kỳ và Những nghiên cứu triết học Những nghiên cứu triết học được xuất bản vào năm 1953, bao gồm hai phần. Phần I do chính Wittgenstein hoàn thiện, được dự định phát hành năm 1946 nhưng sau đó, ông lại đề nghị huỷ việc in. Phần II do những người biên tập – những người được uỷ thác trông coi và khai thác di sản của Wittgenstein – thêm vào. Trong Lời nói đầu (viết năm 1945), Wittgenstein viết: “Trong 4 năm qua, tôi đã có điều kiện đọc lại tác phẩm đầu tiên của mình (Tractatus Logico-Philosophicus) và giải thích những tư tưởng của nó. Sau đó, tôi chợt nghĩ rằng, mình nên công bố những tư tưởng trước đây cùng với những tư tưởng mới, bởi những tư tưởng mới chỉ có thể được xem xét rõ ràng khi được đặt trên và trong sự đối lập với phông nền những cách thức suy nghĩ cũ”(9). Quả vậy, hầu hết nội dung phần I của Những nghiên cứu triết học đều dựa trên sự phê phán đối với những quan điểm trong Tractatus. “Wittgenstein nghĩ rằng, trong tác phẩm trước kia của mình, như những nhà triết học khác, ông đã đơn giản hoá quá mức mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới. Liên kết ngôn ngữ và thế giới đã chỉ được đặt trên hai điểm chủ yếu: liên kết giữa tên gọi và đơn thể và sự đối xứng hay phi đối xứng giữa mệnh đề và sự kiện. Ông đi đến nhận xét rằng, điều này là một sai lầm nghiêm trọng”(10), mang nặng tính hình thức và bỏ qua những khía cạnh đặc biệt quan trọng khác của ngôn ngữ - khả năng giao tiếp, bối cảnh hoạt động người, văn hoá… Phủ nhận những tư tưởng của chính mình trong Tractatus, phủ nhận cả hệ thống những thuật ngữ được sử dụng trong tác phẩm đó (sự kiện, sự kiện nguyên tử, mệnh đề sơ đẳng, đơn tố, đơn thể, trạng huống sự việc, v.v.), Wittgenstein đã xây dựng những quan niệm mới dựa trên những thuật ngữ cũng hoàn toàn mới. Vấn đề ngữ nghĩa (của mệnh đề trong ngôn ngữ) và trò chơi ngôn ngữ Nếu như trong Tractatus, Wittgenstein nói về nghĩa của mệnh đề trong ngôn ngữ với tư cách sự đại diện, nghĩa của mệnh đề được quan niệm: “Chỉ có mệnh đề là có nghĩa; chỉ có trong ngữ cảnh của một mệnh đề thì tên gọi mới có ý nghĩa” (Tractatus 3.3), thì trong Những nghiên cứu triết học, vấn đề ngữ nghĩa được xem xét từ một cái nhìn rộng rãi hơn nhiều: “Đối với phần lớn các trường hợp – dù không phải là toàn bộ - mà trong đó, chúng ta sử dụng từ “ngữ nghĩa” thì nó phải được định nghĩa: ngữ nghĩa của một từ là việc sử dụng nó trong ngôn ngữ”(11). Rõ ràng, đây là một bước ngoặt trong việc nghiên cứu vấn đề ngữ nghĩa của mệnh đề. Việc cho rằng chỉ trong quá trình sử dụng ngữ nghĩa của từ mới được xác định đã khiến cho ngữ nghĩa mở rộng hơn, đa dạng hơn rất nhiều. “Khi tìm hiểu nghĩa, nhà triết học buộc phải “nhìn và thấy” sự đa dạng của việc sử dụng từ trong ngữ cảnh của nó (…). Trong việc tạo nghĩa cho một từ, mọi sự tổng quát hoá mang tính giải thích đều bị thay thế bởi sự mô tả về việc sử dụng”(12). Không có tổng quát hoá mà chỉ còn mô tả, đó là một cách thức đấu tranh với những tín điều triết học – theo quan điểm của Wittgenstein. Việc mô tả sự đa dạng của việc sử dụng từ (và mệnh đề) với tư cách ngữ nghĩa của từ (và mệnh đề) đã dẫn đến quan niệm của Wittgenstein về “trò chơi ngôn ngữ”. Trung thành với quan điểm không tổng quát hoá, Wittgenstein không đưa ra bất cứ định nghĩa cố định nào về trò chơi ngôn ngữ, mà chỉ trở đi trở lại với nó thông qua hàng loạt những ví dụ và bình phẩm. A.Kenny đã viết về trò chơi ngôn ngữ trong tư tưởng của Wittgenstein như sau: “Wittgenstein đưa ra những ví dụ cho trò chơi ngôn ngữ: thực hiện và ra mệnh lệnh, mô tả sự xuất hiện của đối tượng, diễn đạt cảm xúc, đo lường, xây dựng một đối tượng dựa trên sự mô tả về nó, tường thuật lại một sự kiện, suy xét về một sự kiện, bịa ra một câu chuyện, đóng kịch, đoán những câu đố, kể chuyện cười, hỏi, nguyền rủa, chào đón, cầu nguyện. Ông cũng nói về trò chơi ngôn ngữ bằng rất nhiều từ ngữ khác nhau. Wittgenstein không đề xuất một học thuyết chung nào về trò chơi ngôn ngữ: việc sử dụng thuật ngữ này chỉ mang ý nghĩa nhấn mạnh rằng từ ngữ không thể được hiểu ở bên ngoài ngữ cảnh chúng được sử dụng. Trong việc đưa lại một sự mô tả về nghĩa của một từ, chúng ta cần tìm kiếm cái vai trò mà nó đóng trong cuộc sống của chúng ta. Việc sử dụng thuật ngữ “trò chơi” không phải để ám chỉ rằng ngôn ngữ là một thứ gì đó tầm thường, mà từ này được chọn vì trò chơi bộc lộ cùng một kiểu đa dạng mà các hoạt động ngôn ngữ bộc lộ. Nhiều trò chơi có tính cạnh tranh, nhiều trò khác thì không; nhiều trò chơi có luật chơi, nhiều trò khác có tính tự phát; nhiều trò chơi với bóng, nhiều trò chơi trên các loại bàn khác nhau; nhiều trò chơi đòi hỏi kỹ năng, nhiều trò không. Không có điểm chung nào biểu thị trò chơi với tư cách trò chơi; mà đúng hơn, các trò chơi khác nhau chia sẻ những đặc điểm khác nhau, giống như những thành viên khác nhau trong một gia đình có những điểm tương tự nhau không phải theo một cách duy nhất, mà theo rất nhiều cách. Tương tự như thế, không có một đặc điểm mang tính bản chất cho ngôn ngữ; chỉ có sự tương tự như trong gia đình giữa vô số những trò chơi ngôn ngữ”(13). Sự tuân thủ quy tắc Ngoài việc “chia sẻ những điểm tương tự mang tính gia đình” với nhau, các trò chơi ngôn ngữ trong quan điểm của Wittgenstein còn có những đặc tính khác: tính xã hội và tính hiện diện của luật lệ (khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” chứa đựng đặc điểm tuân thủ quy tắc của ngôn ngữ). “Ngữ nghĩa của từ được định đoạt bởi các quy tắc ngữ pháp giống như là luật chơi trong trò chơi ngôn ngữ đó. Các quy tắc ngữ pháp hay “luật chơi” này thể hiện tính xã hội của trò chơi ngôn ngữ, vì chúng đòi hỏi những người tham dự vào trò chơi này trong quá trình chơi (hay sử dụng ngôn ngữ) phải thường xuyên nhất trí (về luật chơi) với nhau để có thể tiến hành trò chơi một cách nhất quán. Bởi khi tham dự vào một hoạt động có sự hiện diện của luật lệ thì phải chấp nhận rằng, trong hoạt động đó có những cách thức được quy định (được coi là hợp lệ) để duy trì và thực thi hoạt động đó. Tương tự như vậy, trong ngôn ngữ có sự hiện diện của luật lệ, mà để có thể tham dự được, người ta phải tuân thủ theo luật chơi. Nếu như không có các chuẩn mực xã hội xác định ngữ nghĩa của ngôn từ thì chúng ta không thể tiếp nhận được ngữ nghĩa của ngôn từ từ những thành viên khác trong xã hội hay cộng đồng để duy trì hoạt động giao tiếp cũng như các hoạt động sống khác. Ngữ nghĩa của ngôn từ, theo Wittgenstein, được quy định bởi các cách sử dụng và thực tiễn sử dụng đã được chấp nhận và trở thành quy chuẩn trong thực tế hoạt động của cộng đồng cụ thể của con người”(14). Nhưng khi nói đến “quy tắc” thì dường như, quan điểm của Wittgenstein bị rơi vào một mâu thuẫn: ở trên, ông đã theo lập trường chống chủ nghĩa giáo điều triệt để, thậm chí đã không đặt ra định nghĩa cho khái niệm mang tính then chốt nhất là “trò chơi ngôn ngữ”, mà ở đây lại cho rằng không thể không có quy tắc. Thật ra, vấn đề nằm ở chỗ quy tắc được Wittgenstein xem xét lại không giống như quy tắc theo quan điểm truyền thống. Theo quan điểm truyền thống, “quy tắc là một thực thể trừu tượng - vượt khỏi mọi sự ứng dụng cụ thể của nó; hiểu biết về quy tắc bao hàm việc nắm được thực thể trừu tượng ấy và do đó, biết cách sử dụng nó như thế nào”(15). Còn trong quan điểm của Wittgenstein, vấn đề lại là như sau: “Với từ “quy tắc” (rule), Wittgenstein không có ý nói đến một tiêu chuẩn trừu tượng mà theo đó, một hành vi nào đó có thể được đánh giá là sai hay đúng. Đúng hơn, ông có ý nói đến một chi tiết (item) cụ thể, như là một tiếng động, dấu hiệu hoặc cử chỉ, được bộc lộ ra trước một người và thông qua việc chú tâm đến đó, con người định đoạt hành vi ứng xử của mình, liên kết giữa quy tắc và sự hưởng ứng (ứng đáp) đã được tiếp thu và được quy ước. Một phần lớn hành động của con người có thể được xem xét như là những biểu hiện (thể hiện) của sự tuân thủ quy tắc. Chúng bao gồm sự bắt chước những cử chỉ và tiếng động do người khác gây ra, sự sao chép những hình thức, sự biến đổi những dấu hiệu ra tiếng động như trong việc đọc nhạc, hát lên những chuỗi âm thanh thành bài nhạc và v.v.. Một cách chung hơn, những xử sự bằng hành động - đáp lại chỉ dẫn bằng lời nói (đưa cho một cuốn sách khi được yêu cầu chẳng hạn) - và cả những phát biểu mang tính ngôn từ (ở điểm mà bản thân thế giới là chỉ dẫn và lời phát biểu là sự đáp lại) cũng đều có thể được miêu tả như là sự tuân thủ quy tắc. Sự tuân thủ quy tắc, vì vậy, là nhân tố trung tâm trong thẩm năng ngôn ngữ. Thêm nữa, nếu chúng ta chấp nhận rằng, để sử dụng một ngôn ngữ phong phú và mang tính biểu đạt là một phần không thể thiếu của việc hiểu thấu những quan niệm phức tạp và có những phán đoán có tính phản tư, thì sự tuân thủ quy tắc cũng là yếu tố trung tâm trong cuộc sống của chúng ta với tư cách sinh vật biết tư duy”(16). Ngôn ngữ tư nhân Những lập luận về sự tuân thủ quy tắc và tính xã hội của trò chơi ngôn ngữ khiến cho khái niệm “ngôn ngữ tư nhân” thường được nhắc đến trong lịch sử triết học với tên gọi “lập luận ngôn ngữ tư nhân” – cái có tính vấn đề, bởi trên thực tế, Wittgenstein không dùng cách gọi ấy. Như trên đã nói, ngôn từ chỉ có nghĩa khi được sử dụng trong xã hội, khi con người tham gia vào “trò chơi ngôn ngữ” có tính xã hội và theo những quy tắc do các điều kiện sinh sống cụ thể của con người đặt ra. Vậy, cái gọi là “ngôn ngữ tư nhân” – “những từ ngữ của cá nhân, có quan hệ với cái mà chỉ người nói ra mới hiểu được, với cảm xúc riêng tư nhất thời của anh ta” (Những nghiên cứu triết học 243) không thể là thứ ngôn ngữ xác thực, đúng nghĩa và đúng quy tắc. Wittgenstein nói đến ngôn ngữ tư nhân để làm gì? A.Kenny cho rằng, đó là để “chống lại tác giả của Tractatus, người đã ủng hộ chủ nghĩa duy ngã. Chủ nghĩa duy ngã là một học thuyết dựa trên luận điểm “chỉ có Tôi là tồn tại”. Trong Tractatus, Wittgenstein viết: “Cái mà chủ nghĩa duy ngã muốn nói đến sẽ đúng khi điều đó không được nói lên mà chỉ được thể hiện ra. Tư tưởng cho rằng thế giới là thế giới của tôi tự thể hiện ra như là những giới hạn của ngôn ngữ (thứ ngôn ngữ mà tôi hiểu) cũng có nghĩa là giới hạn của thế giới của tôi”. Dần dần, khi tư tưởng của Wittgenstein đã phát triển, ông đi đến chỗ cho rằng, dù với tư cách một bộ phận của triết học không nói lên được, thì chủ nghĩa duy ngã cũng là một sự xuyên tạc thực tại. Thế giới là thế giới của tôi chỉ khi ngôn ngữ là ngôn ngữ của tôi: một ngôn ngữ được tạo tác bởi sự liên kết những từ ngữ của riêng tôi với thế giới. Nhưng, ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ của tôi; nó là ngôn ngữ của chúng ta. Lập luận ngôn ngữ tư nhân thể hiện rằng không có bất kỳ định nghĩa riêng tư nào có thể tạo nên một loại hình ngôn ngữ. Ngôi nhà của ngôn ngữ khôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfy_3949.pdf
Tài liệu liên quan